Bản án số 4831/2024/DS-ST ngày 17/09/2024 của TAND TP. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 4831/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 4831/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 4831/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 4831/2024/DS-ST ngày 17/09/2024 của TAND TP. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Thủ Đức (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
Số hiệu: | 4831/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 4381/2024/DS-ST
Ngày: 17-9-2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Lệ Quyên
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Đặng Thị Thu Oanh
2. Ông Trần Đăng Vạn
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Hải Yến là Thư ký Tòa án của Tòa án nhân
dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Trần Võ Hồng Duyên – Kiểm sát viên.
Trong ngày 17 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ
Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
875/2024/TLST-DS ngày 26 tháng 4 năm 2024 về việc tranh chấp hợp đồng vay
tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 7296/2024/QĐXXST-DS ngày 28
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần K (tên viết tắt: T1)
Trụ sở: Số F Q, Phường T, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Kiều Quang H, sinh năm
1997 là đại diện ủy quyền theo Giấy ủy quyền số: 2179-02/2024/GUQ-TCB ngày
13/8/2024
Địa chỉ liên hệ: PF-05, Tầng L (S) - số I N, Phường B, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn:
2.1/ Ông Nguyễn Phạm T, sinh năm 1982
2.2/ Bà Cao Thị D1, sinh năm 1990
Cùng địa chỉ: Số F Đường A, Khu phố I (Tổ 4, khu phố Ông N cũ), phường
L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Tất cả các đương sự đều có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Trong đơn khởi kiện, lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa, người đại diện
hợp pháp của nguyên đơn – Ngân hàng Thương mại Cổ phần K trình bày:
Ngày 20/01/2020, ông Nguyễn Phạm T và bà Cao Thị D1 đã ký kết Đề nghị
giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số:
PDP202071012977/HDTD để vay tiền của Ngân hàng TMCP K. Nội dung hợp
đồng cụ thể như sau:
+ Số tiền vay gốc: 700.000.000 đồng;
+ Thời hạn vay là 84 tháng;
+ Lãi suất: trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày nhận nợ là 8,99%/tháng, sau
đó điều chỉnh theo từng thời kỳ với biên độ 3%/năm;
+ Mục đích vay: Vay mua xe ô tô;
+ Ngày nhận nợ: 21/01/2020.
Để đảm bảo cho khoản vay trên, vào ngày 20/01/2020 bà Cao Thị D1 và
ông Nguyễn Phạm T đã ký với T1 Hợp đồng thế chấp (tài sản bảo đảm là Động
sản) số: PDP202071012977/HDTC đã đăng ký giao dịch bảo đảm ngày
22/01/2020. Tài sản thế chấp là: Xe ô tô biển kiểm soát 51H-722.76, số máy:
BN27384B12, số khung: GF3MK1000433, nhãn hiệu Misubishi, loại ô tô con,
màu sơn trắng – đen (theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 547603 do Phòng
C – Công an Thành phố H cấp ngày 04/01/2020 do bà Cao Thị D1 đứng tên sở
hữu).
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông T và bà D1 mới chỉ thanh toán cho
T1 được số tiền gốc là 141.684.453 đồng và tiền lãi là 80.935.886 đồng. Do ông
T và bà D1 nhiều lần vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 18/10/2021 T1 đã
ban hành Thông báo số: 0001254/2021/TB-AMC về việc thu hồi nợ trước hạn.
Tính đến ngày hôm nay (17/9/2024), ông T và bà D1 còn nợ T1 tổng số tiền
818.111.060,70 đồng (trong đó: nợ gốc là 558.315.547 đồng, lãi trong hạn là
147.231.244 đồng, nợ lãi quá hạn là 85.671.805,44 đồng và lãi phạt chậm trả là
26.892.464,27 đồng) theo Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế
ước nhận nợ số: PDP202071012977/HDTD ngày 20/01/2020.
Nay T1 yêu cầu ông T, bà D1 phải thanh toán ngay một lần số tiền còn nợ
nêu trên và ông T, bà D1 phải tiếp tục chịu lãi phát sinh kể từ ngày 18/9/2024 cho
đến khi thanh toán xong nợ. Trường hợp ông T, bà D1 không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán nêu trên thì T1 được quyền yêu cầu Cơ quan
Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm đã được đăng ký giao
dịch bảo đảm ngày 22/01/2020 để thu hồi nợ. Trong trường hợp giá trị tài sản bảo
đảm sau khi phát mãi không đủ để thực hiện nghĩa vụ đảm bảo thì ông Nguyễn
Phạm T và bà Cao Thị D1 phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền còn
thiếu cho T1 theo Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận
nợ số: PDP202071012977/HDTD ngày 20/01/2020. Trường hợp giá trị tài sản
bảo đảm sau khi phát mãi nhiều hơn nghĩa vụ thanh toán được đảm bảo thì ông
Nguyễn Phạm T, bà Cao Thị D1 được nhận lại số tiền còn dư này.
3
Theo lời khai tại phiên hòa giải ngày 14/8/2024 và tại phiên tòa, các bị đơn
là ông Nguyễn Phạm T và bà Cao Thị D1 thống nhất trình bày:
Vợ chồng ông T, bà D1 thống nhất với phần trình bày của người đại diện
hợp pháp của T1 về việc ký kết, thực hiện hợp đồng tín dụng và ký kết hợp đồng
thế chấp giữa vợ chồng ông bà với T1. Ông bà xác nhận tính đến ngày 17/9/2024
còn nợ lại T1 số tiền nợ gốc là 558.315.547 đồng và không xác định được số tiền
nợ lãi.
Vợ chồng ông T, bà D1 xin chỉ trả nợ gốc cho T1 và xin Ngân hàng miễn
toàn bộ nợ lãi còn lại. Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ sau dịch Covid-19 nên việc trả
nợ gặp nhiều khó khăn, ông bà đề nghị được trả số tiền nợ gốc 558.315.547 đồng
làm 03 lần, cụ thể: vào các ngày 30/8/2024 và ngày 30/8/2025 mỗi lần sẽ trả số
tiền là 186.000.000 đồng, vào ngày 30/8/2026 sẽ trả hết số tiền gốc còn lại. Nếu
ông bà không thanh toán hoặc thanh toán không đúng như phương án nêu trên thì
ông bà đồng ý để Ngân hàng phát mãi tài sản bảo đảm: Xe ô tô biển kiểm soát
51H-722.76, số máy: BN27384B12, số khung: GF3MK1000433, nhãn hiệu
Misubishi, loại ô tô con, màu sơn trắng – đen (theo Giấy chứng nhận đăng ký xe
ô tô số 547603 do Phòng C – Công an Thành phố H cấp ngày 04/01/2020 do bà
Cao Thị D1 đứng tên sở hữu) để thu hồi nợ. Đồng thời đề nghị Ngân hàng cung
cấp giấy tờ để xe có thể lưu thông và hỗ trợ thay đổi mục đích sử dụng của xe ô
tô từ sử dụng cá nhân sang sử dụng cho mục đích kinh doanh để ông bà có thể
khai thác, sử dụng xe.
Từ cuối năm 2020, khi Ngân hàng không gia hạn giấy tờ để xe lưu thông
và đăng kiểm thì ông T, bà D1 đã liên hệ trực tiếp để làm việc với T1 từ hội sở
đến phòng giao dịch rất nhiều lần để đề nghị thanh lý hợp đồng và có phương án
trả nợ nhưng tất cả các lần làm việc với Ngân hàng đều không có văn bản, Ngân
hàng có lập biên bản nhưng cũng không cung cấp cho ông bà. Sự việc kéo dài đến
nay nên ông bà không đồng ý với số tiền lãi mà Ngân hàng yêu cầu trả. Hiện nay,
xe vẫn đang đậu đỗ tại sân đình L, đường số A, phường L, thành phố T, ông bà
không thể sử dụng xe nên đề nghị Ngân hàng xem xét miễn toàn bộ tiền lãi để ông
bà có khả năng điều kiện trả toàn bộ tiền gốc còn nợ.
Tại phiên tòa, các bị đơn chỉ đồng ý trả nợ gốc, không đồng ý trả lãi theo
yêu cầu của nguyên đơn. Ông T yêu cầu khi xử lý tài sản bảo đảm thì phải có sự
đồng ý của ông vì cho rằng giữa ông T và bà D1 có sự góp vốn hợp tác đầu tư.
Trong phần tranh tụng tại phiên tòa, ông T nhiều lần gây mất trật tự dù đã
được các thành viên Hội đồng xét xử nhắc nhở, ông T tự ý rời khỏi phòng xử án
mà không có sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa.
Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Thẩm phán thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn
theo quy định của pháp luật; Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng
đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Xác định đúng người tham gia tố
tụng; Hội đồng xét xử thực hiện đúng quyền hạn theo quy định của pháp luật.
4
Về nội dung vụ án: Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên đề nghị Tòa
án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ lời khai của đương sự trong hồ sơ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng
Thương mại Cổ phần K nộp đơn khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Phạm T và bà
Cao Thị D1 phải thanh toán khoản nợ còn thiếu theo Đề nghị giải ngân kiêm hợp
đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số: PDP202071012977/HDTD ngày
20/01/2020; ông T và bà D1 có nơi cư trú tại phường L, thành phố T, Thành phố
Hồ Chí Minh. Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh theo
quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Phạm T tự ý rời khỏi phòng xử
án khi phiên tòa đang diễn ra không có lý do chính đáng và chưa được Chủ tọa
phiên tòa đồng ý. Xét yêu cầu của các đương sự còn lại và đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát về việc tiếp tục xét xử mà không có mặt của ông T nên Hội đồng
xét xử chấp nhận tiếp tục xét xử vắng mặt ông T.
[3] Xét yêu cầu của đương sự:
[3.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn trả nợ gốc:
Căn cứ vào Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận
nợ số: PDP202071012977/HDTD ngày 20/01/2020, bảng sao kê tín dụng, bảng
chiết tính lãi do nguyên đơn cung cấp và lời khai của các đương sự, có cơ sở xác
định ông Nguyễn Phạm T và bà Cao Thị D1 đã vay của T1 số tiền 700.000.000
đồng trong thời hạn 84 tháng để trả tiền mua xe ô tô với mức lãi suất là
8,99%/tháng áp dụng trong 12 tháng kể từ ngày nhận nợ và sau đó sẽ được điều
chỉnh theo từng thời kỳ với biên độ là 3%/năm. Xét hợp đồng tín dụng nêu trên
giữa các bên có hình thức đúng quy định của pháp luật, nội dung các bên thỏa
thuận trong Hợp đồng tín dụng không vi phạm điều cấm của pháp luật, các bên tự
nguyện ký kết Hợp đồng tín dụng nên Hợp đồng tín dụng này phù hợp với quy
định tại Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), có giá trị pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, vợ chồng ông T và bà D1 đã thanh toán cho
T1 141.684.453 đồng tiền gốc và 80.935.886 đồng tiền lãi. Bị đơn đã vi phạm
nghĩa vụ thanh toán về thời hạn ngay từ kỳ thanh toán đầu tiên theo quy định tại
mục 3.3 Điều 3 Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ
số: PDP202071012977/HDTD ngày 20/01/2020 nên ngày 18/10/2021 T1 đã ban
hành Thông báo số: 0001254/2021/TB-AMC về việc thu hồi nợ trước hạn. Tính
đến nay, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền gốc là 558.315.547 đồng. Căn cứ quy
định tại khoản 1 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, T1 có quyền thu
5
hồi nợ trước hạn trong trường hợp bên được cấp tín dụng là ông T, bà D1 vi phạm
nghĩa vụ thanh toán được quy định tại hợp đồng cấp tín dụng. Do vậy, xét yêu cầu
của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán ngay một lần toàn bộ nợ gốc sau khi
án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 280
Bộ luật Dân sự năm 2015.
[3.2] Xét yêu cầu của nguyên đơn về trả tiền lãi:
Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và quá trình tranh tụng tại Tòa
án, xác định bị đơn trong quá trình thực hiện hợp đồng đã nhiều lần vi phạm nghĩa
vụ thanh toán đối với nguyên đơn. Căn cứ hợp đồng tín dụng thì lãi suất cho vay
tại thời điểm giải ngân là 8,99%/năm, cố định trong 12 tháng đầu tiên; sau đó điều
chỉnh định kỳ 01 tháng một lần, bằng lãi suất cơ sở vay mua ô tô dài hạn (+) với
biên độ 3,00%/năm nhưng không thấp hơn lãi suất cho vay tối thiểu được T1 quy
định theo từng thời kỳ, tương ứng từng đối tượng khách hàng; lãi suất quá hạn
bằng 150% lãi suất vay trong hạn tính từ thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất
chậm trả bằng 10% tính trên số tiền lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm
trả…
Ngày 18/10/2021, T1 đã ban hành Thông báo số 0001254/2021/TB-AMC
về việc thu hồi nợ trước hạn. Căn cứ vào các mục 1.5, 1.6, 1.7 Điều 1 của hợp
đồng tín dụng thì việc nguyên đơn chuyển toàn bộ nợ gốc sang nợ quá hạn và yêu
cầu bị đơn phải trả tiền lãi quá hạn, lãi phạt chậm trả tính trên từng kỳ vi phạm
nghĩa vụ thanh toán cho đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 17/9/2024) với tổng số
tiền 259.795.513,70 đồng là có cơ sở chấp nhận phù hợp với quy định tại Điều 91
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
[3.3] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế chấp:
Căn cứ Hợp đồng thế chấp (tài sản bảo đảm là Động sản) số:
PDP202071012977/HDTC ngày 20/01/2020 đã đăng ký giao dịch bảo đảm tại
Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/01/2020,
Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 547603 do Phòng C – Công an Thành phố H
cấp ngày 04/01/2020 do bà Cao Thị D1 đứng tên sở hữu thì việc bị đơn dùng tài
sản thuộc sở hữu của mình (mô tả tài sản: Xe ô tô biển kiểm soát 51H-722.76, số
máy: BN27384B12, số khung: GF3MK1000433, nhãn hiệu Misubishi, loại ô tô
con, màu sơn trắng – đen) thế chấp cho nguyên đơn để đảm bảo cho khoản vay
700.000.000 đồng. Xét thấy, việc hai bên ký hợp đồng thế chấp là hoàn toàn tự
nguyện, tài sản thế chấp được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Từ đó
đủ căn cứ xác định hình thức và nội dung hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên là
phù hợp với quy định pháp luật nên có giá trị đảm bảo cho việc thanh toán cho số
tiền theo Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số:
PDP202071012977/HDTD ngày 20/01/2020. Do yêu cầu của nguyên đơn về việc
xử lý tài sản thế chấp nêu trên phù hợp với quy định tại khoản 7 Điều 323, Điều
299 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu
của nguyên đơn về việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bị đơn không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
6
Xét các đề nghị của bị đơn về việc không trả lãi, chỉ trả nợ gốc chia làm 03
đợt thanh toán cũng như đề nghị Ngân hàng cung cấp giấy tờ để xe có thể lưu
thông và hỗ trợ thay đổi mục đích sử dụng của xe ô tô từ sử dụng cá nhân sang sử
dụng cho mục đích kinh doanh để ông bà có thể khai thác, sử dụng xe, là không
được nguyên đơn chấp nhận nên không có cơ sở xem xét.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tại
phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4] Về án phí và chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được
chấp nhận nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 và Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Phạm T
và bà Cao Thị D1 phải liên đới chịu án phí sơ thẩm. Nguyên đơn được hoàn lại
tiền tạm ứng án phí.
Nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ (đã
thực hiện xong).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 234, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015;
Căn cứ vào Điều 280, 292, 293, 298, 299, 303, 317, 318, 319 và Điều 323
của Bộ luật Dân sự năm 2015 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 91, 95, 98 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010
(sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ vào Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm và Thông báo số 15/TB-HĐTP
ngày 11/01/2019;
Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn – Ngân hàng Thương mại
Cổ phần K:
Buộc ông Nguyễn Phạm T và bà Cao Thị D1 có nghĩa vụ liên đới thanh
toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần K số tiền 818.111.060,70 đồng (trong
đó: nợ gốc là 558.315.547 đồng, lãi trong hạn là 147.231.244 đồng, nợ lãi quá hạn
là 85.671.805,44 đồng và lãi phạt chậm trả là 26.892.464,27 đồng) theo Đề nghị
7
giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số:
PDP202071012977/HDTD ngày 20/01/2020, thanh toán một lần ngay sau khi bản
án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
ông Nguyễn Phạm T và bà Cao Thị D1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ
gốc chưa thi hành theo mức lãi suất các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến
khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các
bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân
hàng Thương mại Cổ phần K thì lãi suất sẽ được tiếp tục điều chỉnh tại giai đoạn
thi hành án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của T1, nếu ông Nguyễn Phạm T và
bà Cao Thị D1 không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán
thì T1 có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài
sản thế chấp là chiếc xe ô tô biển kiểm soát 51H-722.76, số máy: BN27384B12,
số khung: GF3MK1000433, nhãn hiệu Misubishi, loại ô tô con, màu sơn trắng –
đen theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 547603 do Phòng C – Công an
Thành phố H cấp ngày 04/01/2020 do bà Cao Thị D1 đứng tên sở hữu để thu hồi
nợ theo Hợp đồng thế chấp (tài sản bảo đảm là Động sản) số:
PDP202071012977/HDTC ngày 20/01/2020, đã đăng ký giao dịch bảo đảm tại
Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/01/2020.
Trong trường hợp giá trị tài sản bảo đảm sau khi phát mãi không đủ để thực hiện
nghĩa vụ đảm bảo thì ông Nguyễn Phạm T và bà Cao Thị D1 phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền còn thiếu cho T1 theo Đề nghị giải ngân kiêm
hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số: PDP202071012977/HDTD ngày
20/01/2020. Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm sau khi phát mãi nhiều hơn nghĩa
vụ thanh toán được đảm bảo thì ông Nguyễn Phạm T, bà Cao Thị D1 được nhận
lại số tiền còn dư này.
Ngay sau khi ông Nguyễn Phạm T, bà Cao Thị D1 thực hiện xong nghĩa vụ
trả nợ theo Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số:
PDP202071012977/HDTD ngày 20/01/2020, T1 có trách nhiệm trả lại cho ông
T, bà D1 toàn bộ giấy tờ của tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp (tài sản bảo
đảm là Động sản) số: PDP202071012977/HDTC ngày 20/01/2020, đăng ký giao
dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh
ngày 22/01/2020.
2. Về án phí và chi phí tố tụng:
Ông Nguyễn Phạm T và bà Cao Thị D1 phải liên đới chịu án phí dân sự sơ
thẩm là: 36.543.332 đồng, nộp tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần K số tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 17.382.803 đồng theo Biên lai thu tạm ứng số: 0025673 ngày 18/3/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần K tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ (đã thực hiện xong).
8
3. Về quyền yêu cầu thi hành án:
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của
Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND TP. Thủ Đức;
- Chi cục THADS TP. Thủ Đức;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Lệ Quyên
Tải về
Bản án số 4831/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 4831/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm