Bản án số 48/2020/HNGĐ-ST ngày 03/09/2020 của TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa về ly hôn, tranh chấp nuôi con

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 48/2020/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 48/2020/HNGĐ-ST ngày 03/09/2020 của TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Nga Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 48/2020/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/09/2020
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Trần Thị L yêu cầu xin ly hôn anh Đỗ Văn C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 48/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 133/2020/TLST – HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/8/2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Trần Thị L – sinh năm 1990 (có mặt). Địa chỉ: Thôn 7, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

* Bị đơn: Anh Đỗ Văn C (K) – sinh năm 1981 (Ngày 21/7/2020 anh C có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 7, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

* Theo đơn khởi kiện ngày 15/6/2020, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Trần Thị L trình bày:

Về hôn nhân : Chị và anh Đỗ Văn C (K) kết hôn ngày 26/8/2008 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C có tính gia trưởng, thường xuên coi thường chị, từ đó vợ chồng xảy ra cải vã, xô xát lẫn nhau, mâu thuẫn không thể giải quyết được, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân anh C được 02 năm nay, không quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm không còn, nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Văn C .

Về con chung: Chị và anh Đỗ Văn C có 03 con chung là Đỗ Thị Yến N – sinh ngày 17/4/2009, Đỗ Thị Quỳnh A – sinh ngày 15/3/2011 và Đỗ Thanh L – sinh ngày 25/3/2013. Sau khi ly hôn, chị L đề nghị giao cháu Quỳnh A cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao cháu Yến N và cháu Thanh L cho anh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị L và anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo bị đơn anh Đỗ Văn C (K) trình bày:

Về hôn nhân : Anh và chị Trần Thị L kết hôn ngày 26/8/2008 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị L bỏ nhà đi, không quan tâm đến chồng con, vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 02 năm. Nay chị L làm đơn xin ly hôn, vì anh là người công giáo, nên anh không đồng ý với chị L, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung : Anh và chị Trần Thị L có 03 con chung là Đỗ Thị Yến N – sinh ngày 17/4/2009, Đỗ Thị Quỳnh A – sinh ngày 15/3/2011 và Đỗ Thanh L – sinh ngày 25/3/2013. Nếu vợ chồng ly hôn, anh đề nghị được nuôi cả 03 cháu và không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản : Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Do vụ án liên quan đến người chưa thành niên, Tòa án tiến hành xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp theo quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Ngày 21/7/2020, anh Đỗ Văn C có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án, theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của đương sự :

- Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật. Nguyên đơn chị Trần Thị L và bị đơn anh Đỗ Văn C chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục về tố tụng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự không thống nhất được hướng giải quyết vụ án. Do vậy, ngày 14/8/2020 Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự. Ngày 21/7/2020 anh C có đơn xin xét xử vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh C theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Đỗ Văn C kết hôn ngày 26 tháng 8 năm 2008 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyện vọng xin ly hôn của chị L là hoàn toàn chính đáng, bởi cuộc sống hôn nhân của vợ chồng không có hạnh phúc, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên xung đột lẫn nhau, mâu thuẫn không thể giải quyết được. Chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân anh C, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Mặc dù anh C không đồng ý ly hôn, nhưng đó là do quy định của người theo công giáo. Hơn nữa, qua xác minh tại nơi cư trú và xem xét trên thực tế cuộc sống hôn nhân của vợ chồng, thể hiện tình cảm đã thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị L đối với anh Đỗ Văn C.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị L và anh Đỗ Văn C có 03 con chung là Đỗ Thị Yến N – sinh ngày 17/4/2009, Đỗ Thị Quỳnh A – sinh ngày 15/3/2011 và Đỗ Thanh L – sinh ngày 25/3/2013.

Xét thấy, cần giao cả 03 cháu Yến N, Quỳnh A và Thanh L cho anh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế. Bởi vì, qua xác minh được biết từ khi chị L bỏ nhà đi cho đến nay cả 03 cháu ở cùng với anh C, đang được anh C chăm sóc, nuôi dưỡng và học tập ổn định. Tại phiên tòa chị L đồng ý với đề nghị được chăm sóc, nuôi dưỡng cả 03 con của anh C. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án các cháu Yến N, Quỳnh A và Thanh L đã làm bản tự khai với nguyện vọng xin được ở với anh C.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, anh C không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung và tại phiên tòa chị L cũng đồng ý với đề nghị của anh C, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản: Chị Trần Thị L và anh Đỗ Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý,sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

* Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L. Cho chị Trần Thị L ly hôn anh Đỗ Văn C (K).

* Về con chung: Giao cả 03 cháu Đỗ Thị Yến N – sinh ngày 17/4/2009, Đỗ Thị Quỳnh A – sinh ngày 15/3/2011 và Đỗ Thanh L – sinh ngày 25/3/2013 cho anh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị L có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, anh C không được cản trở.

* Về án phí: Chị Trần Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị L đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2019/0010789 ngày 15/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chị L đã nộp đủ án phí.

* Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm. Chị L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Tải về
Bản án số 48/2020/HNGĐ-ST Bản án số 48/2020/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất