Bản án số 43/2025/HNGĐ-ST ngày 26/03/2025 của TAND huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 43/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 43/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 43/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 43/2025/HNGĐ-ST ngày 26/03/2025 của TAND huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Con Cuông (TAND tỉnh Nghệ An) |
Số hiệu: | 43/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bản án ly hôn giữa chị M và anh H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN CON CUÔNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH NGHỆ AN
Bản án số: 43 /2025/ST-HNGĐ
Ngày 26/3/2025.
“V/v Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”.
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN
Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lữ Thị Dung
Các hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Hào; Bà La Thị Huyền.
Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Lê - Thư ký Toà án nhân dân huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An tham gia
phiên toà: Bà Trần Thị Hoan - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 3 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông,
tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 181/2024/TLST-HNGĐ
ngày 23 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2025/QĐXX-ST, ngày 03 tháng 3 năm 2025
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lô Thị Trà M - sinh năm 2002 – có mặt.
- Bị đơn: Anh Lô M - sinh năm 2000 - vắng mặt.
Đều trú tại: Bản Q, xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An.
- Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm
Thế K - Trợ giúp viên thuộc trung tâm T. có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong quá trình giải quyết vụ án
cũng như tại phiên tòa, chị Lô Thị Trà M trình bày: Chị Lô Thị Trà M và anh L
Mày H kết hôn vào ngày 08/02/2022, đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C,
tỉnh Nghệ An, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng
chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2023 thì bắt đầu xẩy ra nhiều mâu thuẫn,
vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau, nguyên nhân do anh H không
chịu khó làm ăn, thường xuyên tụ tập bạn bè, không biết yêu thương vợ con, vợ
chồng không chia sẻ với nhau những khó khăn trong cuộc sống, không quan tâm
và yêu thương nhau nên tình cảm vợ chồng phai nhạt. Vợ chồng sống ly thân từ
2
năm 2023 cho đến nay không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng
không còn nên chị Lô Thị Trà M làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được
ly hôn với anh Lô Mày H.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 người con chung là Lô
Bảo L1, sinh ngày 15/7/2019, nếu ly hôn chị M có nguyện vọng trực tiếp nuôi con
chung và không yều cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con.
Về tài sản chung: Chị Lô Thị Trà M không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Vợ chồng chị Trà M không nợ tổ chức, cá nhân nào và cũng
không ai nợ vợ chồng chị.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm anh Lô Mày H đều vắng
mặt, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhiều lần nên Tòa án
không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 204; 207; 208 và
Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Về tình
cảm: Chị Lô Thị Trà M và anh L Mày Hải đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện
C, tỉnh Nghệ An trên cơ sở tự nguyện, đảm bảo các điều kiện về thủ tục kết
hôn.Tuy nhiên trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xẩy ra mâu
thuẫn, vợ chồng sống ly thân đã lâu không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị HĐXX
chấp nhận đơn khởi kiện cho chị Lô Thị Trà M được ly hôn với anh Lô Mày H; Về
con chung: Vợ chồng chị M co 01 người con chung là Lô Bảo L1, sinh ngày
15/7/2019, hiện tại anh H không có mặt ở địa phương, để đảm bảo quyền lợi của
con đề nghị HĐXX xem xét giao con chung cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng; Về
cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung của vợ chồng chị M không yêu cầu Tòa án
giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu
ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:
- Về tố tụng:
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ
đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng; nguyên đơn
chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định
tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 53; Điều 56
Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Lô Thị Trà M. Cho
chị Lô Thị Trà M được ly hôn với anh Lô Mày H và chấm dứt quan hệ hôn nhân
kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Về con chung: Giao con chung Lô B, sinh
3
ngày 15/7/2019 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản
chung của vợ chồng chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét;
Về án phí chị M phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình, bị đơn hiện cư trú tại bản Q,
xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải
quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và
Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Qua xác minh tình trạng hôn nhân của chị Lô Thị Trà M và anh Lô Mày H
tại UBND xã B, huyện C cho biết, sau khi đăng ký kết hôn chị M và anh H sinh
sống tại bản Quăn, xã B, huyện C, vợ chồng chung sống một thời gian ngắn thì
cùng nhau đi làm ăn xa, hiện tại anh H không có mặt ở địa phương đi đâu chính
quyền, địa phương không biết vì anh H không khai báo cắt khẩu tạm trú, tạm vắng.
Tại biên bản lấy lời khai ông Lô Văn Đ - Trú tại Bản Q, xã B, huyện C là bố đẻ
của anh L Mày H cho biết, sau khi chị M và anh H kết hôn thì sống tại gia đình
ông một thời gian, năm 2023 vợ chồng chị M cùng nhau đi làm ăn thì xẩy ra mâu
thuẫn nguyên nhân cụ thể thì ông không biết, gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần
nhưng chỉ được một thời gian ngắn lại xích mích, mâu thuẫn, hiện tại chị M về nhà
bố mẹ đẻ sinh sống, còn anh H đi làm ăn xa, địa chỉ cụ thể thì ông Đ không biết,
ông Đ cũng đã gọi điện thông báo cho anh H biết về việc ông đã nhận các văn bản
của Tòa án đến tống đạt cho anh H và khuyên nhủ anh H về giải quyết ly hôn
nhưng anh H không về.
Như vậy, bị đơn đã thay đổi nơi cư trú nhưng không thông báo cho người
khởi kiện biết về nơi cư trú mới. Theo quy định tại Điều 40; điểm b khoản 2 Điều
227 của Bộ luật tố tụng dân sự thì được coi là cố tình che giấu địa chỉ nên Tòa án
tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tụng chung là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a
khoản 2 Điều 6 nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lô Mày H đã được Tòa án tống đạt
hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến; Thông
báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải;
Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt
nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh L Mày H theo
quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lô M1
H không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện nên Tòa án
căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập
4
được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân
sự.
[2] Về nội dung:
Xét thấy chị Lô Thị Trà M và anh L Mày Hải đăng ký kết hôn vào ngày
08/02/2022, đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An, việc đăng ký
kết hôn là tự nguyện, không vi phạm quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn theo
quy định tại Điều 8; Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, quan hệ hôn
nhân giữa chị Lô Thị Trà M và anh Lô Mày H là hợp pháp.Sau khi kết hôn, vợ
chồng chị M phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân với nhau từ năm 2023 cho đến
nay, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, như vậy chị M và anh H đã vi phạm
tình nghĩa vợ chồng.
Tại phiên tòa anh L Mày H vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua
xác minh tại địa phương và gia đình cho biết: Quá trình kết hôn và chung sống vợ
chồng chị M và anh H xẩy ra nhiều mâu thuẫn và đã ly thân từ 2023 cho đến nay
không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, hiện tại anh H không có mặt ở địa phương
đi đâu chính quyền, địa phương không biết vì anh H không khai báo cắt khẩu tạm
trú, tạm vắng. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Lô Thị Trà M và anh L Mày H
không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được
nên cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện
xin ly hôn cho chị Lô Thị Trà M được ly hôn với anh Lô Mày H.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị M có 01 người con
chung là Lô Bảo L1, sinh ngày 15/7/2019. Nếu ly hôn chị M có nguyện vọng trực
tiếp nuôi con chung và không yều cầu anh Lô Mày H phải cấp dưỡng tiền nuôi
con. Do hiện nay anh H không có mặt ở địa phương, việc giao con cho anh H nuôi
dưỡng là không đảm bảo điều kiện về mọi mặt của con. Xét thấy nguyện vọng của
chị M là chính đáng, cháu Bảo L1 đang còn nhỏ, cần sự chăm sóc nuôi dưỡng của
người mẹ, để đảm bảo quyền lợi của con nên xét giao con chung cho chị M trực
tiếp nuôi dưỡng cho đến khi tròn 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con do
chị M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung: Chị Lô Thị Trà M và anh L Mày H không yêu cầu Tòa án giải
quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử
không xem xét.
Về án phí: Chị Lô Thị Trà M phải nộp án phí ly hôn theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84
Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207;
5
Điều 227; Điều 228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận
đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Lô Thị Trà M.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lô Thị Trà M được ly hôn với anh Lô Mày H.
Chị Lô Thị Trà M và anh L Mày H chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án
có hiệu lực pháp luật.
- Về con chung: Giao con chung Lô B, sinh ngày 15/7/2019 cho chị Lô Thị
Trà M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi tròn 18 tuổi, trưởng thành. Anh Lô M1 H
có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vì lợi ích mọi mặt
của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi cấp dưỡng
nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con. Chị M cùng các thành viên trong gia đình
không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Về án phí: Áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản
5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Lô Thị Trà M
phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị
M đã nộp 300.000 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An
theo biên lai thu tiền số 0000809 ngày 23/12/2024.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân
tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh NA; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- VKSND huyện Con Cuông; Đã ký
- Chi cục THADS huyện Con Cuông;
- Nguyên đơn, bị đơn;
- UBND xã B;
- Lưu hồ sơ -VP.
Lữ Thị Dung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm