Bản án số 43/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 43/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 43/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bn án s: 43/2025/DS-PT
Ngày 14-01-2025
V/v tranh chấp hợp đồng ủy quyền
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và hợp
đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Tấn Quốc
Các Thẩm phán Bà Lê Thị Kim Nga
Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
- Thư ký phiên tòa: Ông Khổng Văn Đa Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long
An.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Kim Chung - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An tiến
hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 569/2024/TLPT-DS ngày 07
tháng 11 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 113/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện Đức Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 488/2024/QĐ-PT ngày 26
tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Võ Thị T, sinh năm 1988;
2. Ông Nguyễn Trọng T1, sinh năm 1983.
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của T, ông T1: Ông Mai Thanh N, sinh năm
1989. Địa chỉ trú: Ấp V, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Địa chỉ tạm trú: Ô6,
Khu B, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Bà Lê Ngọc T2, sinh năm 1977. Địa chỉ cư trú: Số C, Khu B, thị trấn
H, huyện Đ, tỉnh Long An.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Huỳnh Lê C, sinh năm 1955;
2. Bà On Ngọc A, sinh năm 1957.
Người đại diện theo ủy quyền của A: Ông Huỳnh C, sinh năm 1955.
Cùng địa chỉ cư trú: Số A, đường S, Phường I, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông C: Kim D Luật sư
của Văn phòng L, thuộc Đoàn luật sư tỉnh L.
3. Ông Phan S, sinh năm 1975. Địa chỉ trú: Số B Ô, Khu B, thị trấn H,
huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông S: Bà Lê Ngọc T2, sinh năm 1977. Địa
chỉ cư trú: Số C, Khu B, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An.
4. Bùi Thị Ngọc T3, sinh năm 1985. Địa chỉ trú: Ấp L, L, huyện B,
tỉnh Bến Tre.
5. Văn phòng C1. Địa chỉ trụ sở: Ấp G, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Ngọc M - Trưởng văn phòng.
- Người kháng cáo: Ông Huỳnh C người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 10/5/2023, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 28/5/2023
lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa thẩm
của nguyên đơn Thị T ông Nguyễn Trọng T1 do ông Mai Thanh N
người đại diện theo ủy quyền có nội dung như sau:
Vợ chồng ông T1 T chủ sử dụng thửa đất 465, tbản đồ số 8, tại
T, diện tích 3.477m
2
, loại đất nông thôn, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (viết tắt GCNQSDĐ) số BK 924916 do Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND)
huyện Đ cấp ngày 30/7/2012 cho ông Nguyễn Trọng T1. Trên đất nhà cấp 4 do
vợ chồng ông T1 bà T đang ở. Ngày 28/10/2019, ông T1 bà T có vay 300.000.000đ
của Ngọc T2 ông Phan S để trả nợ Ngân hàng đất đang thế chấp
Ngân hàng (bà T2 hiệu trưởng trường mầm non T6 còn T giáo viên làm
cho T2). Bà T2 nói cần mượn GCNQSDĐ của vchồng T để vay vốn kinh
doanh nên điều kiện cho vay 300.000.000đ, không lãi vợ chồng T cho T2
mượn GCNQSDĐ bằng hình thức chuyển quyền sdụng đất, thời hạn 03 năm
T2 sẽ trả lại. Hai bên có làm văn bản thỏa thuận về nội dung này. Do đó vợ chồng
bà T mới ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tắt là HĐCNQSDĐ)
thửa đất nói trên cho T2, hợp đồng được công chứng số 12237, quyển số 10
ngày 28/10/2019 tại Văn phòng C1.
Từ khi HĐCNQStrên cho T2 thì vợ chồng bà T vẫn trên đất. Khi
đến hạn chuộc lại nhà đất, vợ chồng T yêu cầu T2 chuyển nhượng lại quyền
sử dụng đất như đã thỏa thuận nhưng vợ chồng bà T2 đã ủy quyền nhà đất của ông
3
T1 T cho ông Huỳnh C thế chấp để vay 4.000.000.000đ. Hợp đồng ủy
quyền quyền sử dụng đất (viết tắt là HĐUQQSDĐ) giữa ông S và T2 với ông C
được Văn phòng C2, quyển số 07/2022 ngày 13/7/2022.
Ngày 10/5/2023, vợ chồng T đã có đơn khởi kiện yêu cầu hiệu
HĐCNQSDĐ với T2, hợp đồng công chứng số 12237, quyển số 10 ngày
28/10/2019 và yêu cầu vô hiệu HĐUQQSDĐ giữa ông S T2 với ông C được
Văn phòng C2, quyển số 07/2022 ngày 13/7/2022. Đến ngày 16/5/2023, ông C với
cách đại diện cho T2 ông S chuyển HĐCNQSDĐ thửa đất trên cho
Bùi Thị Ngọc T3, hợp đồng được Văn phòng C2 số 3520, quyển số 05/2023 ngày
16/5/2023. Sau đó T ông T1 đã gửi đơn ngăn chặn T3 đứng tên quyền sử
dụng đất nói trên.
Nay bà T và ông T1 khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Tuyên b hiệu HĐCNQSDĐ tại thửa 465, tờ bản đồ số 8, diện tích
3.477m
2
tại ấp B, T, huyện Đ, tỉnh Long An giữa ông Nguyễn Trọng T1
Thị T với Ngọc T2, hợp đồng do Văn phòng C2 số 12237, quyển số 10,
ngày 28/10/2019;
- Tuyên bhiệu HĐUQQSDĐ giữa ông Phan S bà Ngọc T2 với
ông Huỳnh C được Văn phòng C2, quyển số 07/2022, ngày 13/7/2022 đối với
quyền sử dụng đất thửa 465;
- Tuyên bố hiệu HĐCNQSDĐ thửa 465 do ông Huỳnh C đại diện cho
Ngọc T2 ông Phan S với i Thị Ngọc T3, hợp đồng được Văn
phòng C2 số 3520, quyển số 05/2022 ngày 16/5/2023;
- Hủy Hợp đồng thế chấp quyền sử quyền sử dụng đất (viết tắt
HĐTCQSDĐ) ngày 12/4/2022 không ng chứng chứng thực được kết giữa
Lê Ngọc T2, ông Phan Tú S với ông Huỳnh Lê C liên quan đến thửa 465.
Đối với số tiền vay 300.000.000đ của ông S và bà T2 không lãi suất. Nay ông
T1 và bà T đồng ý trả ông C thay cho bà T2 là 500.000.000đ.
Tại phiên tòa thẩm do ông C xác định đã hủy HĐCNQSDĐ được kết
giữa ông (đại diện cho ông S, T2) và bà T3 liên quan đến thửa 465 nên bà T
ông T1 xin rút lại yêu cầu này. Ngoài ra bà T và ông T1 không yêu cầu gì khác.
Bị đơn Ngọc T2 trình bày trong quá trình giải quyết vụ án nội dung
như sau:
là hiệu trưởng trường mm non T6 còn T giáo viên làm cho bà. Năm
2019, thửa 465 trên đất nhà ông T1 T, GCNQSDĐ do ông T1 đứng tên
lúc đó có thế chấp Ngân hàng, đến kỳ trả nợ thì bà T và ông T1 không có khả năng
trả nợ, thời điểm này cũng cần tiền làm dự án trường học nên với T
ông T1 thỏa thuận là chuộc GCNQSDĐ của ông T1 từ Ngân hàng ra, bỏ
tiền ra trả nợ Ngân hàng thay vợ chồng T. Bà đề nghị với vợ chồng bà T cho
mượn GCNQSDĐ để thế chấp Ngân hàng, thời gian khoản 03 năm thì
tiền chuộc giấy đất ra trả lại cho T ông T1. cho T ông T1 vay
300.000.000đ không lãi (trong đó số tiền trả nthay cho ông T1 T tại
4
Ngân hàng). yêu cầu vợ chồng T chuyển nhượng nhà đất cho bà để
đứng tên GCNQS để thế chấp Ngân ng vay tiền với số tiền
2.300.000.000đ. Không khả năng trả nên cầm cố thửa 465 của T
ông T1 cho ông Huỳnh Lê C để vay 4.000.000.000đ.
Nay T ông T1 khởi kiện thì cũng thống nhất nhưng hiện tại bà đã bị
vỡ nợ hơn 30.000.000.000đ và không khả năng thanh toán nên khi nào dự án
của hoàn thành sẽ trả tiền ông C để chuộc lại nhà đất cho T ông T1.
Trong vụ án này bà không có khởi kiện T và ông T1 đòi lại số tiền cho mượn là
300.000.000đ và cho bà T mượn thêm khoảng 180.000.000đ.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Lê C do ông Y Ki K (K)
là người đại diện theo ủy quyền tại cấp sơ thẩm trình bày:
Ông C cho T2 vay số tiền 4.000.000.000đ, thời hạn vay 6 tháng,
không tính lãi. Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, vợ chồng T2 HĐTCQSDĐ
cho ông C hửa 465 theo GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất số BK924916 ngày cấp 30/7/2012 do ông Nguyễn Trọng T1 đứng n
được chỉnh sang tên cho Ngọc T2 ngày 07/11/2019 theo HĐCNQSDĐ
được Văn phòng C2, quyển số 10TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/10/2019. Hết thời
hạn vay nhưng bà T2 và ông S không trả nợ nên ông C khởi kiện yêu cầu bà T2
ông S phải trả 4.000.000.000đ lãi suất quá hạn từ ngày 12/10/2022 đến khi xét
xử sơ thẩm. Buộc bà T2 và ông S trả đủ một lần cho ông C khi án có hiệu lực.
Ngày 09/6/2023, ông C đơn xin bổ sung yêu cầu khởi kiện về phần lãi suất
đề nghị Tòa án tuyên buộc T2 ông S phải trả lãi từ tháng 11/2022 theo
mức lãi 3%/tháng/4.000.000.000đ với số tiền vốn cộng lãi là 4.840.000.000đ.
Ngày 08/9/2023, ông C đơn xin rút đơn khởi kiện yêu cầu độc lập vì ông C
cho rằng hành vi của T2 vi phạm pháp luật hình sự nên đề nghị chuyển cơ quan
điều tra giải quyết. Ngày 14/3/2024, Công an tỉnh L có Văn bản số 280/CAT-PC01
phúc đáp giao dịch dân sgiữa ông C với bà T2 giao dịch dân sự không dấu
hiệu tội phạm.
Ngày 25/3/2024, ông C tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu khởi kiện
của ông, ông xin rút lại đơn rút yêu cầu khởi kiện độc lập vẫn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện buộc T2 ông S phải trả cho ông vốn 4.000.000.00lãi
suất phát sinh theo mức lãi 1,66%/tháng t ngày vi phạm nghĩa vụ trả n
12/10/2022 đến khi xét xử thẩm. Trường hợp khi bản án hiệu lực mà ông S
T2 không trả được nợ thì đề nghị Tòa án tuyên cho ông C được quyền yêu
cầu quan Thi hành án phát mãi tài sản thế chấp quyền sử dụng đất thửa 465
để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ông C.
Ông C không đồng ý với yêu cầu của T ông T1 về việc hiệu
HĐCNQSDĐ tại thửa 465 giữa ông Nguyễn Trọng T1 Võ Thị T với Lê
Ngọc T2 hiệu HĐUQQSDĐ giữa ông Phan S Ngọc T2 với ông
Huỳnh Lê C ngày 13/7/2022 liên quan đến thửa đất ủy quyền 465.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 có văn bản trình bày
như sau:
5
Ngày 28/10/2019, Văn phòng C1 tiếp nhận yêu cầu công chứng
HĐCNQSDĐ giữa ông Nguyễn Trọng T1 vợ bà Nguyễn Thị T4 với
Ngọc T2 đối với quyền sử dụng đất tại thửa 465. Sau khi xem xét đủ các loại giấy
tờ các bên cung cấp các bên không yêu cầu Văn phòng công chứng xác
minh, công chứng viên đã giải thích nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các
bên cam kết đã hiểu đồng ý tên vào hợp đồng. Do đó công chứng viên đã
chứng nhận HĐCNQSDĐ tại thửa đất nêu trên đúng theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/7/2022, Văn phòng C1 tiếp nhận yêu cầu công chứng
HĐUQQSDĐ giữa Ngọc T2 ông Phan S với ông Huỳnh C đối với
quyền sử dụng đất tại thửa 465. Sau khi xem xét đủ các loại giấy tờ mà các bên
cung cấp các bên không yêu cầu Văn phòng công chứng xác minh, công chứng
viên đã giải thích rõ nội dung hợp đồng cho các bên nghe. Các bên cam kết đã hiểu
rõ và đồng ý ký tên vào hợp đồng. Do đó công chứng viên đã chứng nhận
HĐUQQSDĐ đúng theo quy định của pháp luật. Văn phòng C3 xét xử vắng mặt.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 113/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trọng T1 và bà Võ Thị T về
việc tranh chấp HĐUQQSDĐ, HĐCNQSDĐ vay tài sản với Ngọc T2,
ông Phan Tú S và ông Huỳnh Lê Can .
1.1. hiệu HĐCNQSDĐ tại thửa 465 giữa ông Nguyễn Trọng T1
Thị T với bà Lê Ngọc T2, hợp đồng do Văn phòng C2 số 12237, quyển số 10, ngày
28/10/2019.
1.2. hiệu HĐUQQSDĐ giữa ông Phan S và Ngọc T2 với ông
Huỳnh Lê C được Văn phòng C2, quyển số 07/2022, ngày 13/7/2022 liên quan đến
thửa đất ủy quyền quyền sử dụng đất thửa 465.
1.3. Tuyên hủy HĐTCQSDĐ ngày 12/4/2022 không công chứng chứng thực
được kết giữa Ngọc T2, ông Phan S với ông Huỳnh C liên quan
đến thửa 465;
1.4. Ông Nguyễn Trọng T1 và bà Thị T được quyền liên hệ quan
thẩm quyền kê khai đăng ký cấp lại GCNQSDĐ thửa 465 tờ bản đồ số 08 diện tích
2.984,9m
2
(diện tích đo đạc thực tế) tại ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An, loại đất
ONT. Vị trí đất theo Mãnh trích đo địa chính số 174 - 2023 do Công ty TNHH Đ
lập được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ duyệt ngày 04/8/2023.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Huỳnh C về việc tranh
chấp hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất và vay tài sản với ông Phan Tú S và Lê
Ngọc T2, Nguyễn Trọng T1Võ Thị T.
2.1. Buộc ông Phan S liên đới Ngọc T2 phải trả cho ông Huỳnh
C 4.156.253.333đ.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Lê C đề nghị Tòa án tuyên cho
ông quyền phát mãi tài sản đối với thửa 465.
6
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Trọng T1, Thị T liên đới trả
cho ông Huỳnh Lê Can T5 cho bà T2 và ông Sĩ số tiền 500.000.000đ.
4. Ngọc T2 quyền khởi kiện ông Nguyễn Trọng T1 Thị T số
tiền vượt ngoài 500.000.000đ nếu có chứng cứ.
5. Buộc ông Huỳnh C phải nộp lại bản chính GCNQSDĐ số BK 924916
do UBND huyện Đ, tỉnh Long An cấp ngày 30/7/2012 được cập nhật chỉnh lý sang
tên Ngọc T2 ngày 07/11/2019 cho quan Thi hành án đgiao lại cho ông
T1 T để nộp quan thẩm quyền cấp lại GCNQSDĐ. Trường hợp ông
Huỳnh Lê C không trả lại bản chính GCNQSDĐ cho ông T1 và bà T thì ông T1
T được liên hệ cơ quan có thẩm quyền kê khai đăng ký cấp lại GCNQSDĐ theo
quy định.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm n tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng; án
phí; quyền kháng cáo; quyền yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
Ngày 11/6/2024, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa nhận được đơn kháng cáo
của ông Huỳnh C là người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo bản án
thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận
yêu cầu độc lập của ông C.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Ông Huỳnh C người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông C
Luật sư Lê Kim D trình bày:
Ông C cho T2 vay 4.000.000.000đ lập hợp đồng thế chấp ra Văn
phòng công chứng nhưng do ông C không hiểu luật nên T2 nói sao thì ông C
làm vậy nên mới lập hợp đồng ủy quyền. Khi vay thì T2 không nói cho ông C
biết quyền sử dụng đất của ông T1. Do T2 không thực hiện nghĩa vụ của
hợp đồng vay nên ông C mới chuyển nhượng cho T3 và hiện nay cũng đã hủy
hợp đồng này. Thời điểm ông C cho T2 vay tiền thì vợ chồng bà T2 hợp
đồng với ông C, GCNQSDĐ không ghi chỉ cho bà T2 tạm quyền đứng tên
T2 được quyền định đoạt QSDĐ. Do đó, yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu
của ông C, bên nguyên đơn cũng lỗi do hiểu biết lại đi ủy quyền. T2
nói ông C biết là đất của nguyên đơn nhưng bà T2 không có chứng cứ chứng minh.
Do đó, đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chấp nhận yêu cầu độc
lập của ông C.
Nguyên đơn do ông Mai Thanh N là người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Ông T1, T thế chấp cho T2 để vay tiền 300.000.000đ, việc thế chấp
thực hiện bằng hình thức chuyển nhượng. Ngày 30/10/2019, nguyên đơn với bà T2
người làm chứng lập biên bản ghi nhận vay tiền thế chấp trên. Đến ngày
13/7/2022 thì T2 thế chấp cho ông C để vay 4.000.000.000đ, lãi suất 3%/tháng
T2 đã trả được 4 tháng lãi, thế chấp bằng hình thức ủy quyền cho ông C đã
7
công chứng nhưng cũng lập hợp đồng thế chấp không công chứng, sau đó
ông C chuyển nhượng cho T3 (bà T3 là cháu ông C) sau đó T3 với ông C đã
hủy hợp đồng chuyển nhượng này nên ông T1, T yêu cầu hiệu
HĐUQQSDĐ, yêu cầu hủy HĐTCQSDĐ giữa T2, ông S với ông C do ông T1,
bà T chỉ vay tiền chứ trên đất có nhà của ông T1, bà T đang ở.
Bị đơn bà Lê Ngọc T2 trình bày:
T2 cho ông T1, T vay 300.000.000đ trong đó T2 lấy bên ngân
hàng 150.000.000đ, còn 150.000.000đ đưa tiền mặt. Sau đó, T2 vay ngân
hàng nhưng không tiền trả nên T2 mượn ông C vay thêm 4.000.000.000đ
thế chấp cho ông C bằng hình thức HĐUQQSDĐ của ông T1, T. Sau thời
gian 3 nămT2 khó khăn nên không có tiền chuộc rồi ông C chuyển nhượng qua
T3. Bản thân bà T2 là người thiếu nợ, hiện tại cũng khó khăn nên cũng chưa trả
được, xin xem xét cho bà T2 một thời gian nữa để trả cho ông C.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tính hợp lệ của kháng cáo: Đơn kháng cáo nằm trong hạn luật định nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân th
đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã
chấp hành đúng pháp luật.
Về giải quyết yêu cầu kháng cáo:
- Đối với HĐCNQSDĐ ngày 28/10/2019: Ông T1, T T2 thống nhất
thừa nhận việc kết HĐCNQSDĐ ngày 28/10/2019 đối với thửa 465 nhằm
mục đích để che giấu hợp đồng vay tiền (biên bản thỏa thuận giữa T2 với vợ
chồng T, ông T1 ngày 30/10/2019 vay 300.000.000đ T2 mượn sđất
trong hạn 03 năm) nên Tòa án cấp thẩm tuyên bố hiệu HĐCNQSDĐ này
có căn cứ.
- Đối với HĐUQQSDĐ ngày 13/7/2022: Ông S, T2 và ông C thống nhất
thừa nhận việc kết hợp đồng ủy quyền ngày 13/7/2022 vviệc ủy quyền quyền
sử dụng đất đối với thửa 465 nhằm mục đích để che giấu hợp đồng vay tiền
(HĐTCQSDĐ ngày 12/4/2022 giữa ông C với vợ chồng ông S, T2 về việc thế
chấp GCNQSDĐ đối với thửa đất 465 để vay 4.000.000.000đ) nên Tòa án cấp
sơ thẩm tuyên bố vô hiệu HĐUQQSDĐ này là có căn cứ.
- Hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
+ Ông S, T2 không tranh chấp yêu cầu ông T1, T phải trả nợ nhưng
ông T1, T tự nguyện trả cho ông C thay cho ông S, T2 số tiền 500.000.000đ
nên Tòa án cấp sơ thẩm đã ghi nhận là phù hợp.
+ Ông C yêu cầu ông S, T2 trả nợ 4.000.000.000đ tiền lãi từ ngày
12/10/2022 đến khi xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất 1,66%/tháng được quyền
yêu cầu quan thi hành án phát mãi tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. Thấy
rằng, mặc trong nội dung của HĐTCQSDĐ giữa ông C với ông S, T2 về lãi
8
suất là không có thể hiện nhưng ông S, bà T2 đồng ý trả lãi theo quy định pháp luật
từ ngày 12/10/2022 đến khi xét xử thẩm nên Tòa án buộc ông S, T2 trả số
tiền gốc vay 4.000.000.000đ tiền lãi 656.253.333đ là phù hợp. Do ông T1, T
đồng ý trả thay cho ông S, bà T2 số tiền 500.000.000đ nên Tòa sơ thẩm buộc ông
S, T2 trả cho ông C số tiền còn lại 4.156.253.333đ sở. Đồng thời,
việc ông S, T2 vay tiền thế chấp GCNQSDĐ đối với thửa 465 cho ông C
không đúng quy định pháp luật nên yêu cầu của ông C về việc phát mãi tài sản để
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ không cơ sở. Từ đó, Tòa án cấp thẩm chấp nhận
một phần yêu cầu độc lập của ông C là có căn cứ.
Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn xin rút lại yêu cầu đối với việc
hiệu HĐCNQSDĐ được kết giữa ông C với T3 được Văn phòng C2 ngày
16/5/2023 liên quan đến thửa 465 và Tòa án cấp sơ thẩm có nhận định việc rút đơn
yêu cầu này của nguyên đơn, tuy nhiên trong phần quyết định của bản án lại không
tuyên đình chỉ đối với yêu cầu nguyên đơn đã rút là có thiếu sót, cần phải tuyên bổ
sung.
Từ những căn cứ trên, đnghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của ông C. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bluật Tố tụng dân sự
năm 2015 đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm, bổ sung tuyên đình chỉ giải quyết
yêu cầu mà nguyên đơn đã rút như đã phân tích trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người được Tòa án triệu tập mặt,
đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xtheo trình tự phúc thẩm
phù hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tòa án cấp thẩm xác định thẩm quyền Tòa án giải quyết, quan hệ pháp
luật tranh chấp, người tham gia tố tụng xét xử theo trình tự thẩm phợp
với quy định tại Điều 26, 35, 39, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, bản án thẩm
đảm bảo thủ tục tố tụng.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[3] Xét kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh
C, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[4] Ông T1, T, T2 ông S thống nhất trình bày: Vợ chồng ông T1
bà T chủ sử dụng thửa đất 465, tờ bản đồ số 8, tại xã T, huyện Đ theo
GCNQSDĐ số BK 924916 do UBND huyện Đ cấp ngày 30/7/2012 cho ông
Nguyễn Trọng T1. Ngày 28/10/2019, vợ chồng ông T1, T vay 300.000.000đ
(không lãi suất) của vợ chồng T2, ông S để trả nợ ngân hàng GCNQSDĐ
thửa 465 đang thế chấp ngân hàng. Hai bên thỏa thuận ông T1, T cho T2
mượn GCNQSDĐ thửa 465, hình thức mượn làm HĐCNQSDĐ, khi nào ông
T1, bà T đòi lại thì phải báo trước cho T2 03 tháng và ông T1, T cũng phải
trlại cho T2 300.000.000đ. Thực hiện thoả thuận, cùng ngày 28/10/2019, hai
bên lập CNQSDĐ đối với thửa 465, sau đó T2, ông S được đứng tên trên
9
GCNQSDĐ. Việc thỏa thuận mượn tiền, chuyển nhượng quyền sdụng đất được
thể hiện qua “Biên bản thỏa thuận” ngày 30/10/2019 giữa ông T1 với bà T2.
[5] Xét thấy giữa hai bên giao dịch vay tiền nhưng lại lập HĐCNQSDĐ
nên HĐCNQSDĐ này giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay nên yêu cầu của ông
T1, bà T về việc tuyên bố hiệu HĐCNQSDĐ ngày 28/10/2019 giữa ông T1,
T với T2 căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm
2015, án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này của ông T1 bà T là phù hợp.
[6] Sau khi đứng tên GCNQSDĐ tT2, ông S đã thế chấp ngân hàng vay
2.200.000.00nhưng do không tiền trả nên T2, ông S đã thế chấp thửa 465
cho ông C để vay 4.000.000.000đ, lập HĐTCQSDĐ không công chứng, sau đó
ngày 13/7/2022, T2, ông S với ông C lập HĐUQQSDĐ thửa 465 công
chứng. Ông C T2, ông S đều xác định số tiền 4.000.000.00số tiền vay
nhưng hết hạn vay do T2, ông S không tiền trả nên ông C mới
HĐCNQSDĐ cho T3. Xét thấy, giữa ông C với T2, ông S thỏa thuận giao
dịch vay tiền nhưng thực hiện đảm bảo nghĩa vụ bằng hình thức ủy quyền là không
đúng quy định của pháp luật, thực tế trên thửa đất 465 căn nhà của ông T1T
do ông T1, T đang trực tiếp sử dụng từ trước đến nay, đủ sở xác định hợp
đồng ủy quyền này trái pháp luật, giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay nên ông
T1, T yêu cầu hiệu HĐUQQSDĐ giữa T2, ông S với ông C căn cứ
theo quy định tại Điều 123, khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[7] Đối với HĐTCQSDĐ ngày 12/4/2022 giữa T2, ông S với ông C: t
thấy, hợp đồng này không được công chng, chứng thực theo quy định tại khoản 3
Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 không đăng giao dịch bảo đảm theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Nghị định 99/2022/NĐ-CP của Chính phủ nên bị
hiệu theo Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015, án thẩm tuyên huỷ hợp đồng
này là chưa chính xác, cần điều chỉnh lại cho phù hợp tuyên bố hiệu hợp
đồng này.
[8] Về hậu quả của HĐUQQSDĐ HĐTCQSDĐ bị hiệu: Xét thấy,
T2, ông S và ông C các hợp đồng này để đảm bảo cho hợp đồng vay nên khi vô
hiệu sẽ không phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên nên chỉ xem xét giải quyết
quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vay. Xét HĐTCQSDĐ ngày
12/4/2022 giữa ông C với T2, ông S thấy rằng hai bên thỏa thuận số tiền vay
4.000.000.000đ, thời hạn vay 06 tháng. Hết thời hạn thoả thuận, T2, ông S vi
phạm nghĩa vụ thanh toán nên ông C yêu cầu T2, ông S trả số tiền
4.000.000.00căn cứ. Về tiền lãi: Do hai bên không thỏa thuận lãi suất cho
vay nên chỉ tính lãi trên nợ gốc quá hạn từ ngày 12/10/2022 đến ngày xét xử
thẩm theo mức lãi suất 10%/năm như án thẩm xác định 656.253.333đ
căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày
11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Điều 468 Bộ luật
Dân sự năm 2015. Do đó, án thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập này của ông C
phù hợp.
[9] Đối với yêu cầu phát mãi tài sản quyền sdụng đất thửa 465 để thực
hiện nghĩa vụ trả nợ của bà T2 ông S trong trường hợp không thanh toán được, xét
10
thấy như đã nhận định, HĐTCQSDĐ ngày 12/4/2022 giữa bà T2, ông S với ông C
bị hiệu nên án thẩm không chấp nhận yêu cầu độc lập này của ông C phù
hợp.
[10] Từ nhận định trên, xét thấy ông C kháng cáo nhưng không cung cấp
thêm tài liệu chứng cứ mới để được xem xét nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không
chấp nhận kháng cáo của ông C. Tuy nhiên do tại phiên tòa thẩm ông T1 T
rút lại yêu cầu tuyên bhiệu HĐCNQSDĐ ngày 16/5/2023 giữa ông C với
T3 nhưng bản án thẩm lại không tuyên đình chỉ đối với yêu cầu này thiếu sót
nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án thẩm về cách tuyên án như ý kiến
của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
[11] Về án phí n sự phúc thẩm: Ông C được miễn án phí do người cao
tuổi.
[12] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng o, kháng nghị có
hiệu lực thi hành.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Huỳnh Lê Can .
Sửa một phần Bản án thẩm số: 113/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa.
Căn cứ các Điều 26, 34, 35, 39, 147, 148, 157, 165, 244, 296, 483 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng các Điều 117, 119, 122, 123, 124, 129, 131, 407, 463, 466, 468, 470,
502, 503 Bluật n sự năm 2015; các Điều 95, 99, 195, 203 Luật Đất đai năm
2013; các Điều 133, 223 Luật Đất đai 2024; các Điều 12, 26, 27 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trọng T1 và bà Võ Thị T về
tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và vay
tài sản với bà Lê Ngọc T2, ông Phan Tú S và ông Huỳnh Lê Can .
- Tuyên bố vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa 465,
tờ bản đồ số 08, diện tích 3.477m
2
(diện tích theo giấy), tại ấp B, T, huyện Đ,
tỉnh Long An giữa ông Nguyễn Trọng T1 Thị T với Ngọc T2, hợp
đồng do Văn phòng C2 số 12237, quyển số 10, ngày 28/10/2019.
- Tuyên bố hiệu Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất giữa ông Phan
S Ngọc T2 với ông Huỳnh C được Văn phòng C2, quyển số 07/2022,
ngày 13/7/2022 liên quan đến thửa đất ủy quyền 465, tờ bản đồ số 8, diện tích
3.477m
2
(diện tích theo giấy), tại ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
11
- Tuyên bố hiệu Hợp đồng thế chấp quyền sử quyền sử dụng đất ngày
12/4/2022 không công chứng chứng thực được kết giữa Ngọc T2, ông
Phan S với ông Huỳnh C liên quan đến thửa 465, tờ bản đồ số 8, diện tích
3.477m
2
(diện tích theo giấy), tại ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
Ông Nguyễn Trọng T1 Thị T được quyền liên hệ quan thẩm
quyền kê khai đăng ký cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 465, tbản
đồ số 08, diện tích 2.984,9m
2
(diện tích đo đạc thực tế), tại ấp B, xã T, huyện Đ,
tỉnh Long An. Vị trí đất theo Mãnh trích đo địa chính số 174 - 2023 do Công ty
TNHH Đ lập được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện Đ duyệt ngày
04/8/2023.
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trọng T1 Võ Thị
T về việc yêu cầu hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa
465 do ông Huỳnh Lê C đại diện cho bà Ngọc T2 ông Phan Tú S với Bùi
Thị Ngọc T3, hợp đồng được Văn phòng C2 số 3520, quyển số 05/2022 ngày
16/5/2023
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Huỳnh C về tranh chấp
vay tài sản với ông Phan Tú S và bà Lê Ngọc T2.
Buộc ông Phan S liên đới với Ngọc T2 trả cho ông Huỳnh C số
tiền 4.156.253.333đ (bốn tỷ một trăm năm mươi sáu triệu hai trăm trăm năm mươi
nghìn ba trăm ba mươi ba đồng).
4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Huỳnh C về việc cho ông C
được quyền phát mãi tài sản quyền sdụng đất thửa 465, tờ bản đồ số 08, diện
tích 2.984,9m
2
(diện tích đo đạc thực tế), tại ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
5. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Trọng T1 và Thị T về việc
liên đới trả cho ông Huỳnh Can T5 cho Ngọc T2 ông Phan S1
tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng).
6. Ngọc T2 quyền khởi kiện ông Nguyễn Trọng T1 Thị T số
tiền vượt ngoài 500.000.00 (năm trăm triệu đồng).
7. Buộc ông Huỳnh C phải nộp lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BK 924916 do UBND huyện Đ, tỉnh Long An cấp ngày 30/7/2012
được cập nhật chỉnh lý sang tên Ngọc T2 ngày 07/11/2019 cho quan Thi
hành án để giao lại cho ông T1 và bà T để nộp cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp ông Huỳnh C không trả lại bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T1 T thì ông T1 T
được liên hệ quan thẩm quyền khai đăng ký cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định.
8. Về chi phí đo đạc, thẩm định, định giá, đăng báo: Ngọc T2 phải nộp
hoàn trả cho ông Nguyễn Trọng T1 Thị T stiền 38.000.000đ (ba mươi
tám triệu đồng).
9. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu
12
thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất cơ bản do Ngân
hàng N1 quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành theo khoản 2 Điều 468 B
luật dân sự 2015.
10. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Trọng T1 Thị T phải liên đới nộp số tiền án phí dân
sự sơ thẩm là 24.000.000đ. Khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà ông T1 và bà T đã
nộp 1.200.000đ theo các Biên lai tạm ứng án phí số 0000353 ngày 08/5/2024,
biên lai 0003673 ngày 23/5/2023; Biên lai số 0003672 ngày 23/5/2023; Biên lai
0003755 ngày 02/6/2023 tại Chi cục Thi hành án huyện Đức Hòa. Ông T1 và bà T
phải nộp tiếp 22.800.000đ.
- Ông Phan Tú S và bà Lê Ngọc T2 phải nộp 600.000đ án phí dân sự sơ thẩm
đối với tranh chấp về dân sự không có giá ngạch và 112.156.253đ án phí dân sự
thẩm đối với tranh chấp về dân sự có giá ngạch.
- Ông Huỳnh Lê C được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
11. Về án phí phúc thẩm: Ông Huỳnh C được miễn án phí dân sự phúc
thẩm.
12. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
13. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Đức Hòa;
- Chi cục THADS huyện Đức Hòa;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Tấn Quốc
Tải về
Bản án số 43/2025/DS-PT Bản án số 43/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 43/2025/DS-PT Bản án số 43/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất