Bản án số 39/2024/DS-ST ngày 11/09/2024 của TAND huyện Đắk R'Lấp, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 39/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 39/2024/DS-ST ngày 11/09/2024 của TAND huyện Đắk R'Lấp, tỉnh Đắk Nông về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đắk R'Lấp (TAND tỉnh Đắk Nông)
Số hiệu: 39/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐẮK R’LẤP
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 39/2024/DS-ST
Ngày: 11-9-2024
V/v Đòi giy chng nhn
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP TỈNH ĐẮK NÔNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lương Thị Xuân.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Thế K và bà Phan Thị Huệ.
- Thư phiên tòa: Đoàn Thị Vân - Thư Tòa án nhân dân huyện Đắk
R’lấp, tỉnh Đắk Nông.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông tham
gia phiên tòa: Bà Dương Thị Kiều Oanh - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 9 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đắk R’lấp,
tỉnh Đắk Nông xét xthẩm công khai vụ án thụ số: 31/2024/TLST-DS ngày 29
tháng 01 năm 2024, về việc: “Kiện đòi giấy chứng nhận quyn sử dụng đất”, theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2024/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 7 năm 2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số: 60/2024/QĐST-DS ngày 28/8/2024, Thông báo về việc
thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 09/TB-TA ngày 09/9/2024 giữa các đương sự:
Ngun đơn: Bà Thị R, sinh năm 1968; địa chỉ: Bon A, B, huyn C, tỉnh Đắk
Nông - Vắng mặt.
Nời đại diện theo ủy quyền của Thị R: Bà Thị E, sinhm 1994; địa ch: Bon
A, xã B, huyện C, tỉnh Đắk Nông (Văn bản y quyền ngày 28/02/2024) - Vng mặt
đơn xin t xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Th R: Ông Nguyễn Văn H Luật
của n phòng luật Nguyễn Thiên H thuộc Đn luật tỉnh Đk Nông - Vắng
mặt và đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Bà Trần Thị Mng T, sinhm 1969; địa chỉ: Tn D, xã G, huyện C, tnh
Đắk Nông - Vng mặt có đơn xin xét xử vắng mt.
Nời có quyền lợi, nghĩa v liên quan:
- Thị T1, sinh năm 1966 - Vng mặt;
- Thị H1, sinh năm 1991 - Vng mặt;
Cùng địa chỉ: Bon A, xã B, huyn C, tỉnh Đắk Nông.
2
Nời đại din theo ủy quyn ca bà Th H1, bà Th T1: Bà ThE, sinh năm 1994;
đa chỉ: Bon A, B, huyện C, tnh Đắk Nông (n bản ủy quyền ny 28/02/2024) -
Vắng mặt và đơn xin t x vắng mặt.
- Ông Trn Mộng L, sinh m 1944 và bà Bùi Thị T2, sinh năm 1943; ng đa chỉ:
Tn D, xã G, huyện C, tỉnh Đk Nông - Vắng mt và có đơn xin t x vắng mặt.
Nời m chứng: Nguyn Thị Thu O, sinh m 1984; địa ch: Bon A, B,
huyn C, tnh Đắk Nông Vng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phía nguyên đơn trình bày:
Bố của Thị R ông Điểu Y được Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk
(Nay Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Nông) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số: H 101587, ny 18 tháng 10 năm 1995 đối với thửa số 31, tờ bản đồ s 04, thửa
đất tọa lạc tại thôn 4, xã B, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (nay Bon A, B, huyện C, tỉnh
Đắk Nông).
Ông Điểu Y chết năm 2017, bà Thị N là vợ ông Y chết năm 1986. Ông Y
N 03 người con: Thị R, Thị T1 Thị T3 (đã chết 2021); Thị T3 01
người con Thị H1.
Trong quá trình sử dụng đất, gia đình ông Y khó khăn về kinh tế nên đã đem
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cầm cố cho vợ ông Nguyễn Văn P là bà Trần
Thị Hạnh P1 (chết năm 2017) để lấy số tiền: 2.000.000đ (Hai triệu đồng), thời gian cụ
thể cầm vào khi nào gia đình không nhớ và việc cầm cố chỉ bằng miệng không có viết
giấy tờ. Số tiền này gia đình ông Y cũng đã trả đủ cho bà P1, nhưng giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì gia đình chưa lấy về.
Đến khi bà Trần Thị Mộng T khởi kiện gia đình R tại Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Nông: Yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Điểu Y
buộc gia đình trả đất cho T, thì gia đình R mới biết giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông Điểu Y do T đang cất giữ và theo lời khai của T thì giấy
chứng nhận quyền sdụng đất của ông Y T được do R đưa cho T vào
năm 2016 (theo Biên bản hòa giải ngày 29 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Nông). Tuy nhiên, không việc bà R đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông Điểu Y cho bà T. Đến khoảng tháng 9 năm 2023, thì bà T đã rút đơn khởi
kiện gia đình bà R và được Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đình chỉ giải quyết vụ án.
Nay bà R yêu cầu Tòa án buộc Trần Thị Mộng T trả lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số: H 101587 do UBND huyện C cấp ngày 18 tháng 10 năm 1995
cho ông Điểu Y đối với thửa số 31, tờ bản đồ số 04, thửa đất tọa lạc tại thôn 4, xã B,
huyện C, tỉnh Đắk Lắk (nay là Bon A, xã B, huyện C, tỉnh Đắk Nông) cho bà Thị R.
Theo lời khai của ông L T2 trong quá trình giải quyết vụ án thì hiện nay
ông đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H 101587 của ông Điểu Y.
Việc chuyển giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H 101587 giữa T và ông
Trần Mộng L, Bùi Thị T2 gia đình R không biết, không được thông báo trước
khi khởi kiện vụ án này. vậy, nay R yêu cầu T ông L, T2 trách
3
nhiệm liên đới trả lại giấy chứng nhận quyền sdụng đất số: H 101587 của ông Điểu
Y cho bà R.
Theo bị đơn Trần Thị Mộng T trình bày:
T không đồng ý trả lại giấy chứng nhận QSD đất số H 101587 do UBND
huyện C cấp ngày 18/10/1995 cho ông Điểu Y đối với thửa đất 31, tờ bản đồ 04 theo
yêu cầu khởi kiện của gia đình Thị R. Toàn bộ thửa đất 31 tại thôn 4, B (nay
Bon A, B) của gia đình . Nguồn gốc thửa đất này của bố mẹ ông Trần
Mộng L Bùi Thị T2 khai hoang 1981 đến năm 1989 thì cho bà, khi đó đất
chưa được cấp bìa đỏ. Đến năm 2008 thì được biết thửa đất này đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Điểu Y. đến nhà ông Điểu Y yêu cầu trả
lại bìa đỏ thì họ nói là bìa đã được cầm cố cho bà Trần Thị Hạnh P1 họ bảo là hiện
tại họ không tiền chuộc về. Khoảng năm 2009 thì đưa 2.000.000 đồng cho
Thị R để trả cho bà P1 lấy sổ về trả cho . Khi bà R mang tiền trả cho bà P1 thì bà có
đi cùng nhưng đứng ngoài cổng nhà bà P1 chứ không cùng vào trong nhà. Sau khi lấy
sổ đỏ từ P1 thì bà R đã đưa sđỏ cho ngay trước cửa nhà bà P1. Việc R đưa
sổ đỏ của ông Điểu Y cho không lập thành văn bản cũng không ai làm
chứng.
Từ năm 2009 thì năm nào cũng yêu cầu bà R đi sang tên sổ đỏ cho bà nhưng
R không làm. Sau đó, hai gia đình xảy ra tranh chấp. Việc cho đất giữa bố mẹ
chỉ là nói miệng chứ không làm giấy tờ tặng cho theo quy định pháp luật, nguồn
gốc đất lại bố mẹ bà khai hoang nên để tiện cho việc giải quyết tranh chấp đất đai
thì tháng 3/2024 đã trả lại bìa đỏ đứng tên ông Y cho ông L bà T2.
Nay bà không đồng ý trả lại bìa đỏ cho R, nếu kết quả giải quyết tranh chấp
đất đai mà thửa đất này là của gia đình bà R thì lúc đó bà đồng ý trả bìa.
Theo người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Mộng L và bà Bùi
Thị T2 trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:
Nguyên nhân T trả lại bìa đứng tên ông Điểu Y cho vợ chồng ông
trước đây vợ chồng ông có cho bà T thửa đất này nhưng sau đó không biết lý do gì
đất lại được cấp bìa cho ông Y. Nay ông Y đã chết mà chưa làm thủ tục sang tên
cho ông bà. Thửa đất này do ông khai hoang nên việc ông đứng ra làm thủ
tục cấp lại bìa đỏ hay đứng ra tranh chấp với gia đình R hợp lý hơn là để bà T làm.
Việc tặng cho giữa ông T chỉ nói miệng chứ không làm hợp đồng tặng cho
theo quy định pháp luật. Ông thống nhất theo ý kiến của T không đồng ý trả
bìa đỏ lại cho R. Nếu kết quả giải quyết tranh chấp đất đai thửa đất này của
gia đình bà R thì lúc đó ông bà đồng ý trả bìa.
Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Thị T1, bà Thị H1 là bà Thị E trình bày:
Thị T1 Thị H1 những người thừa kế di sản của ông Điểu Y1 đứng
về phía nguyên đơn. Nay bà Thị T1 và bà Thị H1 đề nghị Tòa án buộc bà T, ông L, bà
T2 trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 101587 do UBND huyện C cấp
ngày 18/10/1995 cho ông Điểu Y đối với thửa đất 31, tờ bản đồ 04 tại xã B, huyện C,
4
tỉnh Đắk Nông cho bà Thị R. Bà Thị T1 và bà Thị H1 không có yêu cầu khởi kiện độc
lập trong vụ án này.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân strong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa của những người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vviệc giải quyết v án: Đ nghị Hội đồng t xử căn cứ Điều 105, 115, 166
BLDS: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc Trần Thị Mộng T
ông Trần Mộng L, Bùi Thị T2 liên đới trả lại cho Thị R giấy CNQSDĐ sH
101587 ngày 18/10/1995 thuộc thửa đất số 31 tờ bản đồ số 04, do UBND huyện C cấp
cho ông Điểu Y.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Vthủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan h pháp luật tranh chp thẩm quyền gii quyết vụ án: Nguyên
đơn có đơn khởi kin yêu cầu bị đơn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải trả
giy chứng nhn quyn s dng đất số H 101587 do UBND huyện C cấp ngày
18/10/1995 đứng tên ông Điểu Y (là bố ruột của nguyên đơn) mà bị đơn đang giữ. Bị
đơn địa chỉ tại tn D, xã G, huyn C, tỉnh Đk Nông. Theo hướng dẫn tại tiểu mục
2 mục 4 Công văn số 02/2021/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối
cao; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
Tố tụng dân sự xác định quan hệ tranh chấp Đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’lấp, tỉnh
Đắk Nông.
[1.2]. Về xác định tư cách tham gia tố tụng của ông Nguyễn Văn P:
Trong đơn khởi kiện Thị R xác định ông Nguyễn Văn P là người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Quá trình giải quyết vụ án, các đương scon
của ông Nguyễn Văn P Nguyễn Thị Thu O đều khẳng định ông P không liên
quan đến việc vay tiền, cầm bìa, trả bìa giữa gia đình ông Điểu Y Trần Thị
Hạnh P1. Do đó, HĐXX không đưa ông Nguyễn Văn P vào tham gia tố tụng trong vụ
án này.
[1.3]. Về sự vắng mặt của đương sự, người làm chứng: Đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn người quyền, lợi nghĩa vụ liên quan là Thị E, bđơn, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Mộng L Bùi Thị T2, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; người làm
chứng vắng mặt không do, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228, khoản 2
5
Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đương sự, người bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, người làm chứng theo quy định của pháp
luật.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn về việc u cầu bị đơn người có
quyền lợi nghĩa vụ ln quan ông L, T2 phải tr giấy chứng nhn quyn sử dụng
đt sH 101587 do UBND huyện C cấp ngày 18/10/1995 đứng tên ông Điểu Y (là bố
ruột của nguyên đơn) cho nguyên đơn. HĐXX nhận thấy:
Phía nguyên đơn cho rằng sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, trong quá trình sử dụng do gia đình khó khăn nên ông Điểu Y đã mang đi cầm cố
cho Trần Thị Hạnh P1 lấy 2.000.000 đồng, thời gian cụ thể cầm vào khi nào gia
đình không nhớ và việc cầm cố chỉ bằng miệng không viết giấy tờ. Số tiền này gia
đình ông Y cũng đã trả đủ cho P1, nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
gia đình chưa lấy về. Đến cuối năm 2022 thì gia đình mới biết bị đơn đang giữ bìa đỏ
do bị đơn khởi kiện tranh chấp đất đai và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất với gia đình nguyên đơn tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, sau đó bị đơn đã rút
đơn khởi kiện vụ án này đã đình chỉ giải quyết. Bị đơn cho rằng nguyên đơn
người trực tiếp đưa bìa đỏ cho bị đơn là không đúng sự thật. Việc chuyển giao bìa qua
lại giữa bị đơn bố mẹ bị đơn gia đình nguyên đơn không biết, cũng không được
thông báo trước khi khởi kiện vụ án này. vậy, nay yêu cầu bị đơn bố mẹ bị đơn
phải trách nhiệm liên đới trong việc trả lại bìa đ của ông Y cho nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Thị T1 và Thị H1 đồng ý với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn cho rằng khoảng năm 2009 bị đơn đưa 2.000.000 đồng cho nguyên đơn
để trả cho P1 lấy svề trả cho bị đơn. Khi nguyên đơn mang tiền trả cho P1 thì
bị đơn đi cùng nhưng đứng ngoài cổng nhà P1 chứ không cùng vào trong nhà.
Sau khi lấy sổ đỏ từ bà P1 thì nguyên đơn đã đưa sổ đỏ cho bị đơn ngay trước cửa nhà
P1 bị đơn giữ sổ đến tháng 3/2024 thì đã trả bìa đỏ đứng tên ông Điểu Y1 cho
bố mẹ bị đơn là ông L1 bà T1 để ông bà đứng ra giải quyết việc tranh chấp đất đai với
gia đình nguyên đơn. Việc nguyên đơn đưa a đỏ đứng tên ông Điểu Y1 cho bị đơn
không có chứng cứ gì chứng minh.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông L T1 thừa nhận hiện đang
giữ giấy chứng nhận đứng tên ông Điểu Y.
Bị đơn và bố mẹ bị đơn không đồng ý trả bìa đỏ lại cho nguyên đơn và cho rằng
nếu kết quả giải quyết tranh chấp đất đai giữa hai gia đình thửa đất này của gia
đình nguyên đơn thì lúc đó bị đơn và bố mẹ bị đơn mới đồng ý trả bìa.
Tuy nhiên, việc chuyển giao bìa đỏ đứngn ông Điểu Y giữa bị đơn và bố mẹ bị
đơn không thông o cho nguyên đơn biết việc bị đơn bố mẹ bị đơn giữ bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 101587 do UBND huyện C cấp ngày
18/10/1995 đứng tên ông Điểu Y không xuất phát từ giao dịch hợp pháp nào.
6
[2.2]. Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự quy định: Tài sản vật, tiền, giấy tờ
giá quyền tài sản”. Điều 166 Bộ luật Dân sự quy định: “Chủ shữu, chủ thể
quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng
tài sản, người được lợi về tài sản không căn cứ pháp luật”. Điều 164 của Bộ luật
Dân sự quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể quyền khác đối với tài sản quyền yêu
cầu Tòa án, cơ quan nhà nước thẩm quyền khác buộc người hành vi xâm phạm
quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Thị R
con ruột của ông Điểu Y người thừa kế quyền, nghĩa vụ của ông Y (ông Y đã
chết năm 2017) nên quyền khác đối với tài sản của ông Y. Việc bị đơn, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông L và bà T2 giữ bản chính giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số H 101587 do UBND huyện C cấp ngày 18/10/1995 đứng tên ông Điểu
Y là không đúng quy định pháp luật, không xuất phát từ giao dịch hợp pháp nào và đã
làm cản trở việc thực hiện quyền của người sử dụng đất, quyền khác đối với tài sản
của nguyên đơn. Do đó, nguyên đơn quyền đòi lại giấy chứng nhận quyền s dụng
đất đứng tên ông Điểu Y từ bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông L
và bà T2.
[2.3]. Từ nhng pn tích trên, HĐXX xét thấy đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Trần Mộng L Bùi Thị T2 thì mới đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn.
[3]. Xét đề nghcủa đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa n cứ, Hội đồng
xét xử cần chấp nhận.
[4]. Về án phí: Do u cầu khi kiện của nguyên đơn đưc chấp nhận n bđơn,
người quyền lợi, nga vụ ln quan là ông Trần Mộng L i Thị T2 phải chịu
tiền án phí n sự sơ thẩm theo quy định ca pháp luật.
Trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ng án phí đã nộp.
[5]. Về quyn kháng cáo: c đương sự đưc quyền kháng o bản án theo quy
đnh của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng n sự; các Điều 105, 115, 164, 166 của Bộ luật
n sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ThR đối với bà Trần ThMộng T, ông
Trn Mộng L bà Bùi Thị T2 về việc “Đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Buộc Trần Thị Mng T, ông Trn Mộng L bà Bùi Thị T2 có trách nhiệm trả
lại cho Thị R bn chính giấy chứng nhn quyền sử dụng đt số H 101587 do UBND
7
huyện C cấp ngày 18/10/1995 đứng tên ông Điểu Y đối với thửa đất số 31, tbản đồ
04 đo đạc năm 1995, thửa đất tọa lạc tại xã B, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (nay là tỉnh
Đắk Nông).
2. Về án phí: Trần ThMộng T, ông Trần Mộng L i Th T2 phải nộp
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tin án phí n sự sơ thẩm.
Trả lại cho Thị R 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp thay
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0002534 ngày 25/01/2024 của Chi
cục Thi hành án Dân sự huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông.
3. Về quyền kháng o: Đương sự vắng mặt tại phiên toà quyền kháng o bản
án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể tngày nhn được bản án hoặc niêm yết bản án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự,
thi hiu thi nh án đưc thực hiện theo quy định tại Điu 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Nông;
- VKSND huyện Đắk R’lấp;
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu HS, VP.
T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Lương Thị Xuân
8
9
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Nông;
- VKSND huyện Đắk R’Lấp;
- Chi cục THADS huyện Đắk R’Lấp;
- Các đương sự;
- Lưu HS, VP.
T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Lương Thị Xuân
Tải về
Bản án số 39/2024/DS-ST Bản án số 39/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 39/2024/DS-ST Bản án số 39/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất