Bản án số 172/2024/DS-PT ngày 21/08/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 172/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 172/2024/DS-PT ngày 21/08/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 172/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: nguyên đơn bà L, bà Đ yêu cầu Tòa án giải quyết
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
Bản án số: 172/2024/DS-PT
Ngày 21-8-2024
V/v tranh chấp hợp đồng thuê nhà
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Minh Vỹ
Các Thẩm phán: Bà Đào Thị Hu
Bà Nguyễn Thị Quang
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Rịa - Vũng Tàu.
- Đại din Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Ông Thái Quốc Bảo - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 14 và 21 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2024/TLPT-
DS ngày 29 tháng 02 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”.
Do Bn án dân s thẩm s 72/2023/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2023
ca Toà án nhân dân huyn Đ, tnh Bà Ra - Vũng Tàu b kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thm s 09/2024/QĐ-PT ngày
22 tháng 3 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 122/2024/QĐ-PT
ngày 25 tháng 4 năm 2024, Thông báo về việc dời ngày xét xử phúc thẩm số
08/2024/TB-TA ngày 24 tháng 5 năm 2024, Quyết định thay đổi người tiến hành
t tng s 197/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 6 năm 2024, Quyết định tm ngng
phiên tòa số 66/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 6 năm 2024, Thông báo về việc mở
lại phiên tòa s 119/2024/TB-TA ngày 07 tháng 8 năm 2024Quyết định thay
đổi người tiến hành t tng s 133/2024/QĐ-PT ngày 14 tháng 8 năm 2024, gia
các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Thị Khắc L, sinh năm 1934.
Địa chỉ: A đường s A, khu ph E, phường T, Qun G, Thành ph H Chí
Minh (vắng mặt).
2. Bà Nguyễn Thị Kim Đ, sinh năm 1940.
Địa chỉ: Số E khu phố T, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương (vắng
mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn:
Ông Nguyễn Bá Đ1, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Tổ D, khu phố H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, theo
Giấy ủy quyền ngày 22-5-2023 (có mặt).
- Bị đơn: Ông Cao Cơ T, sinh năm 1963.
Địa chỉ: A, đường N, khu phố H, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Rịa - Vũng Tàu
(có mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị T1, sinh năm 1961 (có mặt)
2. Bà Cao Diệu A, sinh năm 1986 (có mặt)
3. Bà Cao Diệu N, sinh năm 1989 (có mặt)
4. Ông Cao Diệu Kim L1, sinh năm 1993 (có mặt)
5. Ông Nguyễn Tấn K, sinh năm 1989 (có mặt)
Cùng địa chỉ: A 2/15, đưng N, khu ph H, th trn P, huyện Đ, tỉnh Bà Ra
- Vũng Tàu.
6. Bà Lưu Kim P, sinh năm 1957.
Địa chỉ: 4 V, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
7. Ông Lưu Ngọc Đ2, sinh năm 1955.
Địa chỉ: 3 T, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
8. Ông Lưu Ngọc S, sinh năm 1954.
Địa chỉ: C V, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
9. Bà Lưu Kim N1, sinh năm 1961.
Địa chỉ: C V, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà P, ông Đ2, ông S và bà N1:
Ông Nguyễn Bá Đ1, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Tổ D, khu phố H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, theo
Giấy ủy quyền ngày 04-6-2024 (có mặt).
- Người làm chứng: Bà Văn Thị N2 (N3), sinh năm 1958.
Địa chỉ: Thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Người kháng cáo: Ông Cao Cơ T - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Nguyn Th Khc L bà Nguyễn Thị Kim Đ (do ông Nguyễn
Bá Đ1 đại diện) trình bày:
Lúc sinh thời, từ trước năm 1997, chruột L, Đ là bà Nguyn Th V
cho ông Cao T thuê một căn nhà phố (nay là số nhà A khu phố H, thị trấn P)
tọa lạc trên thửa đất 226, tờ bản đồ số 28 (mới thửa 293, tờ bản đồ số 88) thị
trấn P, huyện Đ. Đất đã được Ủy ban nhân dân huyện L (cũ) cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày 24-7-2001 cho V. Tuy nhiên, việc thuê nhà hai bên
không làm hợp đồng, chỉ nói miệng. Năm 1996, do ông T không trả tiền thuê nhà,
cũng như không trả lại nhà thuê nên V khởi kiện đòi lại nhà cho thuê. Tại
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 75/QĐHGT ngày 24-7-
1997, Tòa án nhân dân huyện L đã công nhận cho ông Cao Cơ T đưc thuê trong
năm 1997, tiền thuê nhà là 50.000 đồng.
Hàng năm, ông T đóng tiền thuê nhà cho N2 (là cháu bà V), do bà V ở xa
nên bà N2 thu dùm. Tuy nhiên, từ khi V chết năm 2012 cho đến nay (theo đó
hợp đồng thuê nhà bằng miệng cũng chấm dứt hiệu lực theo quy định của pháp
luật), chị em nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu ông T vợ con ông trả lại nhà
thuê để chị em nguyên đơn quản di sản thừa kế của V nhưng ông T không
chịu giao trả. Bà V chết không để lại di chúc. Bà V không có chồng con, cha m
đều đã chết nên chị em nguyên đơn người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai
của V. Nên theo quy định của pháp luật, chị em nguyên đơn quyền đòi lại
và quản lý di sản thừa kế của bà V.
vậy, nguyên đơn L, Đ yêu cầu Tòa án giải quyết: Chấm dứt hợp
đồng thuê nhà đối với căn nhà số A, đường N, Khu phố H, thị trấn P, huyện Đ,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trên thửa đất số 226 tờ bản đồ 28, thị trấn P (nay là thửa
293, tờ bản đồ 88) thị trấn P giữa Nguyễn Thị V ông Cao T; buộc các
ông, Cao T, Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N, Cao Diệu Kim L1,
Nguyễn Tấn K phải giao lại nhà thuê cho L, Đ quản di sản thừa kế của
bà V.
Bị đơn ông Cao Cơ T trình bày:
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. m 1930, ông nội của
ông T tên Cao G thuê 2 căn phố, chủ phố (không biết tên) làm việc cho P1.
Đến khi đình chiến, ông chủ phố đi định cưPháp giao lại 02 căn phố cho ông
nội ông T thỏa thuận tình cảm giữa ông nội ông T ông chủ phố về việc
ông nội ông T cho vợ ông chủ phố H tiền ăn trầu cau cho đến khi H
qua đời (không nhớ thời gian). Hai gia đình ông Cao Cơ T và bà Cao Cơ T2 sống
ổn định từ đó đến nay và đóng thuế nhà đất cho nhà nước đầy đủ. Khi bà H chết,
Văn Th N2 mời các hộ gia đình (5 hộ) đến để làm hợp đồng thuê nhà, 2 hộ gia
đình ông T T2 không đồng ý hợp đồng thuê nhà, vì đã sự thỏa thuận giữa
ông nội ông T và chủ phố đã giao nhà lại cho ông nội ông T.
Năm 1996, N2 làm đơn thưa gia đình ông T đến Ủy ban nhân dân
nhưng không giải quyết được. Sau đó, N2 lại đưa lên Tòa án huyện giải quyết.
Hai gia đình không đồng ý trả nhà cho thuê, nhưng quyết định của Tòa án buộc
phải trả lại nhà nên hai gia đình không đồng ý thi hành án. Đến năm 1998, có diễn
tập chiến dịch A2 có mi 2 gia đình ra ban ấp H để giải quyết, có đội thi hành án
huyện L, thanh tra huyện L, Văn Thị N2 và bà Lâm Thị Ccon bà H, bà N2
và bà C nói gia đình ông T có đưa tiền rồi, thực chấtgia đình ông T không
đưa tiền. Sau khi nghe i như vậy thì Đội thi nh án Thanh tra huyện cho
các bên về, Thanh tra huyện L có nói là Tòa án đã xử sai.
Nguyên đơn yêu cầu trả nhà, ông T không đồng ý gia đình đã ổn định,
ông nội của ông T đã ở từ trước năm 1930, ông T đã từ khi sinh ra từ năm 1963
đến nay ông T đóng thuế đất cho nhà nước được 25 năm. Như vậy, gia đình
ông T đã ở được 93 năm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Cao Diệu A trình bày:
Diệu A đồng ý với ý kiến của ông T. Về nguồn gốc nhà đất giống như
ông T trình bày. Khi Tòa án thụ vụ án thì gia đình bà A mới biết đất đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho V. Gia đình A không đồng ý
với Quyết định số 75/QĐHGT ngày 24-7-1997 của Tòa án nhân dân huyện L.
Việc cấp Giấy chứng nhận cho hộ bà Nguyễn Thị V đúng không? Việc Ủy ban
nhân dân huyện L cấp cho hộ bà V là cấp cho ai, cấp có đúng mục đích sử dụng,
hiện trạng hay không? Cấp 300 m
2
đất đúng không? Gia đình A không
biết bà V là ai, bà V sử dụng đất từ khi nào?
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Cao Diệu N ông Nguyễn Tấn
K trình bày:
Bà N và ông K đồng ý với ý kiến của ông T.
Ti Bn án dân s thẩm s 72/2023/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Đ, tnh Bà Ra - Vũng Tàu, đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Khắc L, bà Nguyễn Thị
Kim Đ về việc yêu cầu chấm dứt Hợp đồng thuê nhà đối với số nhà A, đường N,
khu phố H, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trên một phần thửa đất số
293 (Thửa 226), tờ bản đồ 88 (Tờ 28), thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Rịa Vũng
Tàu giữa Nguyễn Thị V ông Cao T; buộc các ông Cao T, Phạm
Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N, Cao Diệu Kim L1, Nguyễn Tấn K phải giao lại
nhà thuê cho bà L, bà Đ qun lý di sản thừa kế của bà V.
2. Chấm dứt Hợp đồng thuê nhà đối với số nhà A, đường N, khu phố H, thị
trấn P, huyện Đ, tỉnh Rịa - Vũng Tàu trên một phần thửa đất số 293 (thửa
226), tờ bản đồ 88 (cũ 28), thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Rịa Vũng Tàu giữa
Nguyễn Thị V và ông Cao Cơ T.
3. Buộc ông Cao T, Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N, ông
Cao Diệu Kim L1, ông Nguyễn Tấn K phải giao lại nhà thuê có diện tích 58,7 m
2
diện ch đất 58,7 m
2
tại số nhà A, đường N, khu phố H, thị trấn P, huyện Đ,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc một phần thửa đất số 293 (thửa cũ 226), tờ bản đ
88 (tờ cũ 28), thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Bà Ra Vũng Tàu cho bà Nguyễn Thị Khắc
L, Nguyễn Thị Kim Đ (theo Mảnh trích đo địa chính số 346-2023 do Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ lập ngày 16-8-2023).
Phần diện tích nhà 58,7 m
2
diện tích đất 58,7 m
2
gồm các điểm giới hạn
như sau: 1, 2, 3, 4, 1 theo Mảnh trích đo địa chính số 346-2023 do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện Đ lập ngày 16-8-2023.
Ông Cao T, Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N, ông Cao
Diệu Kim L1, ông Nguyễn Tấn K được quyền lại căn nhà trên trong thời hạn 06
(sáu) tháng, kể từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
Hết thời hạn 06 (sáu) tháng, kể tngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật,
ông Cao T, bà Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N, ông Cao Diệu
Kim L1, ông Nguyễn Tấn K phải nghĩa vụ bàn giao lại nhà thuê diện tích
58,7 m
2
diện tích đất 58,7 m
2
tại số nhà A, đường N, khu phố H, thị trấn P,
huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc một phần thửa đất số 293 (thửa cũ 226),
tờ bản đồ 88 (cũ 28), thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Rịa Vũng Tàu cho Nguyễn
Thị Khắc L, Nguyễn Thị Kim Đ (theo Mảnh trích đo địa chính số 346-2023 do
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ lập ngày 16-8-2023).
Trường hợp ông Cao T, Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu
N, ông Cao Diệu Kim L1, ông Nguyễn Tấn K không tự nguyện thi hành thì
Nguyễn Thị Khắc L, Nguyễn Thị Kim Đ quyền yêu cầu quan thi hành
án dân sự huyện Đ áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án: Buộc ông Cao
T, bà Phạm Thị T1, Cao Diệu A, bà Cao Diệu N, ông Cao Diệu Kim L1, ông
Nguyễn Tấn K phải giao lại nhà thuê diện tích 58,7 m
2
và diện tích đất 58,7 m
2
tại snhà A, đường N, khu phố H, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
thuộc một phần thửa đất số 293 (thửa 226), tờ bản đồ 88 (cũ 28), thị trấn P,
huyện Đ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu cho Nguyễn Thị Khắc L, bà Nguyễn Thị Kim
Đ (theo Mảnh trích đo địa chính số 346-2023 do Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện Đ lập ngày 16/8/2023).
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng
cáo theo luật định.
Ngày 19-9-2023, bị đơn ông Cao Cơ T có đơn kháng cáo toàn b bản án sơ
thm, yêu cu cp phúc thm sa bản án theo hướng không chp nhn toàn b yêu
cu khi kin của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn (do ông Nguyễn Bá Đ1 đại diện) giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, gi
nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Bị đơn ông Cao T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét
xử sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các
nguyên đơn.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị T1, Cao Diệu A,
Cao Diệu N, Cao Diệu Kim L1Nguyễn Tấn K đồng ý với ý kiến, yêu cầu của
bị đơn ông Cao Cơ T.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lưu Kim P. Lưu Ngọc Đ2,
Lưu Ngọc S và Lưu Kim N1 (do ông NguyễnĐ1 đại diện) trình bày: Các ông
P, Đ2, S N1 con ruột của bà Nguyễn Khắc D ã chết năm 2021). D
không còn người thừa kế hàng thứ nhất nào khác. Người thừa kế hàng thứ nhất
của ông Nguyễn Văn S1 và bà Lâm Thị K1 là 04 người con gồm Nguyễn Thị V,
Nguyễn Thị Khắc L, Nguyễn Thị Kim Đ Nguyn Khc D, ngoài ra không
người nào khác. Bà P, ông Đ2, ông S và bà N1 đồng ý với bản án dân sự thẩm
xét xvụ án này, không ý kiến hoặc yêu cầu gì về việc cấp sơ thẩm không đưa
các ông, bà vào tham gia tố tụng tại cấp sơ thẩm.
Người làm chứng Văn Thị N2 khẳng định nhà đất tranh chấp tài sản
hợp pháp của ông Nguyễn Văn S1. Sau khi ông S1 chết, các con ông S1 đều ở xa
nên nhờ bà đứng ra trông coi nhà đất tranh chấp thu tiền thuê nhà hàng tháng
của những người thuê nhà, trong đó có có ông T. Sau khi thu tiền, bà đều chuyển
lại cho bà Nguyễn Khắc D. Sau khi Nguyễn Thị V chết, gia đình ông Cao Cơ
T không trả tiền thuê nhà nữa nên năm 1997, đã đại diện cho các con ông S1
Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị Khắc L, Nguyễn Khắc D Nguyễn Thị Kim
Đ khởi kiện tại Tòa án yêu cầu ông T trả tiền nhà và trả lại căn nhà đang thuê tại
số A N, khu phố H, thụ trấn P, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Sau đó, Tòa án
đã ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương snhư sau:
đồng ý cho ông Cao Cơ T thuê nhà năm 1997 với giá thuê 50.000 đồng/tháng
ông T phải trả tiền thuê nhà năm 1996 là 500.000 đồng. Khi ông T muốn sửa
chữa nhà phải xin phép N2 không được yêu cầu bồi thường chi phí sửa chữa
khi trả nhà. Từ năm 1997 đến năm 2021, gia đình ông T trả tiền thuê nhà đầy đủ,
nhưng từ năm 2022 đến nay, ông T không trả tiền thuê nữa. Vì vậy, các nguyên
đơn mới khởi kiện yêu cầu gia đình ông T trả lại căn nhà trên. xác nhận nhà
đất tranh chấp là tài sản hợp pháp của các con ông S1, bà Nguyễn Thị V đại diện
đứng tên.
Các đương sự không không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án và không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ.
Quan điểm của Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Bà Ra - Vũng Tàu về
vic gii quyết v án:
V t tụng: Đơn kháng cáo ca b đơn np trong thi hn luật đnh. Nhng
ngưi tiến hành t tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo
quy định. Những người tham gia t tụng đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ ca
mình theo quy định ca B lut T tng dân s.
Về nội dung: Đề ngh Hội đồng xét x không chp nhn yêu cu kháng cáo
ca b đơn, giữ nguyên quyết định ca bn án sơ thm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, trên cơ s
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Cao Cơ T nộp trong thời hạn luật đnh
nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Theo bản tường trình quan hnhân thân lời khai của các nguyên đơn
cũng như các con của bà Nguyễn Khắc D thì những người thừa kế hàng thứ nhất
của ông Nguyễn Văn S1, Lâm Thị K1 gồm Nguyễn Thị V, Nguyễn
Thị Khắc L, bà Nguyễn Thị Kim Đbà Nguyn Khc D. Do bà Nguyễn Thị V
đã chết năm 2012, V không chồng, con; cha mẹ bà V đã chết trước Vn
hàng thừa kế thnhất của V không còn ai còn sống. Người thừa kế hàng thứ
hai của bà V gồm có các em ruột là L, bà Đbà D. Năm 2021, bà D chết nên
các con bà D là bà P, ông Đ2, ông S và bà N1 là người thừa kế hàng thứ nhất của
bà D, chồng bà D là ông Lưu Ngọc  ng đã chết năm 2000. Trong Quyết định
công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân huyện L năm 1997 cũng sự tham
gia của bà D với tư cách là nguyên đơn kiện đòi lại căn nhà ông T đang thuê. Tuy
nhiên, cấp sơ thẩm không đưa các con của D vào làm người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong ván là có vi phạm về thủ tục tố tụng. Cấp phúc thẩm đã khắc
phục sai sót trên bằng cách đưa các con bà D vào tham gia ttụng. Tại các bản t
khai gửi cho Tòa án và tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bà
P, ông Đ2, ông S và bà N1 đều xác nhận đồng ý với yêu khởi kiện của các nguyên
đơn đồng ý với bản án sơ thẩm, không ý kiến hay yêu cầu khác, xác nhận
không tranh chấp về quyền sdụng đất và quyền sở hữu nvới bà V, bà L, bà Đ
trong ván này. Do vậy, không cần thiết phải hủy bản án thẩm đgiải quyết
lại. Cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm về sai sót nêu trên.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn:
[2.1] Bị đơn kháng cáo cho rằng: Căn nhà s B (mới 1Ô2/15) N, thị trấn
P, huyện Đ mà các nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại đã được ông nội bị đơn
ông Cao G thuê của ông chủ người Pháp từ năm 1930. Sau khi ông chủ nhà trở về
Pháp thì đã giao lại căn nhà này cho ông Cao G thỏa thuận là ông Cao G cho
vợ của ông chủ này tiền ăn trầu cau. Từ đó đến nay, ông nội bị đơn gia đình
bị đơn đã quản , sử dụng căn nhà này đóng thuế đầy đ cho Nhà nước. Do
vậy, gia đình bị đơn không đồng ý trả lại nhà thuê cho các nguyên đơn. Ngoài ra,
b đơn cũng cho rằng hộ V được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với thửa đất này là không hợp pháp và cần làm rõ cấp cho hộ là gồm những ai.
[2.2] Xét, lời khai nêu trên của bị đơn không kèm theo bất cứ tài liệu, chứng
cứ nào để chứng minh. Bị đơn không cung cấp được được h tên, địa chỉ của ông
chủ người Pháp đã giao nhà cho ông nội bị đơn, không cung cấp được văn bản
thỏa thuận giữa ông chủ người Pháp và ông Cao G (ông nội bị đơn) về việc tặng
cho hoặc chuyển nhượng căn nhà này, không cung cấp được chứng cứ về việc ông
Cao G đã thanh toán tiền cho má vợ của ông chủ người Pháp, mà nếu có việc ông
Cao G trả tiền ăn trầu cho má vợ của ông chủ người Pháp thì cũng không chứng
minh được việc ông Cao G hay ông Cao T chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà
này, vì vcủa chủ nhà không phải chủ nhà và không thể quyết định việc
mua bán hay tặng cho căn nhà này thay cho chủ nhà nếu không văn bản ủy
quyền của chủ nhà. Vì vậy, những lời khai trên của bị đơn là không có căn c nên
không được chấp nhận.
[2.3] Về các biên lai đóng thuế bị đơn cung cấp: Đây là các biên lai đóng
thuế nhà đất do ông Cao G và ông Cao T là người nộp, nhưng trong các biên lai
này không ghi nội dung nộp thuế cho căn nhà hoặc thửa đất nào, diện tích nhà đất
chịu thuề ghi trong các biên lai này 80m
2
không phù hợp với diện tích n
nhà mà b đơn đang sử dụng 58,7m
2
. Do vậy, đây cũng không phải căn c
chứng minh quyền sử dụng đất sở hữu nhà hợp pháp cho bị đơn đối với căn
nhà đang tranh chấp.
[2.4] Trong khi đó, các nguyên đơn cung cấp được các tài liệu, chứng cứ
chứng minh quyền sử dụng đất, sở hữu nhợp pháp đối với căn nhà bị đơn đang
ở, cụ thể như sau: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà Nguyễn Thị
V năm 2001 đối với thửa đất số 226, tờ bản đồ số 28 (nay là thửa 293, tờ bản đ
số 88) thị trấn P, huyện Đ. Theo sơ đồ vị trí do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện Đ lập ngày 16-8-2023 thì căn nhà các bên tranh chấp gắn liền trên thửa
đất này. Theo lời khai của các nguyên đơn người làm chứng Văn Thị N2 (là
người đại diện cho các nguyên đơn trong vụ án kiện đòi nhà cho thuê năm 1997)
thì nguồn gốc nhà đất này là của cha của các nguyên đơn là ông Nguyễn Văn S1
(là kỹ sư cầu đường làm việc cho chính quyền của Pháp trước đây) xây dựng trên
thửa đất được mẹ vợ cho. Ông S1 xây 09 căn nhà phố trên thửa đất này, trong đó
ông Cao G thuê 1 căn đang tranh chấp và ông Cao K2 là con của ông Cao G thuê
1 căn. Mặc việc ông Cao G thuê nhà của ông S1 không n bản giấy tờ
nhưng lời khai này hoàn toàn phù hợp với sự thừa nhận của phía bị đơn vviệc
ông nội bị đơn ông Cao G đã thuê căn nđang tranh chấp từ một ông chủ
người Pháp, phù hợp với tờ trích lục địa bộ mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án
đứng tên ông Nguyễn Văn S1. Sau khi ông S1 chết, năm 1997 V, bà L và bà D
là các con ông S1, bà K1 đã đứng đơn kiện ông Cao Cơ T để đòi lại căn nhà đang
tranh chấp này. Quá trình giải quyết vụ án này, ông T và cha là ông Cao K2 thừa
nhận có thuê 02 căn nhà của các nguyên đơn đồng ý thỏa thuận tiếp tục thuê
nhà năm 1997 và trả tiền thuê mỗi tháng là 50.000 đồng, khi muốn sửa chữa nhà
phải được chủ nhà cho phép. Thỏa thuận này đã được Tòa án nhân dân huyện L
công nhận tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 75/QĐHGT ngày 24-7-1997
và hiện đang có hiệu lực pháp luật. Như vậy, qua c chứng cứ nêu trên cho thấy,
bản thân ông Cao Cơ T đã thừa nhận căn nhà gia đình ông đang ở là do thuê của
các nguyên đơn và bà V chứ không phải tài sản hợp pháp của b đơn.
[2.5] Năm 1998, V đại diện cho các đồng thừa kế của ông Nguyễn n
S1 (bà Đ, bà L D) làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đt
đối với thửa đất 226 nêu trên. Đến năm 2001, V được cấp giấy chứng nhận
quyền sdụng đất ghi tên hộ bà Nguyễn Thị V . Theo lời khai xác nhận của bà L,
Đ và các con ca D tại phiên tòa phúc thẩm, khi V làm thủ tục xin cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên, mặc các chị em trong
gia đình chưa thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của cha m nhưng không ai
tranh chấp với bà V. Nay, những người y cũng xác nhận không tranh chấp về
việc bà V được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với thửa đất trên. Các
đồng thừa kế của bà V ng thừa nhận giấy chứng nhận quyền sdụng đất cấp
cho hộ bà V nhưng thực tế bà V không có chồng, con; cha mẹ bà V đã chết trước
khi bà V được cấp giấy chứng nhận nên hộ bà V thực chất chỉ có một mình bà V.
Điều này phù hợp lời khai của người làm chứng là bà N2. Do vậy, việc bị đơn và
người liên quan đề nghị xác minh về hộ bà V là không cần thiết.
[2.6] Ngoài ra, nguyên đơn bà N2 còn cung cấp được 02 tờ cam kết do
ông Cao Cơ T viết với nội dung xin phép được sửa chữa căn nhà thuê và cam kết
sau này khi ra đi không đòi lại tiền đã sửa chữa. Ông T thừa nhận chữ viết, chữ
trong 02 tờ giấy này của ông. Điều này cho thấy ông T đã thừa nhận căn nhà
này do ông thuê của các nguyên đơn nên mới phải xin phép người đại diện của
các nguyên đơn khi sửa chữa nhà.
[2.7] Từ những căn cứ phân tích trên, đủ căn cứ kết luận căn nhà s A mà
gia đình bị đơn đang do bị đơn thuê của V các nguyên đơn. Nay bà V
đã chết, nên những người thừa kế hàng thứ 2 của V L, Đ các nguyên
đơn hoàn toàn quyền kiện đòi lại căn nhà này t người thuê để họ quản di
sản của V để lại. Trong phạm vi vụ án này, Tòa án không giải quyết việc phân
chia di sản thừa kế của Nguyễn Thị V hay ông Nguyễn Văn S1, Lâm Thị
K1. Nếu các đồng thừa kế của ông S1, bà K1 hay bà V có tranh chấp về việc chia
thừa kế thì có quyền khởi kiện vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[2.8] Xét, ông Cao Cơ T, Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N,
ông Cao Diệu Kim L1 và ông Nguyễn Tấn K đều xác nhận t năm 1997 đến nay
không trả tiền thuê nhà cho các nguyên đơn, còn nguyên đơn khai b đơn không
trả tiền thuê nhà từ năm 2022 đến nay. Như vậy, bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ trả tiền thuê nhà theo hợp đồng thuê nhà. Theo Điều 481 Bộ luật Dân sự,
khi bên thuê không trả tiền thuê trong 3 kỳ liên tiếp thì bên cho thuê quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng thuê đòi lại tài sản. vậy, việc các nguyên đơn
kiện đòi bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả lại nhà thuê
là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được cấp sơ thẩm và
phúc thẩm chấp nhận.
[2.9] Về việc trả tiền thuê ncòn thiếu quyền lưu cư của gia đình bị đơn:
Do các nguyên đơn không yêu cầu bị đơn trả tiền thuê ncòn thiếu nên Tòa
án không giải quyết. Bản án sơ thẩm tuyên gia đình b đơn được tiếp tục ở tại căn
nhà tranh chấp trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp lut là
đảm bảo quyền lợi cho gia đình bị đơn, các nguyên đơn không kháng cáo phần
này nên cần giữ nguyên như án sơ thẩm.
[2.10] Về chi phí sửa chữa nhà thuê: Quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm
phúc thẩm, bị đơn không yêu cầu nguyên đơn thanh toán stiền đã bỏ ra đ
sửa chữa nhà thuê. Điều này phù hợp với nội dung 02 giấy cam kết ông T đã ký.
Do vậy, Tòa án không giải quyết vấn đề này.
[3] Về chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm: Cấp sơ thẩm đã giải quyết nội dung
này đúng quy định pháp luật nên giữ nguyên.
[4] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm. Nhưng do bị đơn là người cao tuổi nên được miễn
nộp án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Cao Cơ T, giữ nguyên
quyết định của bản án sơ thẩm:
Căn cứ khoản 3 Điu 26, khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điu
147, Điu 165, Điu 227, Điu 228, Điu 266, Điu 271, Điu 273, Điều 296 Bộ
luật Tố tụng dân sự; Điều 165, Điu 166, Điu 481, Điều 651 Điu 688 của Bộ
luật Dân sự; Điều 129, Điều 132 Luật Nhà năm 2014; Điều 5, Điều 97, Điu 98,
Điu 99, Điu 100, Điu 203 Luật Đất đai năm 2013; Điu 12, Điu 26, Điu 27,
Điu 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Khắc L bà Nguyn Th
Kim Đ:
1. Chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa ông Cao Cơ T với Nguyễn Thị V,
Nguyễn Thị Khắc L, Nguyễn Khắc D đối với căn nhà số A (số là 2Ô2/5),
đưng N, khu ph H, th trn P, huyện Đ, tnh Ra - Vũng Tàu, gắn liền trên
một phần thửa đất số 293 (cũ là 226), tờ bản đồ 88 (cũ là 28), thị trấn P, huyện Đ,
tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
2. Buộc ông Cao T, Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N, ông
Cao Diệu Kim L1, ông Nguyễn Tấn K phải giao trả lại cho bà Nguyễn Thị Khắc
L bà Nguyn Th Kim Đ quyền sử dụng đất và căn nhà diện tích 58,7 m
2
tại số
A (số cũ là 2Ô2/5), đưng N, khu ph H, th trn P, huyện Đ, tỉnh Bà Ra - Vũng
Tàu gắn liền trên diện tích đất 58,7m
2
thuộc một phần thửa đất số 293 (cũ 226),
tờ bản đ88 (cũ là 28), thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Bà Ra Vũng Tàu, để bà Nguyễn
Thị Khắc L bà Nguyn Th Kim Đ quản di sản thừa kế của bà Nguyễn Thị
V để li. Phần diện tích nhà 58,7 m
2
diện tích đất 58,7 m
2
gồm các điểm giới
hạn như sau: 1, 2, 3, 4, 1 theo Mnh trích đo địa chính số 346-2023 do Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ lập ngày 16-8-2023.
3. Ông Cao Cơ T, bà Phạm Thị T1, Cao Diệu A, Cao Diệu N, ông Cao
Diệu Kim L1, ông Nguyễn Tấn K đưc quyn lại căn nhà trên trong thời hn 06
(sáu) tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (21-8-2024).
Hết thời hạn 06 (sáu) tháng nêu trên, ông Cao T, Phạm Thị T1, Cao
Diệu A, Cao Diệu N, ông Cao Diệu Kim L1, ông Nguyễn Tấn K phải nghĩa
vụ giao trả lại căn nhà trên cho bà Nguyn Th Khc L và bà Nguyn Th Kim Đ.
Trường hp ông Cao T, Phạm Thị T1, bà Cao Diệu A, Cao Diệu
N, ông Cao Diệu Kim L1, ông Nguyễn Tấn K không tự nguyện thi hành thì
Nguyễn Thị Khắc L, Nguyễn Thị Kim Đ quyn yêu cầu quan thi hành
án dân sự có thẩm quyền ng chế thi hành án theo quy định ca pháp lut.
4. Về chi phí tố tụng: Nguyn Th Khc L, Nguyn Th Kim Đ tự
nguyện chu chi phí t tụng là là 6.151.275 đồngđã nộp xong.
5. V án phí dân s thm: Ông Cao T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm
ngàn) đồng án phí dân s sơ thẩm.
6. Án phí dân s phúc thm: Ông Cao Cơ T đưc miễn do là người cao tui.
7. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (21-8-
2024).
Trường hp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Lut Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phi thi hành án dân s quyn
tho thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án hoc b
ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lut Thi hành
án Dân s; thi hiệu thi hành án được thc hiện theo quy đnh tại Điều 30 Lut
Thi hành án Dân s.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- S Tư pháp tỉnh BR-VT;
- TAND H. Đ, tnh BR-VT;
- VKSND H.Đ, tnh BR-VT;
- Chi cc THADS H. Đ, tnh BR-VT;
- Các đương sự;
- Lưu: Tòa Dân s, H sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Minh Vỹ
Tải về
Bản án số 172/2024/DS-PT Bản án số 172/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 172/2024/DS-PT Bản án số 172/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất