Bản án số 38/2018/HNGĐ-ST ngày 07/09/2018 của TAND huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 38/2018/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 38/2018/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 38/2018/HNGĐ-ST ngày 07/09/2018 của TAND huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Vạn Ninh (TAND tỉnh Khánh Hòa) |
Số hiệu: | 38/2018/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/09/2018 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Anh Đặng Quốc T và chị Nguyễn Thị C ly hôn |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V - TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 38/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 07 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Khánh Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 101/2018/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2018, về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2018/QĐST - HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Đặng Quốc T - sinh năm: 1977; trú tại: Tổ dân phố số x, thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị C - sinh năm: 1992; hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố số x, thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở hiện nay: Thôn Q, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trong đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 21.3.2018, các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Đặng Quốc T trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Quốc T và chị Nguyễn Thị C tự nguyện kết hôn, cưới nhau năm 2012, đăng ký kết hôn ngày 25 tháng 11 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa.
Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến tháng 11 năm 2014 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn vợ chồng kéo dài và đến tháng 7 năm 2015 thì mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt và chị C đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ của chị C tại thôn Q, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa sinh sống cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hợp, thường xuyên kình cải, bất đồng quan điểm sống, nghi ngờ, không tôn trọng nhau.
Hiện nay, vợ chồng không sống chung với nhau, không ai quan tâm chăm sóc cho ai. Nay anh T thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẩn vợ chồng đã trầm trọng.
Anh Đặng Quốc T yêu cầu Tòa án giải quyết: Cho anh T được ly hôn với chị Nguyễn Thị C.
- Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung là Đặng Thị Mỹ C - sinh ngày 14 tháng 9 năm 2014. Hiện nay, con chung do anh T nuôi dưỡng.
Anh Đặng Quốc T yêu cầu Tòa án giải quyết: Cho anh T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh T không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung.
+ Về nợ chung: Vợ chồng không nợ của ai, không ai nợ của vợ chồng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn là chị Nguyễn Thị C để lấy lời khai nhưng chị Nguyễn Thị C đều không có mặt để làm việc theo giấy triệu tập của Toà án, nên Toà án không lấy được lời khai của chị C, không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiêntòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Đặng Quốc T yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn ThịC nên căn cứ theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án Hôn nhân và gia đình tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Chị Nguyễn Thị C là bị đơn đã được Tòa án nhân dân huyện V triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị C.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Mặc dù không lấy được lời khai của bị đơn là chị Nguyễn Thị C và tại phiên toà vắng mặt bị đơn lần thứ 2, nhưng theo lời khai của nguyên đơn là anh Đặng Quốc T thì anh T và chị C kết hôn tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn ngày 25 tháng 11 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa, nên quan hệ hôn nhân giữa anh Đặng Quốc T và chị Nguyễn Thị C là hợp pháp.
Căn cứ vào lời khai của anh T và tại phiên tòa hôm nay, Tòa thấy vợ chồng anh T, chị C thực tế không còn sống chung với nhau, không ai quan tâm, chăm sóc cho ai, giữa anh T và chị C đã xảy ra mâu thuẫn nhưng cả hai người không tìmđược phương pháp nào để tiếp tục sống chung với nhau nữa. Quá trình giải quyết vụ án, chị C đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần để giải quyết việc ly hôn giữa hai người nhưng chị C đều không có mặt để làm việc theo giấy triệu tập của Toà án. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa vợ chồng anh T, chị C đã mâu thuẫn gay gắt và chị C không còn quan tâm gì về cuộc hôn nhân này nữa. Nên có cơ sở để xác định tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị C đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc anh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh T được ly hôn với chị Nguyễn Thị C là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của anh T.
[3] Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Vợ chồng anh T và chị C có một con chung là Đặng Thị Mỹ C - sinh ngày 14 tháng 9 năm 2014. Hiện nay con chung do anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên yêu cầu của anh T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến trưởng thành(đủ 18 tuổi) là không trái với đạo đức xã hội và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của anh T. Anh Đặng Quốc T không yêu cầu chị Nguyễn Thị C cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản chung: Anh Đặng Quốc T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung.
+ Nợ chung: Anh Đặng Quốc T xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai, không ai nợ chung của vợ chồng.
[5] Bị đơn chị Nguyễn Thị C mặc dù đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều không đến Tòa án để trình bày ý kiến về việc kiện của nguyên đơn và cũng không hoà giải được vụ án.Vì vậy, không có cơ sở để giải quyết yêu cầu của chị C.
[6]Về án phí: Anh Đặng Quốc T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩmtheo quy định của pháp luật với số tiền là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1 -Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Quốc T và chị Nguyễn Thị C được ly hôn.
2 -Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung:
Giao anh Đặng Quốc T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đặng Thị Mỹ C - sinh ngày 14 tháng 9 năm 2014cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Đặng Quốc T không yêu cầu chị Nguyễn Thị C cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Trong quá trình nuôi dưỡng con chung, nếu xét thấy cần thiết anh T, chị C có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung cũng như về cấp dưỡng nuôi con chung.
3 - Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung.
4 - Về án phí: Anh Đặng Quốc T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0014065 ngày 02tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V; anh T đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
5 - Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; quyền kháng cáo của bị đơn là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!