Bản án số 37/2025/DS ngày 17/06/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2025/DS

Tên Bản án: Bản án số 37/2025/DS ngày 17/06/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hòa Bình
Số hiệu: 37/2025/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bùi Thị T khởi kiện Nguyễn Thị Đ và Nguyễn Văn N, đề nghị Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
Các Thẩm phán:
bà Hoàng Ngọc Liễu
ông Nguyễn Thanh Tùng
bà Bạch Thị Hồng Hoa
- Thư phiên toà: Phương Anh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Hòa
Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình: ông QThanh -
Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 25/2025/ TLPT - DS ngày 16 tháng
04 năm 2025 về Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do
Bản án dân sự thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2025 của Tòa
án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 32/2025/QĐ-PT ngày 03
tháng 06 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bùi ThT, sinh năm 1978. Địa chỉ: số nhà A, tổ H,
phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
2. Bị đơn: ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1960 Nguyễn Thị Đ, sinh
năm 1972. Cùng trú tại: tổ G, phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
3. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1996. Địa chỉ: tổ G, phường T, thành phố
H, tỉnh Hòa Bình.
3.2. Cụ Nguyễn Thị Q, sinh năm 1935. Địa chỉ: tổ G, phường T, thành phố
H, tỉnh Hòa Bình.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 37/2025/DS - PT
Ngày: 17 - 6 - 2025
V/v Tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
3.3. Ông Nguyễn Quang T1, sinh năm 1958. Địa chỉ: tG, phường T, thành
phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.4. Ông Nguyễn Quang L1, sinh năm 1965. Địa chỉ: tổ G, phường T, thành
phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.5. Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1973. Địa chỉ: tổ G, phường T, thành
phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.6. Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1968 (đã chết ngày 02/8/2022). Người
kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông T2: Nguyễn Thị N2, sinh năm 1969; đồng
thời người đại diện theo pháp luật của chị Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày
05/10/2007 anh Nguyễn Mạnh Đ1, sinh ngày 13/3/2012 (con ông T2). Cùng
địa chỉ: tổ G, phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.7. Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1964. Địa chỉ: tG, phường T, thành
phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.8. Ông Nguyễn Văn T4, sinh năm 1977. Địa chỉ: tH, phường T, thành
phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.9. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971. Địa chỉ: tổ F, phường T, thành phố
H, tỉnh Hòa Bình.
3.10. Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.11. Ủy ban nhân dân phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.12. Văn phòng C. Địa chỉ: A C, tổ G, phường P, thành phố H, tỉnh Hòa
Bình.
3.13. Công ty TNHH L4, lâm sản xuất khẩu Hữu Nghị. Địa chỉ: tổ G,
phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
4. Người đại diện theo ủy quyền của cụ Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị N2,
ông Nguyễn Văn N1: ông Nguyễn Quang T1, sinh năm 1958. Địa chỉ: tổ G,
phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
5. Người làm chứng: bà Bùi Thị D. Địa chỉ: tổ F, phường T, thành phố H,
tỉnh Hòa Bình.
6. Người kháng cáo: nguyên đơn Bùi Thị T và người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan cụ Nguyễn Thị Q, ông Nguyễn Quang T1, bà Nguyễn Th N2,
ông Nguyễn Văn N1.
(Bà T, bà Đ, chị L, cQ, ông T1, bà N2, ông T4, bà D có mặt. Ông N, ông
L1, Ủy ban nhân dân thành phố H, Ủy ban nhân dân phường T, Văn phòng C
đơn xin xét xvắng mặt. Ông T3 vắng mặt. Còn lại các đương sự khác Tòa án
không triệu tập).
3
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
Bùi Thị T trình bày: ngày 21/7/2016, T cùng ông N, Đ con gái là
Nguyễn Thị L Hợp đồng chuyển nhượng 2.960,1m
2
đất trồng cây lâu năm trong
tổng số 3.360,1m
2
đất tại thửa đất số 96, tờ bản đồ 43 tại tổ G (tổ A cũ), phường
T, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp mang tên hộ ông
Nguyễn Văn N do Ủy ban nhân dân thành phố H cấp 28/5/2012, hợp đồng thực
hiện tại Văn phòng C. Hai bên thothuận giá chuyển nhượng diện tích đất nêu
trên 500.000.000 đồng. Ngày 22/7/2016, hai bên lập Giấy chuyển nhượng
đất do T người viết với nội dung: vợ chồng ông N, Đ bán cho vchồng
T mảnh đất khoảng 3000.000m
2
(số liệu thực khoảng 3000m
2
) với số tiền
500.000.000 đồng, xác nhận vợ chồng T đã thanh toán cho vợ chồng ông N số
tiền 300.000.000 đồng, còn lại số tiền 200.000.000 đồng hai tháng sau T sẽ
thanh toán nốt lãi được tính theo lãi suất Ngân hàng tiền gửi. Ngoài ra, trong
văn bản thỏa thuận về việc bên T anh chị Tuấn T có trách nhiệm san lấp
mặt bằng cho anh chị Nam Đào như ý để xây nhà”. Sau khi ký kết Hợp đồng mua
bán và trả tiền, bà T đã tiến hành san lấp, bê tông hoá mặt bằng để xây dựng các
nhà xưởng trên đất. Ngày 30/7/2016, ông N, Đ, chị L cùng T tiếp tục lập
Hợp đồng hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đất đã xác lập ngày
21/7/2016 với do ông N, Đ đồng ý thoả thuận bán thêm cho cho T
100m
2
đất thổ của thửa đất số 96, tbản đsố 43 với giá 90.000.000 đồng,
ông N Đ còn giữ lại 300m
2
đất thổ cư. Như vậy tổng tiền phải thanh toán
cho gia đình ông N, Đ 590.000.000 đồng, đã thanh toán 300.000.000 đồng.
Ngày 19/8/2016, hai bên lập văn bản viết tay “Thống nhất ranh giới thửa đất
giữa hai hộ gia đình”, cụ thể: bên chuyển nhượng ông N, Đ chuyển nhượng
cho T toàn bộ diện đất vườn 2.960,1m
2
100m
2
đất thổ cư, giá chuyển nhượng
590.000.000 đồng, trong văn bản này xác nhận bên T đã thanh toán đủ
cho ông N, Đ số tiền 460.000.000 đồng, n nợ lại 130.000.000 đồng chưa trả,
hai bên thống nhất khi nào làm thủ tục tách bìa, sang tên thì bà T sẽ trả nốt.
Ngày 14/9/2016, ông N, bà Đ, chị L và bà T tiếp tục Hợp đồng chuyển
nhượng 3.660,1m
2
(có 400m
2
đất thổ cư) thuộc thửa đất số 96, tờ bản đồ 43 tại tổ
G, phường T, thành phố H cùng các tài sản gắn liền trên đất, có chứng nhận công
chứng của Văn phòng C. Ngoài số tiền 460.000.000 đồng hai bên xác nhận đã
thanh toán tại văn bản “Thống nhất ranh giới thửa đất hai hộ”, ngày 19/8/2016
T còn thanh toán thêm cho ông N, Đ số tiền 200.000.000 đồng (Đưa tay vào
thời điểm trước khi lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
4
14/9/2016). T còn nợ ông N, Đ số tiền 130.000.000 đồng. Tại thời điểm
thỏa thuận mua hết 400m
2
đất thổ thì ông N, Đ đã bắt đầu xây dựng ngôi
nhà hiện giờ ông N, bà Đ đang ở. Hai bên có thoả thuận miệng với nhau khi nào
ông N, Đ chuyển đi thì T sẽ thanh toán nốt số tiền xây nhà cho ông N, Đ.
Tuy nhiên, sau đó phía ông N, Đ không thực hiện theo đúng thỏa thuận chuyển
nhượng, không chịu bàn giao bìa đất để đi làm thủ tục sang tên cho bà T. Nay bà
T yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu công nhận hiệu lực Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dng đất hai bên đã ký kết ngày 14/9/2016 tại Văn phòng C (2.960,1m
2
đất trồng cây lâu năm và 400m
2
đất thổ cư) cùng toàn bộ các công trình gắn liền
với đất cho T. Số tiền 130.000.000 đồng còn nợ bà T sẽ thanh toán đủ cho ông
N, bà Đ số tiền nhà ông N, Đ đã xây nkhi định giá tài sản bao nhiêu thì
bà T sẽ thanh toán thêm.
Bị đơn ông Nguyễn Văn N, Nguyễn Thị Đ trình bày: xác nhận ngày
21/7/2016 hộ ông N gồm ông N, Đ chị L (con gái của vợ chồng ông N,
Đ) có ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như bà T trình bày tại
thửa đất 96, tờ bản đồ số 43 với nội dung chuyển nhượng là 2.960,1m
2
đất trồng
cây lâu năm với giá thoả thuận mua n 500.000.000 đồng. Việc chuyển
nhượng được thực hiện tại Văn phòng C. Sau đó giữa bà T và hộ gia đình ông N
có thống nhất thêm 100m
2
đất thổ cư cho T tại thửa đất số 96, tờ bản đồ số 43
với giá 90.000.000 đồng, 300m
2
đất còn lại thì hộ ông N vẫn sdụng. vậy,
nay bà T khởi kiện hộ ông N không đồng ý công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 14/9/2016 với nội dung chuyển nhượng toàn bộ đất
3.660,1m
2
, gồm cả 400m
2
đất thổ cư, hộ ông N chỉ tự nguyện mua bán 2.960,1m
2
đất trồng cây lâu năm và 100m
2
đất thổ cư; Không thừa nhận văn bản viết tay
“Thống nhất ranh giới thửa đất hai hộ gia đình” lập vào ngày 19/8/2016 như bà T
khai ông N, Đ khẳng định bản T nộp tại Toà đã bị sửa chữa vngày,
tháng năm đồng thời ông N, Đ đã xuất trình được 01 văn bản nội dung
hình thức tương tự văn bản đề ngày 19/8/2016 của T xuất trình nhưng được ghi
nhận lập ngày 19/11/2017 (bản chụp ảnh). Về việc thanh toán, ông N và Đ xác
nhận đã nhận 460.000.000 đồng của T, còn nợ 130.000.000 đồng chưa thanh
toán, đề nghị T trả đủ và tính theo lãi suất tiền gửi Ngân hàng từ năm 2016 đến
nay. Đối với việc T trình bày đã giao thêm số tiền 200.000.000 đồng đưa tay
cho vợ chồng ông N, Đ vào trước thời điểm ngày 14/9/2016 không đúng,
bản thân T cũng không chứng minh được việc giao nhận số tiền trên cho ông
N, bà Đ. Ông N khai rằng: những nội dung mua bán, chuyển nhượng với T, bà
Đ trình bày ở trên là đúng, quan điểm của ông N cũng giống với ý kiến của bà Đ
5
đã trình bày. Ngoài ra, về nguồn gốc thửa đất thửa đất số 96, tờ bản đồ 43 tại t
G, phường T, thành phố H do bố mẹ đẻ ông N cụ Nguyễn Xuân L2 (đã chết
năm 2013) cụ Nguyễn Thị Q đã khai hoang từ năm 1958. Sau đó đến năm 1980
khi ông N lập gia đình thì bố mẹ ông N cho sử dụng ông N khai hoang thêm.
Đến 2002, địa phương tiến hành soát và 2012 thì Đ đi làm thủ tục khai
cấp bìa đứng tên “Hộ ông Nguyễn Văn N”.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Văn T4 trình bày:
ông T4 chồng của T, ông xác nhận ý kiến T trình bày đúng. Đối với
quá trình thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với hộ ông
N, ông T4 mặt, các lần giao tiền bán đất giữa T với hông N thì ông T4
cũng có mặt, tuy nhiên không tham gia ký vào các Hợp đồng.
Người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, chị Nguyễn Thị L trình bày: việc
mua bán chuyển nhượng đất giữa hai bên đúng như những mẹ đẻ chị L
Nguyễn Thị Đ đã trình bày. Quan điểm của chị L giống như bà Nguyễn Thị Đ đã
nêu, chỉ đồng ý với một phần của Hợp đồng chuyển nhượng lập ngày 14/9/2016
về việc gia đình chL chỉ bán diện tích đất trồng cây lâu năm 2.960,1m
2
100m
2
đất thổ cư, không đồng ý bán 300m
2
đất thổ cư.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Quang T1 đồng thời
là người đại diện theo uỷ quyền của cụ Nguyễn Thị Q trình bày: nguồn gốc thửa
đất thửa đất số 96, tờ bản đồ 43 tại tổ G, phường T, thành phố H của bố mẹ đẻ
ông T1 cụ Nguyễn Xuân L2 cụ Nguyễn Thị Q đã khai hoang, phục hoá t
năm 1958, không có tranh gì với ai. Năm 1980, ông N cưới vợ lần đầu tiên với
Bùi Thị D, đến năm 1990 ông N và D ly hôn, khi ly hôn phía bà D không được
chia đất vì thửa đất ca ông N và bà D là của bố mẹ ông. Đến năm 1993, ông N
lấy bà Đ vẫn ở trên thửa đất cũ của bố mẹ ông T1 khai hoang. Đến năm 2013, cụ
L2 chết, từ đó chưa thực hiện việc chia đất. Quan điểm của gia đình ông T1
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp mang tên hộ ông Nguyễn Văn N đối với
thửa đất thửa đất số 96, tờ bản đồ 43 không đúng đấy đất của bố mẹ ông
T1 chưa được phân chia và không đồng ý với khởi kiện của T. Đề nghị Tòa
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bùi Thị T, đồng thời yêu cầu độc
lập tuyên hủy bỏ việc mua bán chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa T
hộ ông N.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Văn T3 trình bày:
về nguồn gốc thửa đất số 96, tờ bản đồ 43, diện tích hơn 3000m
2
gia đình ông
bà N - Đào (là anh trai và chị dâu của ông T3) cùng bà Bùi Thị T đang ở trên đất
có nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn N. Khoảng năm 1980, ông N ở cùng vợ cũ
6
Bùi Thị D, sau đó ông N và bà D ly hôn, ông N lấy bà Nguyễn Thị Đ sinh
sống trên thửa đất từ đó đến nay không có ai tranh chấp với ông N. Ông T3 khẳng
định bố mẹ ông là cụ L2, cụ Q và các anh em trong gia đình chưa từng sinh sống
trên thửa đất này. Thời điểm khi ông T3 còn nhỏ, trước năm 1980 khi ông N
bà D còn chưa kết hôn thì có thấy cụ Q canh tác trồng trọt trên thửa đất đó một
thời gian nhưng từ khi ông N lấy bà D ra ở trên thửa đất đó thì không thấy cụ
Q canh tác nữa. Quan điểm của ông T3 đề nghị Tán giải quyết theo quy định
của pháp luật. Đối với yêu cầu độc lập của Nguyễn Thị Q thì ông T3 không
đồng ý vì không đúng trên thực tế, suốt nhiều năm thửa đất mà hai bên đang tranh
chấp là của ông N, bà Đ sử dụng, sinh sống hợp pháp.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân phường T
trình bày: không đồng ý yêu cầu độc lập của cụ Q về việc đề nghị huỷ Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn với lý do bên cụ Q
cho rằng Ủy ban nhân dân phường T lập hồ sơ ban đầu trình cơ quan thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông N sai. Quan điểm Ủy ban nhân
dân là tại thời điểm ông N làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
ông N đang là người sử dụng thực tế là chủ hộ. Trong hộ gia đình không thấy có
vợ chồng cụ Q cùng những người con khác ở và sinh sống thường xuyên với hộ
ông N. Các thủ tục cấp cơ sở địa phương tiến hành trình Ủy ban nhân dân thành
phố cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên hộ ông N đúng thủ tục,
quy định của Luật Đất đai, cụ Q những người con của cụ Q không bất kỳ
đơn, ý kiến phản đối gì đến Ủy ban nhân dân phường tại thời thời điểm làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân thành phố H
trình bày: Tại Văn bản số 3612/UBND - TNMT ngày 24/9/2024, Ủy ban nhân
dân thành phố H nêu quan điểm không đồng ý với yêu cầu độc lập của người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Nguyễn Thị Q không có cơ sở. Ngày
13/7/2020, Ủy ban nhân dân thành phố H đã văn bản số 1966/UBND - T6 trả
lời ông Nguyễn Quang T1. Quan điểm hiện nay của Ủy ban nhân dân thành phố
H giữ nguyên ý kiến theo Văn bản số 1966/UBND-Ttr ngày 13/7/2020, trong
đó thể hiện việc sử dụng đất của cụ Q không đủ điều kiện để công nhận cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Trên sở khoản 4 Điều 50 Luật
Đất đai năm 2003 hồ sơ từ Ủy ban nhân dân phường T đề nghị Ủy ban nhân
dân thành phố H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK529374, số vào sổ
cấp giấy chứng nhận: CH 00734, ngày 28/5/2012 cho hộ ông Nguyễn Văn N thửa
đất số 96, tờ bản đồ số 43, diện tích 3.360,1m
2
đảm bảo đúng trình tự quy định.
7
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Văn phòng C trình bày: việc thực
hiện công chứng các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtcác tài sản
gắn liền trên đất giữa bên chuyển nhượng là ông N, bà Đ và chị L, cùng bên nhận
chuyển nhượng là bà T, Văn phòng công chứng đã thực hiện đúng theo quy định.
Việc các bên ký kết hợp đồng tự nguyện, không bị ép buộc được thực hiện
tại Văn phòng công chứng. Việc giao nhận tiền cụ thể giữa các bên, Văn phòng
công chứng không được chứng kiến chỉ ghi nhận theo đề nghị của hai bên.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Văn phòng công chứng không ý
kiến gì, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Công ty TNHH L4 - ông Đặng
Học Đ2 trình bày: giữa Công ty TNHH L4Bùi Thị T ký Hợp đồng cho thuê
đất số 01/HĐTĐ lập ngày 01/3/2017 với diện tích là 1.700m
2
. Thời hạn thuê 20
năm từ ngày 01/4/2017 đến 31/12/2036 với giá trị thuê 05 năm đầu tiên 80 triệu
đồng/năm, 15 năm còn lại giá trị của Hợp đồng 100.000.000 đồng/năm; Mục
đích là thuê đất để để Công ty sản xuất giấy tiền vàng. Tổng giá trị xây dựng trên
thửa đất công ty thuê của bà T khoảng 2.400.000.000 đồng. Toàn bộ tiền của
Công ty bỏ ra, không ai khác đóng góp. Công ty không ý kiến đối với yêu
cầu khởi kiện của T, ý kiến của bị đơn và những người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan khác. Ban đầu khi được Tòa án thông báo, Công ty yêu cầu độc
lập là trong trường hợp phán quyết sau này của vụ án ảnh hưởng đến quyền thuê
đất của Công ty giá trị các tài sản trên đất khác đã xây dựng thì yêu cầu T
phải bồi thường phần thiệt hại theo giá trị tài sản đã xây dựng. Đến nay ông xin
rút toàn bộ yêu cầu độc lập.
Người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Nguyễn Thị H trình bày:
giấy tờ viết tay mua đất rừng sản xuất từ T vào khoảng năm 2022. Theo bản
Trích đo hiện trạng tranh chấp thửa đất hộ ông Nguyễn Văn N và bà Bùi Thị T do
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh H thực hiện thì phần diện tích nhà xưởng của bà
hiệu số 01, diện tích 530,6m
2
(trong đó, phần diện tích nhà xưởng nhà
có thể hiện trên trích đo là xây chồm sang phần đất của thửa đất số 96, tờ bản đồ
số 43 đang tranh chấp là: 66,5m
2
). Nay bà T hộ ông N đang tranh chấp vHợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 96 tờ bản đồ 43, bà không có ý
kiến trong vụ án này. Trong trường hợp, phán quyết sau này của Toà án buộc
bà phải tháo dỡ đối với nhà xưởng thì bà sẽ khởi kiện T trong vụ án khác.
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2025 của
Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa nh đã quyết định: Áp dụng khoản 3
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 85; Điều 86; Điều 147; Điều
8
157; Điều 158; Điều 165; Điều 166; Điều 227; Điều 228; Điều 244; Điều 264;
Điều 266; Điều 267; Điều 271; Điều 273; Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự
2015. Điều 117; Điều 129; Điều 130; Điều 500; Điều 501; Điều 502; Điều 503;
Điều 688 của Bộ luật dân sự 2015; khoản 4 Điều 50 Luật Đất đai 2003; Điều
188 Luật Đất đai 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 4, khoản 6 Điều 26, khoản
3 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội. Tuyên x:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Công nhận một phần hiệu lực của Hợp đồng công chứng số 336/2016
quyển số 2/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14/9/2016 tại Văn phòng C, giữa bên nhận
chuyển nhượng Bùi Thị T với bên chuyển nhượng hộ gia đình ông
Nguyễn Văn N, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thị L về thỏa thuận chuyển nhượng
2.960,1m
2
đất trồng cây lâu năm (trừ lối đi chung) và 100m
2
đất thổ trong thửa
số 96, tờ bản đồ 43; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 529374, số
vào sổ cấp GCN: CH 00734, tên “hộ ông Nguyễn Văn Ndo y ban nhân dân
thành phố H, tỉnh Hòa Bình cấp ngày 28/5/2012; Địa chỉ đất tọa lạc tại: tổ A (nay
tổ G), phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; phần đất được công nhận hiệu
lực của T thể hiện theo Trích đo, đo đạc chỉnh lý Bản đồ địa chính số 01 - 2025
Hệ tọa độ VN B, tổ G, Tờ bản đồ số 43 (309533 - 9 - d) phường T - Văn phòng
đo đạc tỉnh H thực hiện ngày 06/01/2025 được lưu trong hồ sơ vụ án và gửi kèm
theo Bản án này. Sau khi trừ đi lối đi chung (theo trích đo) diện tích đất trồng cây
lâu năm còn lại bà T được công nhận chuyển nhượng là 2.909,0m
2
.
Không công nhận hiệu lực phần giao dịch Hợp đồng Công chứng số
336/2016 quyển số 2/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14/9/2016 tại Văn phòng C giữa
bên nhận chuyển nhượng bà Bùi Thị T, bên chuyển nhượng ông Nguyễn Văn N,
Nguyễn Thị Đ chNguyễn Thị L về việc chuyển nhượng diện tích 300m
2
đất thổ cư trong thửa số 96, tờ bản đồ 43; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s
BK 529374, số vào sổ cấp GCN: CH 00734, tên “hộ ông Nguyễn Văn N” do Ủy
ban nhân dân thành phố H, tỉnh a Bình cấp ngày 28/5/2012; Địa chỉ đất tọa lạc
tại: tổ A (nay Tổ G), phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình theo toạ độ, ranh
giới Trích đo, đo đạc chỉnh lý Bản đồ địa chính số 01 - 2025 Hệ tọa đọ VN B, tổ
7, Tờ bản đồ số 43 (309533 - 9 - d) phường T - Văn phòng đo đạc tỉnh H ngày
06/01/2025 (từ các điểm mốc 17, 18, 19, 20, 21, 22, 24, 25 trích đo có trong hồ
sơ vụ án và kèm theo Bản án).
Buộc Bùi Thị T phải nghĩa vụ thanh toán 130.000.000 đồng chưa
thanh toán cho hộ ông, Nguyễn Văn N, Nguyễn Thị Đ chị Nguyễn Thị L,
9
người đại diện nhận là: Ông Nguyễn Văn N hoặc người đại diện hợp pháp khác
theo quy định pháp luật; T không phải chịu lãi chậm trả.
Bùi Thị T quyền đến cơ quan thẩm quyền làm thủ tục tách thửa,
sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Bản án quy định của pháp
luật. Buộc hộ ông N, bà Đ, chL có nghĩa vụ giao nộp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BK 529374, số vào sổ cấp GCN: CH 00734, tên “hộ ông Nguyễn Văn
Ndo Ủy ban nhân dân thành phố H, cấp ngày 28/5/2012 khi quan thẩm
quyền yêu cầu, để làm thủ tục tách thửa, sang tên.
Về lối đi chung được thực hiện theo toạ độ, ranh giới Trích đo, đo đạc chỉnh
Bản đồ địa chính số 01 - 2025 Hệ tọa đọ VN B, tổ 7, tờ bản đồ số 43 (309533
- 9 - d) phường T - Văn phòng đo đạc tỉnh H ngày 06/01/2025: diện tích 51,1m
2
;
Bị giới hạn bởi các điểm 24, 25, 22, 21, 23, 15, 16; Không bên nào được xây dựng,
cản trở vào lối đi chung.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ Nguyễn Thị Q vviệc đề nghị
Hủy hợp đồng ng chứng số 336/2016 quyển số 2/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
14/9/2016 tại Văn phòng C.
Đình chỉ yêu cầu độc lập của Công ty TNHH L4, lâm sản xuất khẩu Hữu
Nghị trong vụ án.
Ngoài ra, Bản án dân sự thẩm còn tuyên về chi phí ttụng, lãi suất chậm
thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 21/01/2025, ông Nguyễn Quang T1 người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của các em kháng cáo đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
thửa đất số 96, tờ bản đồ số 43, diện tích 3.360,1m
2
lập ngày 14/9/2016 để trả lại
đất cho bố mẹ ông. Qtrình giải quyết, ông T1 cho biết ngoài việc ông kháng
cáo với cách người quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì ông đại diện cho
cụ Q, ông N1 và chị N2 kháng cáo bản án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố
H. Cụ Q, ông N1, bà N2 khẳng định có việc ủy quyền cho ông T1 kháng cáo bản
án dân sự sơ thẩm. Tại phiên tòa ông T1 giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Ngày 24/01/2025, nguyên đơn bà Bùi Thị T kháng cáo không nhất trí Bản
án dân sự thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H về việc không chấp nhận
công nhận hiệu lực phần giao dịch đối với 300m
2
đất thổ cư tại thửa 96, tờ bản đồ
số 43. Đối với diện tích lối đi chung của hai gia đình, bà đề nghị gia đình bà được
sử dụng 38,1m
2
, tự nguyện để lại cho ông N, Đ sử dụng 13m
2
làm lối đi chung.
Trước khi mở phiên tòa, bà T có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo.
10
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu ý kiến: Về tố
tụng, việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên
tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết ván dân sự giai
đoạn phúc thẩm được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, căn cứ vào Điều 289, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự, Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14 ca Ủy ban ThườngQuc hội, đề nghị Hội
đồng xét xử: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà Bùi Thị
T; Bác toàn bộ nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Quang T1, giữ nguyên bản
án dân sự thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H vnội dung không chấp nhận
yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Q về việc đề nghị huỷ Hợp đồng công chứng
số 336/2016 quyển số 2/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14/9/2016 tại Văn phòng C.
Về án phí: bà T phải nộp 50% án phí dân sự phúc thẩm. Ông Nguyễn Quang T1,
cụ Nguyễn Thị Q được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm.
Căn cứ vào các chng c, tài liệu đã được thm tra ti phiên tòa phúc
thẩm; căn cứ vào kết qu tranh lun tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
din tài liu, chng c, ý kiến ca Kim sát viên những người tham gia t tng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1].Về tố tụng:
[1.1]. Nguyên đơn bà Bùi Thị T khởi kiện yêu cầu công nhận hiệu lực hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T và bị đơn ông Nguyễn Văn N,
Nguyễn Thị Đ. Các bị đơn cư t tại thành phố H, tỉnh Hòa Bình, cụ Q đơn
yêu cầu độc lập đnghị tuyên hủy Hợp đồng nêu trên. Tòa án nhân dân thành phố
H đã xác định quan hệ pháp luật Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất để thụ và giải quyết vụ án theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 26;
điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đơn
kháng cáo của nguyên đơn Bùi Thị T người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan cụ Nguyễn Thị Q, ông Nguyễn Quang T1, ông Nguyễn Văn N1
Nguyễn Thị N2 trong hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét theo
trình tự phúc thẩm.
[1.3] Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm, ngày 02/4/2025 ông Nguyễn
Văn N có ủy quyền cho ông Nguyễn Quang T1 tham gia với tư cách là người đại
diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn N. Căn cứ Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân
sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận việc ủy quyền của ông N do quyền lợi
ích của ông N và ông T1 đối lập nhau.
11
[1.4]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T, Đ, chị L, cụ Q, ông T1, N2, ông
T4, D có mặt. Ông N, ông L1, Ủy ban nhân dân thành phố H, y ban nhân dân
phường T, Văn phòng C có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông T3 vắng mặt không lý
do, đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
[2]. Về nội dung:
T khởi kiện yêu cầu công nhận hiệu lực Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 14/9/2016 giữa hộ ông N đối với toàn bộ thửa đất số 96,
tờ bản đồ 43. Hộ ông N cho rằng chỉ thỏa thuận chuyển nhượng 2.960,1m
2
đất
trồng cây lâu năm (trừ lối đi chung) và 100m
2
đất thổ cư trong thửa số 96, tờ bản
đồ 43, còn lại 300m
2
đất không chuyển nhượng. Cụ Q yêu cầu độc lập đề
nghị tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2016 là
hiệu cho rằng đây tài sản của cụ chồng cụ L2. Công ty TNHH L4
yêu cầu độc lập với nội dung yêu cầu bà T phải bồi thường phần thiệt hại cho
Công ty trong trường hợp phán quyết sau này của vụ án ảnh hưởng đến quyền
thuê đất của Công ty và giá trị các tài sản trên đất khác mà Công ty đã xây dựng.
Tại phiên tòa, Công ty rút yêu cầu độc lập. Tòa án nhân dân thành phố H quyết
định đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn, cụ thể: công nhận
hiệu lực Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/9/2016 giữa bà T
hộ ông N với diện tích chuyển nhượng 2.960,1m
2
đất trồng cây lâu năm (trừ
lối đi chung) và 100m
2
đất thổ cư tại thửa số 96, tờ bản đồ 43; Buộc bà Bùi Thị T
phải có nghĩa vụ thanh toán 130.000.000 đồng cho hộ ông Nguyễn Văn N; không
công nhận hiệu lực của phần giao dịch chuyển nhượng 300m
2
đất ở; xác định lối
đi chung; Không chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ Q và Đình chỉ giải quyết yêu
cầu độc lập của Công ty TNHH L4.
[2.1]. Trước khi mở phiên tòa dân sự phúc thẩm, bà Bùi Thị T đơn xin
rút toàn bộ nội dung kháng cáo, tại phiên tòa T cho biết việc rút kháng cáo
hoàn toàn tnguyện bản án dân sự thẩm đã xử đúng. Căn cứ Điều 289 Bộ
luật Tố tụng dân sự, Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn bà Bùi Thị T.
[2.2]. Xét kháng cáo của ông Nguyễn Quang T1, cụ Nguyễn Thị Q,
Nguyễn Thị N2, ông Nguyễn Văn N1 về việc tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng
thửa đất số 96, tờ bản đồ số 43 vì cho rằng đây là đất ca bố mẹ ông cụ Q cụ
L2. Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ lời khai của cụ Nguyễn Thị Q cùng các con trong gia đình cụ Q
cũng như đối chiếu với các tài liệu Toà án thu thập được thì từ năm 1958 cụ
12
Nguyễn Thị Q tiến hành khai hoang khu vực tại thửa đất số 96, tờ bản đồ số 43
tại tổ G, phường T, thành phố H tuy nhiên quá trình đó diễn ra không liên tục. Mặt
khác, cụ Nguyễn Thị Q, các con của cụ Q, trong đó có ông Nguyễn Văn NỦy
ban nhân dân phường T xác nhận từ năm 1980, ông N sau khi lập gia đình đã
chuyển ra sinh sống tại thửa đất số 96, tờ bản đồ số 43 và quá trình sinh sống diễn
ra trực tiếp, ổn định, lâu dài từ đó đến nay. Năm 2002, Ủy ban nhân dân phường
tiến hành đo đạc địa chính, lập bản đồ địa chính chính quy. Theo biên bản xác
định ranh giới mốc giới lập ngày 12/12/2002, thửa đất số 96, tờ bản đồ s43, diện
tích 3.360,1m
2
, loại đất T, đăng tên ông Nguyễn Văn N. Ngày 23/5/2008, hộ
gia đình ông Nguyễn Văn N đơn xin đăng quyền sử dụng đất đối với thửa
đất nêu trên, trong “hộ ông Nchỉ ông N, Nguyễn Thị Đ cùng con gái
Nguyễn Thị L đăng thường trú theo quy định. Ủy ban nhân dân phường T
đã lập xác nhận hồ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ ông N
theo quy định tại khoản 4 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, thực hiện việc niêm
yết công khai kết quả kiểm tra tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường, trong thời gian
niêm yết không có ý kiến thắc mắc nào về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của
hộ ông N. Đến năm 2012, hộ ông N được Ủy ban nhân dân thành phố H cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 96, tờ bản đồ số 43. Việc
khai đóng thuế đất, chịu nghĩa vụ thuế với nhà nước toàn bộ là do hộ ông N thực
hiện trong suốt quá trình sinh sống trên thửa đất cho tới nay. Đối với cụ L2 và cụ
Q cùng các con ruột trong suốt quá trình sinh sống tại tổ G, phường T, thành ph
H, sinh sống trực tiếp tại vị trí thửa đất khác cũng ở tổ G, phường T, thành phố H.
Cụ Q cũng chưa từng kê khai, đăng ký, nộp thuế hoặc cung cấp được bất cứ loại
giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng khu đất tranh chấp nêu trên.
Ông T1 kháng cáo chứng minh đây đất của bố mẹ được thể hiện tại Trích
lục bản án ly hôn giữa ông N và bà D cho rằng trong quyết định đã khẳng định
ông N không đất chỉ nhà trên đất, đất của bmẹ nhưng theo bản án hôn
nhân và gia đình thì thấy rằng trong quyết định không xác định đất là của cụ Q và
cụ L2 chỉ ghi nhận một ngôi nhà gỗ trên diện tích 200m
2
đất. Quá trình giải
quyết tại vụ án này, cụ Q cùng các con đều thừa nhận là đã cho 200m
2
đất cho ông
N nhưng việc cho này bằng miệng không giấy tờ gì. Ngoài ra, ông T1 cụ Q còn
cho rằng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đối với thửa đất số 96, tờ bản đồ 43
giữa T và hộ ông N vi phạm do đất đang tranh chấp bằng ván khởi kiện
hành chính giữa cụ Q hộ ông N tại Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, vụ án dân
sự tranh chấp đất đai giữa hộ ông Nông T1 tại Tòa án nhân dân thành phố H,
Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình đã ra Quyết định đình
13
chỉ giải quyết vụ án số 06/2017/QĐST - HC ngày 27/12/2017 với lý do thời hiệu
khởi kiện đã hết, Tòa án nhân dân thành phố H đã ra Quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án s 08/2016/QĐST - DS ngày 27/7/2016 với lý do ông Nguyễn Văn N
tự nguyện rút đơn khởi kiện, ông T1 không yêu cầu phản tố hoặc khiếu kiện
tiếp. Do đó, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T hộ ông N không
bị coi là chuyển nhượng đối với đất tranh chấp.
Từ những nhận định trên, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu độc
lập của cụ Nguyễn Thị Q căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1 không
cung cấp thêm được tài liệu chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình,
do đó không căn cứ để chấp nhận kháng cáo của cụ Nguyễn Thị Q, ông Nguyễn
Quang T1, Nguyễn Thị N2 ông Nguyễn Văn N1, cần gi Bản dân sự
thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 15/01/2025 của Tòa án nhân dân thành ph H, tỉnh
Hòa Bình về nội dung không chấp nhận yêu cầu đc lập của cNguyễn Thị Q về
việc đề nghị huỷ Hợp đồng công chứng s 336/2016 quyển số 2/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 14/9/2016 tại Văn phòng C.
[3]. Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực kể tngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị theo quy định tại Điều 282 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4]. Đối với án phí phúc thẩm: Trước phiên tòa phúc thẩm, bà T rút đơn
kháng cáo nên căn cứ khoản 4 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, T phải nộp 50% án phí dân sự
phúc thẩm theo quy định.
Do kháng cáo của cụ Q, ông T1, ông N1, N2 không được chấp nhận
nên những người kháng cáo phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, cụ Q, ông T1 có đơn xin miễn án phí với lý do là người cao
tuổi. Căn cứ vào Điều 12, Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn nộp toàn bộ án phí cho cụ Q
và ông T1.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
Bùi Thị T.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợinghĩa vụ liên quan
cụ Nguyễn Thị Q, ông Nguyễn Quang T1, Nguyễn Thị N2, ông Nguyễn Văn
14
N1. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 15 tháng 01 năm
2025 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình về nội dung: không chấp
nhận yêu cầu độc lập của cụ Nguyễn Thị Q về việc đề nghị huỷ Hợp đồng công
chứng số 336/2016 quyển số 2/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14/9/2016 tại Văn
phòng C.
3. Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực kể tngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
4. Án phí dân s phúc thm: căn cứ Điu 148 B lut T tng dân sự; Điều
12, Điu 14; khon 1, khoản 4 Điều 29 Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 ca Ủy ban thường v quc hội quy đnh v mc thu, min, gim, thu,
np, qun lý và s dng án phí và l phí Tòa án.
- Bà Bùi Th T phi np s tiền 150.000 đng án phí dân s phúc thẩm, đối
tr s tin tm ứng án phí đã np theo biên lai thu tin tm ng án phí s 0004366
ngày 28/2/2025 ti Chi cc thi hành án dân s thành ph Hòa Bình, tnh Hòa Bình.
Hoàn tr li cho bà Bùi Th T 150.000 đồng tin án phí.
- Min án phí dân s phúc thm cho c Nguyn Th Q, ông Nguyn Quang
T1.
- Ông Nguyễn Văn N1, Nguyn Th N2, mỗi người phi np 300.000
đồng tin án phí dân s phúc thm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (17/6/2025)./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND thành phố H;
- TAND thành phố H;
- CCTHADS thành phố H;
- Các đương sư;
- Lưu: HSVA; tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Hoàng Ngọc Liễu
Tải về
Bản án số 37/2025/DS Bản án số 37/2025/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 37/2025/DS Bản án số 37/2025/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất