Bản án số 354/2025/HC-PT ngày 26/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 354/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 354/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 354/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 354/2025/HC-PT ngày 26/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 354/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/05/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 354/2025/HC-PT
Ngày: 26/5/2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Vũ Thị Thu Hà;
Ông Thái Duy Nhiệm;
Bà Hoàng Thị Bích Hải.
Thư ký phiên tòa: Ông Phan Nhật Phong - Thư ký viên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Mai, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 26 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
mở phiên tòa công khai xét xử vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số
184/2025/TBTL-HC ngày 20 tháng 02 năm 2025 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”, do Bản án hành chính sơ thẩm số
99/2024/HC-ST ngày 29 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Giang có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5098/2025/QĐ-PT ngày 12 tháng
5 năm 2025, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Ông Nguyễn Xuân T; địa chỉ: Tổ dân phố R, phường
T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang; Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T: Anh Nguyễn Văn B; địa chỉ: Tổ
dân phố R, phường T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang; Có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông T: Ông Nguyễn Văn T1 -
Luật sư Công ty L thuộc Đoàn luật sư thành phố H; Có mặt.
* Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thị xã V, tỉnh Bắc Giang;
Người đại diện hợp pháp: Ông Lê Hoàng B1 – Phó chủ tịch; Có đơn xin
xét xử vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
- Bà Trần Thị H, anh Nguyễn Văn Đ, chị Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn
Văn B; địa chỉ: Tổ dân phố R, phường T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang; Đều vắng
mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H, anh Đ, chị T2: Anh Nguyễn Văn
B; địa chỉ: Tổ dân phố R, phường T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang; Có mặt.
- Ông Trần Hữu D; địa chỉ: Tổ dân phố R, phường T, thị xã V, tỉnh Bắc
Giang; Có mặt.
- Bà Vũ Thị T3, anh Trần Hữu M và chị Trần Thị Đ1; địa chỉ: Tổ dân phố
R, phường T, thị xã V, tỉnh Bắc Giang; Đều vắng mặt.
Người kháng cáo: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Trần
Hữu D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/4/2024 và các lời khai tiếp theo tại Toà án,
người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Xuân T yêu
cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số phát hành CS 124537 do UBND huyện V (nay là
UBND thị xã V), tỉnh Bắc Giang cấp ngày 21/05/2019; số vào sổ cấp GCN:
CH01763. QĐ số: 1674/QĐ-UBND, đứng tên hộ ông Trần Hữu D.
Căn cứ người khởi kiện đưa ra các yêu cầu trên, bởi vì:
Về nguồn gốc sử dụng đất là do bố mẹ ông Dương Văn S khai hoang 01
thửa đất hơn 04 thước tại xứ Đ, thôn Đ, xã T, huyện V (nay là xứ Đ, tổ dân phố
R, phường T, thị xã V), tỉnh Bắc Giang. Năm 1998, ông T có đặt nhờ 01 ngôi
mộ của cha ông là cụ Nguyễn Văn M1 trên thửa ruộng của gia đình ông S. Đến
năm 2006, do muốn đặt mộ của mẹ ông là cụ Nguyễn Thị T4 cạnh mộ cụ M1,
ông T có đổi 5,7 thước ruộng để lấy hơn 04 thước ruộng của gia đình ông S.
Việc đổi ruộng hai bên chỉ thống nhất với nhau bằng miệng, không lập
thành văn bản. Tuy nhiên, hai bên đã bàn giao ruộng cho nhau trên thực tế từ
năm 2006. Sau khi nhận ruộng, gia đình ông T đã xây mộ cụ T4 trên thửa ruộng
đã đổi của ông S, đồng thời canh tác từ năm 2006 đến nay. Hiện nay ông Dương
Văn S vẫn đang sinh sống tại địa phương và vẫn công nhận việc đổi đất này.
Khoảng cuối năm 2022, ông phát hiện gia đình ông Trần Hữu D tiến hành
canh tác trên thửa ruộng này của gia đình ông và xảy ra tranh chấp.
Tháng 6/2023, ông được ông D cho biết thửa đất đang có tranh chấp đã
được UBND thị xã V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho hộ ông D, bao
gồm cả phần đất hai ngôi mộ của bố mẹ ông.
Ông nhận thấy, việc UBND huyện V (sau đây thống nhất viết là thị xã V)
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) cho hộ
3
ông Trần Hữu D có nhiều sai phạm cần phải được hủy bỏ để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho gia đình ông, cụ thể:
- Phần diện tích đất đang tranh chấp giữa gia đình ông và gia đình ông D
có nguồn gốc là đất hoang hóa do bố mẹ ông S khai hoang, phục hóa và sử dụng
từ trước năm 1990 đến năm 2006 đã đổi cho gia đình ông, gia đình ông đã xây
dựng 02 ngôi mộ của cha, mẹ ông trên thửa đất và quản lý, sử dụng ổn định đến
nay.
- Khi thực hiện việc dồn điền, đổi thửa nhân dân thôn Râm đã họp và
thống nhất không đưa diện tích đất hoang hóa vào dồn điền đổi thửa, việc này đã
được các cán bộ thôn Râm thời điểm năm 2019 và các thành viên hội đồng hòa
giải tranh chấp đất đai xã xác nhận.
- Hiện khu đất tranh chấp đã được quây rào tách biệt với thửa đất ruộng
của gia đình ông D và trên đất đã tồn tại 02 ngôi mộ từ trước thời điểm dồn điền
đổi thửa.
Căn cứ quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 và khoản 1 Điều 204 Luật
Đất đai năm 2013, việc UBND thị xã V cấp GCNQSDĐ số CS 124537 ngày
21/05/2019 cho hộ ông Trần Hữu D là không đúng quy định pháp luật. Đề nghị
HĐXX chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.
UBND thị xã V do ông Lê Hoàng B1, chức vụ Phó Chủ tịch đại diện theo
ủy quyền trình bày:
Diện tích đất Tòa án đang xem xét, giải quyết vụ án là đất nông nghiệp
của hộ dân thôn Đ, xã T, huyện V (nay là tổ dân phố Đ, phường T, thị xã V), có
thực hiện dồn điền đổi thửa năm 2015. Theo kết quả dồn điền đổi thửa, đất khu
vực này giao cho hộ ông Trần Hữu D với diện tích 5.601,0m
2
(có biên bản giao
ruộng sau dồn điền đổi thửa ngày 11/8/2015), xứ đồng Ven B, thôn Đ.
Năm 2017, các khu vực dồn điền đổi thửa xã Tự Lạn được đo đạc bản đồ
địa chính để thực hiện cấp đổi GCNQSDĐ, trong đó có thôn Đ. Diện tích đất
khu vực của hộ ông D nêu trên được đo đạc thể hiện tại thửa 199, tờ bản đồ 66,
diện tích 5.660,4m
2
(bao gồm cả phần diện tích có mộ đang giải quyết). Năm
2019 đơn vị tư vấn của UBND thị xã V phối hợp UBND xã T hướng dẫn kê
khai, lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ nông nghiệp sau dồn diền đổi thửa trên địa bàn
thôn Đ, trong đó có hộ ông D.
Đến ngày 21/5/2019, hộ ông D được UBND huyện cấp GCNQSDĐ số
vào sổ CH 01763, số phát hành CS 124537, thửa đất số 199, tờ bản đồ 66, diện
tích 5.660,4m
2
. Sau khi nhận GCNQSDĐ gia đình ông D quây rào sắt đổ trụ cột
bê tông theo diện tích, ranh giới đã được cấp GCNQSDĐ, trong đó bao gồm cả
diện tích đất có mộ đang được Tòa án xem xét, giải quyết.
Kiểm tra thực địa thửa đất thấy hiện trạng đang sử dụng gồm một phần là
đất ao, một phần đất trồng cây lâu năm (bưởi) và có 02 ngôi mộ (diện tích đang
4
sử dụng theo hiện trạng gồm cả phần diện tích đã cấp GCNQSDĐ và một phần
diện tích tập thể quản lý chưa giao cho ai). Vị trí mộ chiếm dụng được xác định
ở vị trí xung quanh các điểm 7, 8, 9 phía Đông sơ đồ thửa đất trong hồ sơ cấp
GCNQSDĐ.
Xem xét Báo cáo số 113/BC-UBND ngày 10/7/2023 của UBND xã T,
UBND xã T xác định 2 ngôi mộ trong thửa đất 199 nêu trên phát sinh từ trước
thời điểm dồn điền đổi thửa, là mộ của gia đình ông Nguyễn Xuân T; ranh giới
giao ruộng cho hộ gia đình ông D không bao gồm diện tích mộ chiếm dụng nêu
trên, tường rào quanh diện tích cấp GCNQSDĐ được thiết lập sau thời điểm cấp
GCNQSDĐ .
Đối chiếu ranh giới, chỉ giới cấp GCNQSDĐ thấy, chỉ giới, ranh giới cấp
GCNQSDĐ không hoàn toàn thống nhất với sơ đồ giao ruộng sau dồn điền đổi
thửa (về hình dạng, kích thước); diện tích cấp GCNQSDĐ tăng 59,4m
2
so với
diện tích giao ruộng sau dồn điền đổi thửa.
Từ những nội dung xác minh nêu trên, UBND thị xã thấy việc cấp
GCNQSDĐ cho hộ ông D đối với thửa đất 199 không đúng quy định pháp luật
(không đúng diện tích) và thuộc trường hợp phải thu hồi theo quy định tại điểm
d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 (nay là điểm d khoản 2 Điều 152
Luật Đất đai 2024).
Đối với yêu cầu khởi kiện: Việc ông T cho rằng GCNQSDĐ đã cấp cho
hộ ông D không đúng quy định là có cơ sở. Việc ông T khởi kiện yêu cầu hủy
GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông D là có căn cứ pháp lý. Tuy nhiên, để giải quyết
dứt điểm vụ việc, quan điểm của UBND thị xã đề nghị Tòa án giải quyết vụ án
theo quy định. Sau khi nhận được bản án có hiệu lực pháp luật, UBND thị xã sẽ
thực hiện theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị H, anh Nguyễn
Văn Đ, chị Nguyễn Thị T2 và anh Nguyễn Văn B đại diện theo ủy quyền trình
bày: Thống nhất với ý kiến của ông Nguyễn Xuân T đã trình bày, không bổ sung
gì thêm. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hữu D, bà Vũ Thị T3,
anh Trần Hữu M và chị Trần Thị Đ1 thống nhất trình bày: Không đồng ý với ý
kiến của người khởi kiện. Đất của hộ gia đình được UBND thị xã V cấp
GCNQSDĐ theo đúng quy định pháp luật, không hề chồng lấn hay lấy đất của
gia đình ông T. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 99/2024/HC-ST ngày 29 tháng 10
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Căn cứ Điều 5, Điều 115, khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm b
khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều 205, Điều 206, khoản 1 Điều 348
của Luật Tố tụng hành chính; điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013;
khoản 1 Điều 9 và điểm b khoản 2 Điều 15 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT
5
ngày 19/5/2014 của Bộ T5 quy định về hồ sơ địa chính; khoản 2 Điều 32 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T: Hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số phát hành CS 124537, số vào sổ cấp GCN: CH01763 do UBND thị xã V,
tỉnh Bắc Giang cấp ngày 21/5/2019 cho hộ ông Trần Hữu D diện tích 5.660,4m
2
;
mục đích sử dụng đất nuôi trồng thủy sản thuộc thửa đất số 199, tờ bản đồ số 66;
địa chỉ thửa đất tại xứ đồng B, thôn Đ, xã T, huyện V (nay là phường T, thị xã
V), tỉnh Bắc Giang.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/11/2024, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan là ông Trần Hữu D có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
người có quyền lợi liên quan giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm không hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình
ông.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích tài
liệu có trong hồ sơ có quan điểm thể hiện: Tòa án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T là đúng quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm,
ông Trần Hữu D không xuất trình được tài liệu mới bảo vệ cho quan điểm của
mình nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố
tụng hành chính, không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Hữu D và giữ
nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại
phiên tòa, ý kiến của đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân
dân cấp cao tại Hà Nội, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ngày 21/5/2019, UBND thị xã V cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ ông Trần Hữu D được quyền sử dụng diện tích
5.660,4m
2
; mục đích sử dụng đất nuôi trồng thuỷ sản; địa chỉ thửa đất tại xứ
đồng B, thôn Đ, xã T, huyện V (nay là phường T, thị xã V), tỉnh Bắc Giang.
Tháng 6/2023, xảy tranh chấp với ông Trần Hữu D, khi đó ông Nguyễn Xuân T
mới được biết hộ ông D được UBND thị xã V cấp GCNQSDĐ đối với diện tích
5.660,4m
2
, trong đó có cả diện tích đất ruộng có 02 ngôi mộ của bố mẹ ông.
Ngày 12/4/2024, ông Nguyễn Xuân T làm đơn khởi kiện đề nghị hủy Giấy
6
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất đứng tên hộ ông Trần Hữu D. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang thụ lý giải
quyết vụ án là đúng thẩm quyền và trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại
Điều 5, Điều 115 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện có đơn xin xét xử vắng mặt;
một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan. Căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử quyết
định giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[2] Bản án sơ thẩm xác định về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện,
về quyết định hành chính liên quan, về tư cách những người tham gia tố tụng
trong vụ án đúng quy định pháp luật. Việc chứng minh, thu thập chứng cứ đã
được thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định tại chương VI Luật Tố tụng hành
chính. Đơn kháng cáo của ông Trần Hữu D trong hạn luật định nên được chấp
nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3] Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã đánh giá tính hợp pháp của quyết
định hành chính bị khiếu kiện, theo đó:
- Về thẩm quyền: UBND thị xã V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CS 124537 ngày 21/5/2019 cho hộ ông Trần Hữu D là đúng thẩm quyền
theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Luật Đất đai năm 2013.
- Về trình tự, thủ tục và căn cứ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Tại Đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
12/11/2018, chủ sử dụng đất ghi là hộ ông Trần Hữu D và bà Vũ Thị T3, nhưng
UBND thị xã V lại cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trần
Hữu D là không đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 15 Thông tư số
24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5 quy định về hồ sơ địa chính.
Trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận, không có văn bản thỏa thuận về việc
chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và phương
án chuyển đổi quyền sử dụng đất của UBND xã T (nay là UBND phường T) đã
được UBND huyện V (nay là UBND thị xã V) phê duyệt là không đúng quy
định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư nêu trên.
Căn cứ GCNQSDĐ của UBND thị xã V cấp ngày 06/06/1999 cho hộ ông
Trần Hữu D, tổng số diện tích đất trồng lúa của hộ ông D là 4.321,0m
2
và biên
bản bàn giao đất cho hộ ông D sau dồn điền đổi thửa ngày 11/8/2015 có trong hồ
sơ thể hiện hộ ông D chỉ được bàn giao diện tích đất là 5.601,0m
2
nhưng khi
UBND thị xã V cấp GCNQSDĐ cho hộ ông D với diện tích là 5.660,4m
2
là
không đúng với diện tích đất nông nghiệp hộ ông D được giao sau dồn điền, đổi
thửa.
Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, các đương sự và người đại diện đều
thừa nhận: Trên diện tích đất đã cấp GCNQSDĐ cho hộ ông D có 02 ngôi mộ
7
của gia đình ông T và 02 ngôi mộ này phát sinh từ trước thời điểm dồn điền đổi
thửa, ranh giới giao ruộng cho hộ ông D không bao gồm diện tích đất có 02 ngôi
mộ và chỉ giới, ranh giới cấp GCNQSDĐ không hoàn toàn thống nhất với sơ đồ
giao ruộng sau dồn điền đổi thửa về hình dạng, kích thước, diện tích cấp
GCNQSDĐ tăng 59,4m
2
so với diện tích giao ruộng sau dồn điền đổi thửa lập
ngày 11/8/2015 nên việc gia đình ông Trần Hữu D đã được cấp GCNQSDĐ vào
cả phần mộ và phần đất mộ gia đình ông T đang quản lý, sử dụng, dẫn đến gia
đình ông D cản trở, xảy ra tranh chấp không cho gia đình ông T vào hương khói
và thăm nom, cải tạo mộ trong những dịp ngày giỗ, ngày tết.
Mặt khác, UBND thị xã V cũng xác định việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông
Trần Hữu D đối với thửa đất 199 không đúng quy định của pháp luật (không
đúng diện tích) và thuộc trường hợp phải thu hồi theo quy định tại điểm d khoản
2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013.
Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp
nhận yêu cầu của người khởi kiện và tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CS 124537 do UBND thị xã V, tỉnh Bắc Giang cấp cho hộ ông Trần Hữu
D ngày 21/5/2019 là đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, người
kháng cáo không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ mới. Từ đó, Hội đồng xét xử
đồng tình với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
tham gia phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Hữu D.
[4] Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận lẽ ra ông Trần Hữu D
phải chịu án phí hành chính phúc thẩm, tuy nhiên do ông D là người cao tuổi và
có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm theo quy
định.
Vì những lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, bác kháng cáo của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hữu D; giữ nguyên Bản án hành
chính sơ thẩm số 99/2024/HC-ST ngày 29 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Giang.
2. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án, ông Trần Hữu D được miễn án phí hành chính phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
8
* Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- Cục THADS tỉnh Bắc Giang;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Thu Hà
CÁC THẨM PHÁN
Thái Duy Nhiệm Hoàng Thị Bích Hải
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Thu Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm