Bản án số 34/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 của TAND huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 34/2020/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 34/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 của TAND huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hà Trung (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 34/2020/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/09/2020
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị T xin ly hôn anh Th
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TR - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 34/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Tr, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp: Ly hôn tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Theo quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXX-ST ngày 21 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T - Sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức Th - Sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên toà vắng mặt chị T (có đơn xin xét xử vắng mặt) và anh Th (không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

* Tại đơn khởi kiện ngày 15/7/2020, bản tự khai và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Vũ Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Đức Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới và được Uỷ ban nhân dân xã Hà Vinh, huyện Hà Tr tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 17/11/2010. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến tháng 4/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh Th chơi bài bạc, không chịu làm ăn nên thường xuyên cải nhau, anh Th đã tát chị. Từ tháng 7/2020 đến nay vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năm đoàn tụ nên chị T xin được ly hôn với anh Th.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là: Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 25/7/2010 và cháu Nguyễn Đức K, sinh ngày 21/3/2019. Hiện nay hai cháu khỏe mạnh và ở với chị. Ly hôn chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con cùng chị và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện chị làm công nhân công ty TNHH VAUDE, mức thu nhập hơn 6.000.000đồng/tháng.

- Về tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Toà án nhân dân huyện Hà Tr đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Đức Th đến làm việc, anh Th đã nhận văn bản tố tụng do Toà án huyện Hà Tr giao nhưng không đến làm việc. Nên không có ý kiến quan điểm của anh Th về việc giải quyết vụ án.

* Toà án nhân dân huyện Hà Tr có làm việc với chị Nguyễn Thị L là chị gái anh Th. Chị L cho biết, anh Th và chị T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hà Vinh, huyện Hà Tr. Anh Th và chị T chung sống nhưng mâu thuẫn từ lâu là do anh Th không nghề nghiệp cố định nên cứ đi vài ngày lại về, chơi bời, bài bạc không chịu làm ăn và có quan hệ ngoại tình với phụ nữ khác, chị T đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 7/2020 đến nay. Trong quá trình vợ chồng chung sống, anh chị có 02 con chung là Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 25/7/2010 và Nguyễn Đức K, sinh ngày 21/3/2019, các cháu khỏe mạnh và được chị T nuôi dưỡng tốt nên đề nghị giao cả hai con cho chị T nuôi dưỡng sẽ tốt hơn vì chị T đang trực tiếp nuôi dưỡng các cháu và có công việc làm ổn định, anh Th chơi bời, bài bạc, vợ chồng anh Th không có tài sản chung.

* Toà án nhân dân huyện Hà Tr đã tiến hành xác minh tại xã Hà Vinh, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị T và anh Th là vợ chồng được UBND xã Hà Vinh cấp giấy chứng nhận kết hôn, anh chị sống với nhau đến tháng 4/2020 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh Th chơi bời không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng thường xuyên cải nhau, vợ chồng ly thân từ tháng 7/2020 đến nay. Hiện tại anh Th đi làm ăn vài ngày lại về rồi lại đi. Vợ chồng anh chị có 02 con chung là Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 25/7/2010 và Nguyễn Đức K, sinh ngày 21/3/2019. Quan điểm của chính quyền là mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Th và chị T đã trầm trọng không hàn gắn được đề nghị giải quyết ly hôn cho vợ chồng và để đảm bảo sinh hoạt của các cháu, phát triển tốt, học hành ổn định đề nghị giao cả hai cháu cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng để các cháu phát triển tốt. Về tài sản vợ chồng không có tài sản chung.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị T, xử cho chị T được ly hôn anh Th; về con chung giao cháu Nguyễn Đức Tr và Nguyễn Đức K cho chị T nuôi dưỡng. Anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T phải chịu tiền án phí DSST.

Tại phiên tòa hôm nay anh Th vắng mặt; chị T có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Vũ Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Đức Th không có mặt tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên tòa cũng được hoãn lần thứ nhất vào ngày 08/9/2020. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh Th và chị T.

[2] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Đức Th kết hôn với nhau năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn và không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp. Theo chị T vợ chồng sau khi kết hôn chung sống hòa Th đến tháng 4/2020 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh Th không chịu làm ăn, chơi bời nên hay cải nhau, có lần anh Th đánh chị. Từ tháng 7/2020 đến nay vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau.

Đối với anh Th, anh đã được Toà án triệu tập hợp lệ, anh cũng đã được nhận các văn bản tố tụng do Toà án giao nhưng anh không đến Toà làm việc. Đây thể hiện anh không còn tình cảm với chị T và bỏ mặc việc giải quyết vụ án.

Ngoài ra, Tòa án cũng đã làm việc chị Nguyễn Thị L là chị gái của anh Th và UBND xã Hà Vinh được biết chị T và anh Th hiện tại không sống chung với nhau, anh Th chơi bời không chịu làm ăn, anh Th và chị T có 02 con chung. Quan điểm là mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Th và chị T đã trầm trọng không hàn gắn được đề nghị giải quyết ly hôn cho vợ chồng và để đảm bảo sinh hoạt của các cháu, phát triển tốt, học hành ổn định đề nghị giao cả hai cháu cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản vợ chồng không có tài sản chung.

Xét thấy, chị T thực sự không còn tình cảm với anh Th, trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh Th cũng không đến làm việc, bỏ mặc việc giải quyết vụ án chứng tỏ anh không mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Đến nay chị T vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được và không còn quan tâm đến nhau.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị T đã thực sự không còn tình cảm với anh Th, anh Th không quan tâm bỏ mặc việc giải quyết vụ án và không thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Do đó nếu buộc anh chị quay về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T và căn cứ Điều 56 Luật HN&GĐ xử cho chị T được ly hôn anh Th là phù hợp.

[3] Về con: Theo chị T vợ chồng anh chị có 02 con chung, là Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 25/7/2010 và Nguyễn Đức K, sinh ngày 21/3/2019. Ly hôn chị T đề nghị là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con. Chị T đã xuất trình giấy khai sinh của cháu Tr và cháu K và có ghi tên mẹ là Vũ Thị T và bố là Nguyễn Đức Th. Như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu Tr và cháu K là con chung của chị T và anh Th.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Từ khi vợ chồng sống ly thân anh Th không quan tâm chăm sóc con. Theo chị Lê cho biết nếu vợ chồng ly hôn thì giao hai con cho chị T nuôi. Ngoài ra từ khi vợ chồng sống ly thân chị T vẫn chăm sóc các cháu tốt và cháu Tr có nguyện vọng ở với mẹ vì bố không quan tâm đến mẹ con, còn cháu K chưa đủ 36 tháng tuổi và các cháu là con trai nên cần có sự chăm sóc của mẹ. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cháu Tr và cháu K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử thấy rằng, hiện nay chị T làm công nhân có mức thu nhập ổn định và đủ cho việc nuôi dưỡng chăm sóc con. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản: Chị T không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Vũ Thị T là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị T phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Đức Th.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Công nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu:

+ Nguyễn Đức Tr - Sinh ngày 25 tháng 7 năm 2010;

+ Nguyễn Đức K - Sinh ngày 21 tháng 3 năm 2019.

2.2. Giao con chung Nguyễn Đức Tr và Nguyễn Đức K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.3. Anh Nguyễn Đức Th không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

2.4. Anh Th có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị Vũ Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0009162 ngày 17/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Tr. Chị T đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Th thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị T, anh Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. 

Tải về
Bản án số 34/2020/HNGĐ-ST Bản án số 34/2020/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất