Bản án số 318/2025/DS-PT ngày 22/08/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 318/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 318/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 318/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 318/2025/DS-PT ngày 22/08/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 318/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/08/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà H Giưh Ênuôl và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H Blớp Ênuôl. Hủy toàn bộ bản án Dân sự sơ thẩm số 12/2025/DS-ST ngày 17/4/2025 của Tòa án nhân dân huyện CK, tỉnh Đắk Lắk và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân khu vực 5 – Đắk Lắk giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 318/2025/DS-PT
Ngày 22 - 8 - 2025
V/v: “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
và yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Bùi Quốc Hà.
Các thẩm phán: Bà Đinh Thị Tuyết, ông Y Phi Kbuôr.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Khánh Chi – Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Lương Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 225/2025/DS – PT ngày 04/6/2025 về
việc: “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm 12/2025/DS-ST ngày 17/04/2025 của Tòa án nhân
huyện CK bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 269/2025/QĐ-PT ngày 29
tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà R Ksơr; địa chỉ: TDP 6, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk;
Người đại diện theo ủy quyền: Bà H Ksơr; địa chỉ: Số 44 NCT, Phường TA,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).
2
* Bị đơn: Ông I Aliêô (đã chết ngày 01/3/2022) và bà G Êňuôl; địa chỉ: Buôn
ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của bà G Êňuôl: Ông Đỗ Anh T1; địa chỉ: Số
buôn Đ, xã CÊ, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Kiên Hoàng Tr; địa chỉ: TDP 6, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
(có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Bà H Ksơr; địa chỉ: Số 44 NCT, Phường TA,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Ông Th Êňuôl; bà R Êňuôl; bà D Êňuôl; bà W Êňuôl; bà B1 Êňuôl; bà W1
Êňuôl; ông D Êňuôl và ông S Êňuôl; cùng địa chỉ: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh
Đắk Lắk (đều vắng mặt).
- Ông B2 Êňuôl; địa chỉ: Buôn K1, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng
mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của ông Th Êňuôl, bà R Êňuôl, bà D Êňuôl, bà
W Êňuôl, bà B1 Êňuôl, bà W1 Êňuôl, ông D Êňuôl, ông S Êňuôl và ông B2 Êňuôl:
Ông Đỗ Anh T1; địa chỉ: Số buôn Đ, xã CÊ, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Bà T Êňuôl; địa chỉ: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
- Ông J Êňuôl (đã chết năm 2013), những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố
tụng của ông J Êňuôl gồm có:
1. Bà Đ Bkrông (vợ); địa chỉ: Buôn Ê, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng
mặt).
2. Anh L Bkrông (con); địa chỉ: Buôn Ê, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng
mặt).
3. Anh B3 Bkrông (con); địa chỉ: Buôn Ê, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk
(vắng mặt).
4. Anh H1 Bkrông (con); địa chỉ: Buôn Ê, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk
(vắng mặt).
5. Anh Y Bkrông (con); địa chỉ: Buôn Ê, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng
mặt).

3
6. Chị T2 Bkrông (con); địa chỉ: Buôn Ê, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk
(vắng mặt).
- Ông M Êňuôl (đã chết năm 2009), những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố
tụng của ông M Êňuôl gồm có:
1. Bà T3 Hmok (vợ); địa chỉ: Buôn H4, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng
mặt).
2. Anh G Hmok (con); dịa chỉ: Buôn H4, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk
(vắng mặt).
- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chồng, con và cháu của bà
B1 Êňuôl gồm:
+ Ông Đồng Văn B4; anh Đổng Chế L1 Êňuôl; chị Đổng Thị Ninh Th1 Êňuôl
và anh P Niê. Cùng địa chỉ: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Chị Đổng Thị Ánh T4 Êňuôl; địa chỉ: Ấp mới 2, xã MHN, huyện ĐH, tỉnh
Long An (vắng mặt).
+ Đổng Chế Thanh B6 Êňuôl; Đổng Thị Ninh X Êňuôl; Đổng Thị Ninh H5
Êňuôl; Đổng Thị Mỹ Th5 Êňuôl. địa chỉ: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk
(Người đại diện theo pháp luật ông Đồng Văn B4 và bà B1 Êňuôl) (vắng mặt).
+ Đổng Chế Y Ph Êňuôl và Y Ph Êňuôl; địa chỉ: Buôn ET, xã ET, huyện CK,
tỉnh Đắk Lắk (Người đại diện theo pháp luật ông P Niê và bà Đổng Thị Ninh Th1
Êňuôl) (vắng mặt).
- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chồng và các con của bà W
Êňuôl gồm:
+ Ông Y P2 Hmõk; chị O Êňuôl; chị H Nh Êňuôl; địa chỉ: Buôn T6, xã ET,
huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Ông Y2 Êňuôl; địa chỉ: Buôn Tr2, xã EH, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk (vắng
mặt).
+ Y Ch1 Êňuôl; địa chỉ: Buôn T6, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk (Người đại
diện theo pháp luật: Ông Y P2 Hmõk và bà W Êňuôl) (vắng mặt).
- Ủy ban nhân dân huyện CK; địa chỉ: Khu trung tâm hành chính, thôn KC, xã
DB, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Phú H7, chức vụ: Phó chủ tịch Ủy ban

4
nhân dân huyện CK. (Văn bản ủy quyền số: 3339/GUQ-UBND ngày 22/11/2022).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Đức H7, chức vụ: Phó
phòng Tài nguyên và Môi trường huyện CK (Văn bản số 1103/UBND – NN&TN
ngày 15/5/2023).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng: Chủ tịch UBND xã EK, tỉnh Đắk
Lắk (vắng mặt)
Người kháng cáo: Bị đơn bà G Êňuôl và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
bà H’ Blớp Ênuôl.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khi kiện, đơn thay đổi yêu cầu khi kiện và qu trnh tham gia
t tng cũng như tại phiên tòa người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là
bà H Ksơr trình bày:
Vào năm 1991, gia đình ông I Aliêô (bị đơn) có sang nhượng cho bà R Ksơr
(nguyên đơn) một mảnh đất với diện tích 2000m
2
thuộc 02 thửa đất số 2610a và
2608a, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đăk Lăk,
với giá chuyển nhượng là 3,5 chỉ vàng 99%, trên đất không có tài sản gì, sau khi
thỏa thuận chuyển nhượng thì gia đình ông I Aliêô đã giao đất cho bà R sử dụng và
bà R thành toán trước cho ông I Aliêô 02 chỉ vàng. Đến năm 1992 ông I Aliêô làm
xong giấy chuyển nhượng viết tay và đưa cho bà R thì bà R thanh toán hết số tiền
chuyển nhượng là 1,5 chỉ vàng còn lại cho ông I Aliêô. Do đất chưa có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nên việc chuyển nhượng đất chỉ được lập
bằng Giấy chuyển nhượng đất thổ cư ngày 23/7/1992 có xác nhận của Buôn trưởng
ET là ông Y Nan Byă (tên gọi khác là Ma Bưn) hiện nay đã chết và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã ET là ông Y Kuân Bkrông (tên gọi khác là Ma B7) trú tại Buôn K1, xã
ET, huyện CK ký xác nhận. Giấy chuyển nhượng đất thổ cư trên là do ông I Aliêô tự
làm và tự đi ký xác nhận rồi đưa cho bà R giữ, chứ bà R không trực tiếp đi làm cùng
với ông I Aliô nên bà R không biết chữ ký và chữ viết Ama Thuan (Ama Thoan) tức
tên gọi khác của ông I Alêiô (theo phong tục của người đồng bào lấy tên con đầu để
gọi) có phải của ông I Aliêô hay không. Sau khi hoàn thành việc chuyển nhượng với
nhau thì vào ngày 06/3/1993 hai bên tiến hành đo đạc lại diện tích chuyển nhượng là
khoảng 1,7ha và có lập Sơ đồ diện tích đất chuyển nhượng có xác nhận của Buôn
trưởng ET là ông N Byă (tên gọi khác là Ma B8).
Năm 1991 sau khi được giao đất thì bà R có xây một căn nhà cấp IV với diện

5
tích khoảng 54m
2
và khoảng 24m
2
công trình phụ để phục vụ chiếu phim và buôn
bán. Đến năm 1997 thì bà R chuyển lên thành phố B sinh sống và không sử dụng
nữa mà cho 03 người khác thuê (bà R không nhớ rõ họ tên người thuê mà chỉ nhớ
tên người thuê cuối cùng là bà H8), đến năm 2009 thì không cho thuê nữa mà để đất
trống không ai sử dụng.
Ngày 30/8/2000, bà R Ksơr được UBND huyện KA cấp GCNQSDĐ số P
031937 đối với thửa số 2610a, có diện tích 1130m
2
, trong đó có 400m
2
đất ở nông
thôn và 730m
2
đất trồng cây lâu năm. Đối với diện tích đất còn lại khoảng hơn
870m
2
thuộc thửa đất số 2608a là đất ao thì chưa được GCNQSDĐ. Trong thời gian
bà R không sử dụng đất thì gia đình ông I Aliêô lấn chiếm và hủy hoại các tài sản,
công trình trên đất của bà R. Đồng thời, gia đình ông I Aliêô kê khai và được cấp
GCNQSDĐ từ khi nào thì bà R không biết, đến năm 2021 khi bà R làm thủ tục tặng
cho con gái là bà H Ksơr thì mới phát hiện gia đình I Aliêô đã tự ý dỡ bỏ căn nhà
cấp IV và lấn chiếm toàn bộ thửa đất của bà R. Vì vậy, bà R Ksơr đã nhiều lần kiến
nghị lên UBND xã ET để được giải quyết nhưng kết quả hòa giải không thành nên
bà R làm đơn khởi kiện tại Tòa án.
Trước đây do chưa đo đạc cụ thể nên bà R Ksơr khởi kiện yêu cầu tòa án giải
quyết các vấn đề như sau:
- Buộc gia đình ông I Aliêô và bà G Êňuôl trả lại diện tích 1130m
2
, (trong đó
có 400m
2
đất ở trong nông thôn và 730m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số
2610a, tờ bản đồ số 12 và phần đất ruộng 870m
2
(hiện đã đào ao) chưa được cấp
GCNQSDĐ tại: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đăk Lăk.
- Hủy bỏ giá trị pháp lý GCNQSDĐ số AD 552970, đối với thửa đất số 2610a,
tờ bản đồ số 12 do UBND huyện KA (nay là huyện CK) cấp ngày 01/12/2005 mang
tên hộ bà G Êňuôl và ông I Aliêô, đất tọa lạc tại Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh
Đắk Lắk.
Tuy nhiên. sau khi Tòa án về tiến hành đo đạc thì xác định được tổng diện tích
đất tranh chấp là 2064m
2
, nằm ở 02 thửa đất số 2610a và 2608a, đều thuộc tờ bản đồ
số 12, tọa lạc tại: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk. Trong đó, thửa đất
2610a đã được cấp GCNQSDĐ còn thửa đất số 2608a là đất ao, có diện tích 985m
2
thì chưa được cấp GCNQSDĐ. Đồng thời, qua sơ đồ địa chính thì thửa đất của bà R
với thửa đất của bị đơn là hai thửa đất khác nhau, không cùng vị trí nhưng khi cấp
GCNQSDĐ thì Ủy ban nhân dân huyện đã ghi số thửa đất của bị đơn trùng với số
thửa đất của bà R Ksơr là không phù hợp. Ngoài ra, nguồn gốc đất của bà R Ksơr là

6
do nhận chuyển nhượng từ gia đình ông I Aliêô bằng Giấy chuyển nhượng đất thổ
cư lập ngày 23/7/1992 giữa các bên. Vì vậy, bà R Ksơr thay đổi và bổ sung yêu cầu
khởi kiện của mình, cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề như sau:
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập bằng Giấy
chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 23/7/1992 giữa bà R Ksơr với gia đình ông I
Aliêô.
- Công nhận quyền sử dụng đất của bà R Ksơr đối với tổng diện tích đất
2064m
2
thuộc 02 thửa đất số 2610a và 2608a, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại: Buôn ET,
xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk.
- Buộc gia đình ông I Aliêô và bà G Êňuôl phải phá dỡ công trình và chặt bỏ
cây trồng trên đất để trả lại cho bà R Ksơr toàn bộ diện tích đất theo kết quả đo đạc
thực tế là 2064m
2
tại 02 thửa đất số 2610a và 2608a, đều thuộc tờ bản đồ số 12, tọa
lạc tại: Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đăk Lăk.
Đối với GCNQSDĐ của gia đình ông I Aliêô và bà G Êňuôl bị cấp trùng số
thửa với đất của bà R Ksơr thì gia đình ông I Aliêô có quyền kiến nghị Ủy ban nhân
dân huyện đính chính lại cho phù hợp nên bà R Ksơr rút yêu cầu hủy bỏ giá trị pháp
lý GCNQSĐ số AD 552970, thửa đất số 2610a, tờ bản đồ số 12 do UBND huyện
KA (nay là huyện CK) cấp ngày 01/12/2005 mang tên hộ bà G Êňuôl ông I Aliêô.
Ngoài ra, theo đơn khởi kiện thì bà R Ksơr còn yêu cầu tòa án giải quyết buộc
gia đình ông I Aliêô và bà H Giưh Êňuôl phải bồi thường thiệt hại số tiền
100.000.000 đồng do đã phá hủy tài sản trên đất của nguyên đơn nhưng đến ngày
31/7/2023 thì bà R Ksơr có đơn rút yêu cầu khởi kiện này và không yêu cầu tòa án
tiếp tục giải quyết nữa. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn thì bà R Ksơr không
đồng ý.
* Theo cc lời khai trong qu trnh giải quyết v n và tại đơn yêu cầu xét xử
vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, đồng thời là người đại diện
theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa v liên quan là ông Đỗ Anh
T1 trình bày:
Ông I Aliêô, sinh năm 1945 (đã chết ngày 01/3/2022) và bà G Êňuôl, sinh năm
1946 là vợ chồng, có tất cả 12 người con nhưng đã chết 02 người, hiện nay còn lại
10 người con gồm: Th Êňuôl, sinh năm 1970; H Rum Êňuôl, sinh năm 1972; D
Êňuôl, sinh năm 1977; W Êňuôl , sinh năm 1979; B1 Êňuôl sinh năm 1982; B2
Êňuôl, sinh năm 1986; H T6 Êňuôl, sinh năm 1988; H W1 Êňuôl, sinh năm 1990; Y

7
D Êňuôl, sinh năm 1996 và S Êňuôl, sinh năm 1999; những người con đã mất gồm
Êňuôl, 1973 (đã chết năm 2013) và M Êňuôl, sinh năm 1984 (đã chết năm 2009).
Khi ông I Aliêô chết không để lại di chúc
Về nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp thì do vợ chồng ông I Aliêô và bà
G Êňuôl khai hoang từ năm 1977. Sau khi khai hoang thì gia đình sinh sống trên
diện đất này (cụ thể hiện nay do vợ chồng bà B1 Êňuôl và vợ chồng bà W Êňuôl
quản lý, sử dụng). Bà G Êňuôl xác định năm 1992 bà G Êňuôl và các con không
nghe, không biết việc chồng (cha) của bà G Êňuôl và các con là ông I Aliêô có sang
nhượng đất cho bà R Ksơr. Nhưng khoảng năm 1990-1992 bà R Ksơr có làm nhà
xây ở trên đất diện tích khoảng hơn 50m
2
. Gia đình khẳng định bà R Ksơr chỉ mượn
đất làm nhà để mở chiếu phim chứ không mua bán với bà R Ksơr. Khoảng năm
1996 bà R cho thuê lại căn nhà trên. Năm 2005 vợ chồng ông I Aliêô và bà G Êňuôl
được cấp GCNQSDĐ. Đối với Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà R
Ksơr vào năm 1992 như thế nào thì bà G Êňuôl và các con không biết vì bà G Êňuôl
và các con không ký giấy mua bán đất, chữ ký và chữ viết trong Giấy chuyển
nhượng đất thổ cư lập ngày 23/7/1992 không phải là của ông I Aliêô vì ông I Aliêô
không biết chữ.
Nay bà R Ksơr khởi kiện yêu cầu tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng,
công nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn và buộc gia đình ông I Aliêô và bà G
Êňuôl phải phá dỡ công trình và chặt bỏ cây trồng trên đất để trả lại diện tích đất
theo kết quả đo đạc thực tế là 2064m
2
, tại 02 thửa đất số 2610a và 2608a, đều thuộc
tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã ET, huyện Ea CK thì gia đình bà G Êňuôl không đồng
ý, vì toàn bộ diện tích đất này được gia đình bà G Êňuôl khai hoang từ năm 1977 và
quản lý, sử dụng từ đó cho đến nay, không bán cho nguyên đơn bao giờ. Còn căn
nhà trên đất gia đình bà G Êňuôl xác định gia đình bà G Êňuôl không tháo dỡ mà do
xuống cấp nên sụp đỗ và gia đình chỉ dọn dẹp. Đồng thời, bị đơn phản tố yêu cầu
Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thổ cư lập bằng Giấy
viết tay ngày 23/7/1992 vô hiệu;
- Hủy giá trị pháp lý GCNQSDĐ số P 031937 do UBND huyện KA (nay huyện
CK) cấp ngày 30/8/2000 cho hộ bà R Ksơr.
* Theo cc lời khai trong qu trnh giải quyết v n, người có quyền lợi
nghĩa v liên quan là bà T Êňuôl trình bày:
Bà T Êňuôl thống nhất với ý kiến của bị đơn và không có yêu cầu gì thêm. Do
8
bận công việc nên bà T Êňuôl có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
* Theo cc lời khai trong qu trnh giải quyết v n những người thừa kế
quyền và nghĩa v của ông J Êňuôl là bà Đ Bkrông, anh L Bkrông, anh B3
Bkrông, anh H1 Bkrông, anh Y Bkrông, chị T2 Bkrông trình bày:
Thống nhất với ý kiến của bị đơn và không có yêu cầu gì thêm. Đồng thời, tất
cả đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa v liên quan là bà H Blơp Ênuôl và bà H Wô
Ênuôl trình bày:
Vào năm 2013 ông I Aliêô và bà H Giưh Êňuôl chia (có nghĩa là tặng cho) cho
vợ chồng bà H Blơp Ênuôl và ông Đổng Văn Biến với vợ chồng bà W Êňuôl và ông
Y P2 Hmõk toàn bộ diện tích đất mà hiện nay bà R đang tranh chấp để vợ chồng làm
nhà ở và sinh hoạt. Sau khi được bố mẹ chia cho đất thì vợ chồng bà B1 Êňuôl và
ông Đổng Văn Biến với vợ chồng bà W Êňuôl và ông Y P2 Hmõk tự bỏ tiền ra để
xây nhà và các công trình phụ, trồng cây theo như bản xem xét thẩm định của tòa án.
Hai gia đình sử dụng đất ổn định từ đó cho đến nay không có tranh chấp gì với nhau,
ngoài ra không còn có ai khác sử dụng, đối với diện tích đất này, vì các anh chị em
còn lại của bà B1 Êňuôl đã được ông I Aliêô và bà H Giưh Êňuôl chia đất để làm
nhà ở nơi khác và các khu vực lân cận nên họ không có ý kiến và tranh chấp gì.
Ông I Aliêô và bà H Giưh Êňuôl chia cho vợ chồng bà H Blơp Ênuôl và ông
Đổng Văn Biến với vợ chồng bà H Wô Ênuôl và ông Y P2 Hmõk đối với toàn bộ
diện tích đất mà bà R tranh chấp và hai gia đình sử dụng chung chứ không xác định
rõ diện tích cụ thể của mỗi người là bao nhiêu và cũng chưa làm thủ tục sang tên
GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật. Trong các loại tài sản trên đất thì căn nhà
có diện tích 168,6m
2
là do hai gia đình cùng bỏ tiền ra làm năm 2013 nên vợ chồng
bà B1 Êňuôl và các con của mình sử dụng ½ diện tích, còn lại vợ chồng bà W Êňuôl
và các con sử dụng ½ diện tích, đối với chuồng heo, nhà vệ sinh và 01 bồn nước là
do vợ chồng bà H Wô Ênuôl làm và đang sử dụng, còn lại tất cả các cây cối trồng
trên đất là do hai gia đình cùng trồng và chăm sóc chung và cùng thu hoạch, sử dụng
chung mà không phân biệt của ai. Đối với hai cái ao là do ông I Aliêô và bà H Giưh
Êňuôl đã làm trước khi chia đất cho vợ chồng bà B1 Êňuôl và vợ chồng bà W Êňuôl
thì đã có hai cái ao này, đến tháng 03 năm 2024 thì bà H Giưh Êňuôl san lấp 01
phần ao theo như biên bản thẩm định.
Vợ chồng bà B1 Êňuôl và ông Đổng Văn Biến có tất cả là 08 người con nhưng
đã chết một người là Đổng Thị Ninh Hòa Êňuôl, sinh năm 2009 (chết năm 2016),

9
còn lại 07 người gồm: Đổng Thị Ánh t4 Êňuôl, sinh năm 2004; Đổng Chế L1 Êňuôl,
sinh năm 2002; Đổng Thị Ninh Th1 Êňuôl, sinh năm 2000; Đổng Chế Thanh B6
Êňuôl, sinh năm 2010; Đổng Thị Ninh X Êňuôl, sinh năm 2014; Đổng Thị Ninh H5
Êňuôl, sinh năm 2015; Đổng Thị Mỹ Th5 Êňuôl, sinh năm 2018; Ngoài ra, còn có
con rể là P Niê, sinh năm 2000 (chồng của Đổng Thị Ninh Th1 Êňuôl) và 02 cháu là
Đổng Chế Y Phúc Êňuôl, sinh năm 2018 và Y Ph Êňuôl, sinh năm 2003 (con của
Đổng Thị Ninh Th1 Êňuôl) tất cả hiện nay đang sinh sống trên nhà đất đang tranh
chấp tại Buôn ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, các con chỉ ở chứ
không có đóng góp gì vào việc tạo lập các tài sản và công trình trên đất.
Vợ chồng bà W Êňuôl và ông Y Pôl Hmk có tất cả là 04 người con gồm: Y2
Êňuôl, sinh năm 1998 đã lập gia đình và về ở với gia đình nhà vợ tại Buôn Tr2, xã
EH, huyện CM, tỉnh Đắk Lăk từ năm 2022; còn lại O Êňuôl, sinh năm 1998; H Nh
Êňuôl, sinh năm 2007; Y Chen Ênuôl, sinh năm 2018 hiện nay đang sinh sống
chung với chồng bà H Wô Ênuôl và ông Y Pôl Hmôk trên nhà đất tại Buôn ET, xã
ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, các con chỉ ở chứ không có đóng góp gì
vào việc tạo lập các tài sản và công trình trên đất.
Đối với việc khởi kiện của bà R thì bà B1 Êňuôl và bà W Êňuôl cũng như cả
gia đình đều có ý kiến giống như ông Đỗ Anh T1 đã trình bày từ trước tới nay là đều
không đồng ý với tất cả các yêu cầu khởi kiện của bà R và yêu cầu tòa án giải quyết
tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của bà R.
Những người có quyền lợi nghĩa v liên quan là chồng và cc con của bà B1
Êňuôl gồm: Ông Đồng Văn B4, chị Đổng Thị Ánh t4 Êňuôl; anh Đổng Chế L1
Êňuôl, chị Đổng Thị Ninh Th1 Êňuôl và P Niê thống nhất với phần trình bày của bà
B1 Êňuôl và không bổ sung gì thêm khác. Đồng thời, tất cả đều có đơn yêu cầu xét
xử vắng mặt.
Những người có quyền lợi nghĩa v liên quan là chồng và cc con của bà H
Wô Ênuôl gồm: Ông Y P2 Hmõk, ông Y2 Êňuôl, chị O Êňuôl, chị H Nh Êňuôl
thống nhất với phần trình bày của bà W Êňuôl và không bổ sung gì thêm khác.
Đồng thời, tất cả đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
Theo cc lời khai trong qu trnh giải quyết v n người thừa kế quyền và
nghĩa v của ông M Êňuôl là bà T3 Hmok trình bày:
Bà T3 Hmok với ông M Êňuôl sinh năm 1984 sống chung với nhau như vợ
chồng từ năm 2002 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định. Trong thời gian

10
chung sống với nhau bà T3 Hmok với ông M Êňuôl có một đưa con chung tên là G
Hmok, sinh 2006, vợ chồng sống chung với nhau ở nhà bố mẹ đẻ của bà T3 Hmok
đến tháng 3 năm 2009 thì ông M Êňuôl về lại nhà bố mẹ đẻ và tự tử chết, còn cháu
G Hmok thì ở với bà T3 Hmok cho đến nay. Đến năm 2018 bà T3 Hmok có đi đăng
ký khai tử cho ông M Êňuôl sau đó lấy chồng mới là Y Dáp Niê, sinh năm 1971 và
cũng không có đăng ký kết hôn. Ngoài bà T3 Hmok ra thì ông M Êňuôl không có vợ
con nào khác. Theo phong tục của người đồng bào Êđê thì người vợ không có quyền
lợi gì đối với tài sản của người chồng. Do đó, đối với tranh chấp đất đai giữa bà R
KSơr với gia đình bên chồng thì bà T3 Hmok không liên quan và cũng không có
tranh chấp, yêu cầu gì đối với thửa đất đó. Vì vậy, bà T3 Hmok đề nghị Tòa án
không mời bà tham gia tố tụng nữa và yêu cầu Tòa án giải quyết xét xử theo quy
định của pháp luật.
Theo cc lời khai trong qu trnh giải quyết v n người thừa kế quyền và
nghĩa v của ông M Êňuôl là anh G Hmok trình bày:
Anh G Hmok là con của bà T3 Hmok với ông M Êňuôl, từ khi sinh ra cho đến
nay anh G Hmok ở với mẹ là bà T3 Hmok .Theo phong tục của người đồng bào Êđê
thì người vợ không có quyền lợi gì đối với tài sản của người chồng. Do đó, đối với
tranh chấp đất đai giữa bà R KSơr với gia đình bên chồng thì anh G Hmok không
liên quan và cũng không có tranh chấp, yêu cầu gì đối với thửa đất đó. Vì vậy, anh
G Hmok đề nghị Tòa án không mời anh tham gia tố tụng nữa và yêu cầu Tòa án giải
quyết xét xử theo quy định của pháp luật.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân huyện CK
quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng
và thông báo cho người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy
ban nhân huyện CK biết để tham gia tố tụng nhưng đều vắng mặt không đến Tòa án
để làm việc và cũng không có văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn cũng như yêu cầu phản tố của bị đơn mà chỉ gửi đơn xin xét xử
vắng mặt và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người làm chứng là ông Y Kuâo Bkrông trnh bày: Ông Y Kuâo không có
mối quan hệ anh em họ hàng thân thích gì với gia đình nguyên đơn cũng như gia
đình bị đơn. Vào năm 1992 khi còn đương nhiệm là Chủ tịch UBND xã ET thì ông
Y Kuâo có ký xác nhận Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất thổ cư đề ngày
23/7/1992 cho ông I Aliêô (tên gọi khác là Ama Thoan). Giấy chuyển nhượng do
ông I Aliêô tự làm trước rồi đưa đến UBND xã ET và nhờ ông Y Kuâo ký xác nhận,

11
chứ ông không chứng kiến cũng như không biết rõ việc ông I Aliêô và bà R Ksơr
chuyển nhượng đất và làm giấy tờ với nhau như thế nào, diện tích đất mà hai bên
chuyển nhượng ở đâu. Ngoài ra, thì ông Y Kuâo Bkrông không biết gì thêm.
Tại bản án sơ thẩm số 12/2025/DSST ngày 17/4/2025 của Tòa án nhân dân
huyện CK, tnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 và khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản
1 Điều 39; các Điều 91, 147, 157, 165, 227, 228, 235, 200; 266 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Các điều 15, 17, 26, 152; 235; 236 Luật đất đai năm 2024; tiểu mục 2.2 mục 2
Nghị Quyết số: 02/2004/NQ - HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân gia đình; Các Điều 158, 164, 166 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm đ
khoản 1 Điều 12, Điều 26 và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà R Ksơr.
1. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập bằng Giấy
chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 23/7/1992 giữa bà R Ksơr với ông I Aliêô.
2. Công nhận quyền sử dụng đất của bà R Ksơr đối với diện tích đất 2064m
2
nằm ở 02 thửa đất số 2610a và 2608a, đều thuộc tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại: Buôn
ET, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk. Trong đó, thửa đất số 2610a, diện tích 1130m
2
đã được UBND huyện KA (nay là huyện CK) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số P 031937 cho bà R Ksơr vào ngày 30/8/2000; còn lại thửa đất số 2608a, diện
tích 934m
2
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3. Buộc vợ chồng bà B1 Êňuôl và ông Đổng Văn Biến với vợ chồng bà W Êňuôl
và ông Y Phôl Hmõk phải phá dỡ công trình và chặt bỏ cây cối trên đất tranh chấp
để trả lại cho bà R Ksơr toàn bộ diện tích đất theo kết quả đo đạc thực tế là 2064m
2
tại 02 thửa đất số 2610a và 2608a, đều thuộc tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại: Buôn ET,
xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk. Đất có vị trí tứ cận, kích thước theo biên bản xem
xét thẩm định và trích đo hiện trạng của Công ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc – tư
vấn Nông Lâm nghiệp tỉnh Đắk Lắk như sau:
- Phía Đông giáp thửa đất số 2731 có canh dài gấp khúc lần lượt từ đường vào
là 50,37m, 22,43 và giáp thửa đất số 2612 có cạnh dài gấp khúc lần lượt là 15,89m,
4,92m, 10,58m;

12
- Phía Tây giáp thửa đất số 2610 của ông I Aliêô và bà G Êňuôl có cạnh dài
gấp khúc lần lượt là 47,37m, 38,83m và 13,05m.
- Phía Nam giáp đường nhựa có cạnh dài 20m;
- Phía Bắc giáp mương nước có cạnh dài 20m.
Tài sản, công trình trên đất phải phá dỡ gồm có: Một căn nhà cấp IV và công
trình vệ sinh có tổng diện tích 168m
2
; 01 chồng heo diện tích 5,88 m
2
; 01 Bồn
nước 1000 lít có khung giá đỡ.
Cây trồng trên đất phải chặt bỏ gồm có: 20 cây Tiêu trụ cây Gòn trồng năm
2017; 01 cây Gòn không có Tiêu leo trồng năm 2017; 01 cây Muồng đen không
có tiêu leo trồng năm 2017; 01 cây Me trồng năm 2014; 02 cây Xoài (một cây
trồng năm 2017 và một cây trồng năm 2022); 01 cây Bằng Lăng trồng năm 2017;
01 cây Khế trồng năm 2014; 02 cây Dừa (một cây trồng năm 2014 và một cây
trồng năm 2022) 01 cây Ổi trồng năm 2017; 01 cây Mận trồng năm 2023; 01 cây
Chùm Ruột trồng năm 2017; 01 cây Thanh Long trồng năm 2021; 01 cây Lộc
Vừng và 03 cây Sung.
4. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện bà R Ksơr về việc buộc gia đình ông I
Aliêô và bà G Êňuôl phải bồi thường thiệt hại số tiền 100.000.000 đồng.
5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà G Êňuôl về việc yêu cầu tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập bằng Giấy chuyển nhượng đất
thổ cư viết tay ngày 23/7/1992 giữa ông I Aliêô và bà R Ksơr vô hiệu.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và tuyên quyền kháng cáo
của các đương sự trong thời hạn luật định.
Ngày 09/5/2025, bị đơn bà H Giưh Ênuôl và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan bà H Blớp Ênuôl kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: Đề nghị cấp phúc
thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn và chấp
nhận toàn bộ đơn phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, bị đơn và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

13
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các chứng cứ, tài liệu được thu thập có
trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị
Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự để hủy
toàn bộ bản án sơ thẩm và giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ
sơ thẩm. Bởi lẽ, cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ
chưa khách quan làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và nghĩa vụ của các
đương sự.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng
cứ lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn bà G Ê Nuôl và bà B1 Ênuôl làm
trong hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm và được miễn án phí phúc
thẩm nên được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về tư các tham gia tố tụng của các đương sự: Căn cứ các tài liệu chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: Bị đơn có nhiều tên gọi khác nhau như: Ytlaliêô
(bút lục 104, bút lục 100,..) , I Aliêô (nhiều bút lục), Ama Thuan (bút lục 162) và
Ama Thoan. Tuy nhiên, quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm không làm rõ những tên
nêu trên của bị đơn có phải là cùng một người hay không và tên gọi chính xác của bị
đơn là gì để có căn cứ giải quyết vụ án là thiếu sót.
[2.2] Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn; đơn kháng cáo của bị đơn và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, HĐXX thấy rằng:
[2.2.1] Căn cứ khởi kiện của nguyên đơn là lời khai của người làm chứng; Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối thửa đất 2610a, tờ bản đồ số 12, diện tích 1.130
m
2
được UBND huyện KA cấp cho bà R Ksơr ngày 30/8/2000 và “Giấy chuyển
nhượng đất thổ cư” giữa ông I Aliô (diện tích chuyển nhượng là 02 sào đất), có xác
nhận của chính quyền địa phương ngày 25/8/1992 (bút lục số 161, 162). Quá trình
giải quyết vụ án, bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều khai bị
đơn ông I Aliô (Itlaliô) là người không biết chữ. Tuy nhiên, tại các tài liệu chứng cứ
đã được thu thập trong hồ sơ vụ án như các Biên bản hòa giải (bút lục số 15, bút lục
số 17) đều có chữ ký và chữ viết của bị đơn ông I Aliô (Itlaliô) và hiện nay các tài

14
liệu này đang được lưu trữ tại UBND xã ET (Nay là UBND xã Ea Ktur). Mặc dù
vậy, cấp sơ thẩm chưa thu thập và giám định chữ ký của bị đơn ông I Aliô (Itlaliô)
nhằm làm rõ có phải chữ ký tại “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư” năm 1992 là do
ông I Aliô (Itlaliô) ký và viết ra hay không để từ đó có căn cứ vững chắc để xác định
có hay không việc bị đơn chuyển nhượng đất cho nguyên đơn như nguyên đơn trình
bày. Cấp sơ thẩm cho rằng bà H’Giưh Ênuôl và các con không cung cấp được mẫu
chữ ký của ông I Aliô (Itlaliô). Tuy nhiên, trong trường hợp này việc giám định chữ
ký là cần thiết để việc giải quyết vụ án được khách quan và đúng quy định pháp
luật. Vì vậy, Tòa án cần giải thích cho đương sự biết quyền được yêu cầu Tòa án thu
thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không thu thập được theo quy định tại
điểm e khoản 1 Điều 97 BLTTDS. Hoặc khi xét thấy cần thiết thì Tòa án thu thập
chứng cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 106 BLTTDS. Sau khi thu thập được chữ
ký nếu đương sự không yêu cầu giám định thì Tòa án có quyền quyết định trưng cầu
giám định theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTDS.
[2.2.2] Tại “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư” các bên chỉ ghi diện tích đất
chuyển nhượng là “2 sào”, không ghi rõ ranh giới, tứ cận. Trong khi đó Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối thửa đất 2610a, tờ bản đồ số 12, được UBND huyện KA
cấp cho bà R Ksơr ngày 30/8/2000 ghi diện tích là 1.130 m
2
, cấp sơ thẩm công nhận
quyền sử dụng đất cho nguyên đơn với diện tích 2064m
2
nằm ở 02 thửa đất số
2610a và 2608a, đều thuộc tờ bản đồ số 12 khi chưa xác minh làm rõ lô đất đang
tranh chấp nằm ở vị trí nào trên thực tế, vì sao lại có sư chênh lệch diện tích giữa
GCN QSD đất, giấy mua bán đất và thực tế để làm căn cứ giải quyết vụ án là thiếu
sót.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ được chủ sử dụng thực tế của thửa
đất trước thời điểm năm 1992 là ai. Trong khi bị đơn cung cấp tài liệu, lời khai và
xác nhận từ chính quyền địa phương thể hiện gia đình bà H’Giưh Êňuôl là người sử
dụng đất liên tục từ sau năm 1986 đến nay, có kê khai đất đai và quản lý tài sản trên
đất. Tòa sơ thẩm chưa xác minh đầy đủ mà chỉ dựa vào “Giấy chuyển nhượng ngày
23/7/1992” do nguyên đơn cung cấp để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn mà không xem xét các điều kiện pháp lý, chủ thể, đối tượng, hình thức của hợp
đồng là chưa đảm bảo căn cứ pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm chưa tiến hành thu thập tài liệu chứng
cứ để xác định tại thời điểm ông I Aliô (Itlaliô) chuyển nhượng đất cho bà R thì gia
đình ông I Aliô (Itlaliô) có bao nhiêu thành viên để có căn cứ đánh giá tính hợp
pháp của “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư” do ông I Aliô (Itlaliô) và bà R Ksơr lập

15
có đúng quy định theo Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986 hay không ? để từ
đó có căn cứ giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ việc giao nhận tiền chuyển nhượng
đất giữa nguyên đơn và bị đơn (số tiền 3,5 chỉ vàng 99%), làm rõ sau khi nhận tiền
chuyển nhượng đất thì ai là người sử dụng số vàng này và sử dụng vào mục đích gì
để có căn cứ giải quyết triệt để vụ án.
[2.2.3] Cấp sơ thẩm tuyên buộc các bị đơn phải tháo dỡ toàn bộ công trình, cây
trồng là chưa chính xác và gây thiệt hại nghiêm trọng cho đương sự. Bởi lẽ: Việc
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tạo lập tài sản trên phần đất tranh chấp
nguyên đơn biết nhưng không có ý kiến gì và không bị cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính. Việc cấp sơ thẩm chưa làm rõ các đương sự có
yêu cầu như thế nào đối với các tài sản do bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan tạo lập trên phần diện tích đất tranh chấp là thiếu xót, cấp phúc thẩm
không thể khắc phục được.
[3] Từ những phân tích và nhận định trên, HĐXX xét thấy, cấp sơ thẩm thu
thập tài liệu chứng cứ chưa đầy đủ và giải quyết vụ án chưa triệt để mà tại cấp phúc
thẩm không thể khắc phục được. Do dó, HĐXX xét thấy cần hủy toàn bộ bản án sơ
thẩm và chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm giải quyết lại thủ thủ tục sơ thẩm.
[4] Về án phí và chi phí tố tụng:
Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm: Nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng và
án phí dân sự sơ thẩm được xác định lại khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do được chấp nhận một phần đơn kháng cáo và bị
đơn bà H Giưh Ênuôl thuộc trường hợp được miễn án phí, đã có đơn xin miễn án
phí nên được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H Blớp Ênuôl không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

16
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà H Giưh Ênuôl và người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan bà H Blớp Ênuôl.
Hủy toàn bộ bản án Dân sự sơ thẩm số 12/2025/DS-ST ngày 17/4/2025 của Tòa án
nhân dân huyện CK, tỉnh Đắk Lắk và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân khu
vực 5 – Đắk Lắk giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[2] Về chi phí tố tụng và án phí:
Về chi phí tố tụng: Nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng được xác định lại khi Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án
Về án phí dân sự sơ thẩm: Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định
lại khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn bà H Giưh Ênuôl được miễn án phí dân sự
phúc thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H Blớp Ênuôl không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm. Được nhận lại 300.000đ do ông Đỗ Anh T1 nộp thay theo
Biên lai số 0006913 ngày 09/5/2025 tại chi cục thi hành án dân sự huyện CK, tỉnh
Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDTC; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk; (đã ký)
- TAND khu vực 5;
- CCTHADS khu vực 5;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án. Bùi Quốc Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm