Bản án số 447/2025/DS-PT ngày 14/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 447/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 447/2025/DS-PT ngày 14/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 447/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN T
Bản án số: 447/2025/DS-PT
Ngày: 14 8 2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Đào Thị Thủy.
Các Thẩm phán:
Bà Trịnh Thị Bích Hạnh
Bà Võ Thị Phượng.
- Thư phiên tòa: Ông Phạm Tấn Phát - Thư Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phCần Thơ: Nguyễn Thị
Hồng Thắm - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong ngày 14 tháng 8 năm 2025, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân thành
phố Cần T- (trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang cũ) xét xử phúc thẩm công
khai vụ án dân sự thụ số: 167/2025/TLPT-DS ngày 30 tháng 6 năm 2025 về
việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”,
Do Bản án dân sthẩm s70/2025/DS-ST, ngày 12 tháng 5 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang (nay Tòa án nhân dân
khu vực 12 – Cần Thơ) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 485/2025/QĐ-PT ngày
24 tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn D (D1), sinh năm 1968.
Địa chỉ: Ấp D, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nayấp D, xã X, thành ph
Cần Thơ). Có mặt
2. Bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Trí N, sinh năm 1969.
2.2. Bà Lê Thị Q, sinh năm 1944.
Cùng địa chỉ: Ấp G, X, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Nay là X, thành phố
Cần Thơ).
2
Người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn:Nguyễn Ngọc T, sinh năm
1993.
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang (nay là ấp H, xã H, thành phố
Cần Thơ). Có mặt
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Trần Thanh P -
Luật sư thuộc Văn phòng L1, Đoàn Luật sư thành phố C (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Trương Thị H, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Ấp V, N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (nay ấp V, xã N, tỉnh
Mau). Có mặt.
Chỗ hiện nay: Ấp D, X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nay là ấp D, X,
thành phố Cần T).
3.2. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Ấp G, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nayấp G, xã X, thành ph
Cần Thơ). Có mặt
3.3. Chị Lê Thu T1, sinh năm 1983. Vắng mặt
3.4. Bà Phan Thị Tuyết V, sinh năm 1956. Vắng mặt
Cùng địa chỉ: Số A N, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ (nay số A
N phường N, thành phố Cần T).
3.5. Bà Lê Thị H1, sinh năm 1951.
Địa chỉ: Ấp G, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nayấp G, xã X, thành ph
Cần Thơ). Vắng mặt
3.6. Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1948.
Địa chỉ: Ấp H, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nayấp H, xã X, thành ph
Cần Thơ). Vắng mặt
3.7. Bà Trương Thị D2, sinh năm 1971.
Địa chỉ: Ấp G, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nayấp G, xã X, thành ph
Cần Thơ). Có mặt
3.8. Ông Huỳnh Minh K1, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Ấp D, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nayấp D, xã X, thành ph
Cần Thơ). Vắng mặt
3.9. Bà Huỳnh Thị C, sinh năm 1965.
Địa chỉ: Ấp G, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang (nayấp G, xã X, thành ph
Cần Thơ). Vắng mặt
3.10. Bà Trần Tú A, sinh năm 1954.
3
Địa chỉ: Số B T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ (nay số B T,
phường T, thành phố Cần Thơ). Vắng mặt
3.11. Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Hậu Giang. (Người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng là Ủy ban nhân dân xã X, thành phố Cần Thơ). Vắng mặt
4. Người kháng cáo: Các bị đơn ông Nguyễn Trí N và bà Lê Thị Qui .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án thẩm các tài liệu trong hồ thì nội dung vụ án như
sau:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn D trình bày: Phần đất tranh chấp nguồn gốc
từ việc thông qua sự giới thiệu của ông Nguyễn Trí N, nên vào năm 2017 ông đã
nhận chuyển nhượng của ông Lê Văn K2 phần đất tại thửa 414, diện tích 2.950m
2
,
loại đất cây lâu năm và thửa 414A, diện tích 300m
2
, loại đất ONT, tổng diện tích
3.250m
2
, với giá 250.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng hai bên làm giấy
tay, các bên tên ông N tên chứng kiến. Ông đã giao đtiền, ông
K2 đã giao đất cho ông hai bên đã làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất làm thtục sang tên theo quy định, do chuyển nhượng hết thửa đất
nên làm thủ tục úp bộ toàn bộ phần đất sang tên cho ông mà không đo đạc thực
tế. Khi thỏa thuận chuyển nhượng đất ông K2 nói đất gốc của ông K2 được cha
mẹ cho ông K2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông nhận
chuyển nhượng phần đất này thì ông N bà Q biết đất của ông N, Q cặp
ranh phần đất này ông N người giới thiệu cho ông nhận chuyển nhượng phần
đất này của ông K2. Khi ông nhận chuyển nhượng thì phần đất này là đất mương
rảnh, ông đã bồi đắp, san lấp mặt bằng làm bãi đậu xe cuốc của gia đình. Đến
tháng 09/2022, ông định cất căn nhà tạm để xe thì bà Q và ông N ra ngăn cản cho
rằng đất của ông bà để lại không cho ông D cất nhà, từ đó hai bên phát sinh tranh
chấp. Ban đầu phần đất ông N và bà Q tranh chấp với ông là một phần trong thửa
đất của ông sang của ông K2 diện tích ngang khoảng 7m, dài khoảng 140m chạy
dài từ lộ đến sông C. Nhưng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì ông N đã
vào phần đất của ông trồng dừa mai kiểng, đổ đá làm đường, đào ơng đối
với phần đất này và tranh chấp toàn bộ phần đất với ông.
Theo đơn khởi kiện ngày 01/6/2023, ông Nguyễn Văn D yêu cầu bà Lê Thị
Q ông Nguyễn Trí N trả lạo phần đất lấn chiếm ngang 7m dài khoảng 140m,
đến ngày 25/01/2024 ông D khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà
Q ông N trả lại toàn bộ phần đất đã chiếm theo diện tích đo đạc thực tế tại vị
trí I, II, V, VI tổng diện tích là 2.767,9m
2
, đồng thời yêu cầu ông N và bà Q tháo
dở di dời toàn bộ cây trồng công trình xây dựng trên đất để trả lại đất cho ông D.
Bị đơn ông Nguyễn Trí N trình bày: Ông thừa nhận phần đất tranh chấp giữa
ông ông D đúng đất của ông D đã sang của ông K2. Q mẹ ruột của
4
ông, ông K2 cậu út của ông (em ruột của Q), lúc đó ông K2 bị bệnh nên
muốn sang phần đất này, thấy vậy nên ông mới giới thiệu cho ông D sang đất.
Tuy nhiên, lúc đó ông không biết ông K2 tý lấy đất ông sang cho ông D
không thông qua ý kiến của bà Q mẹ ông các của ông, sau này nghe
bà Q nói thì ông mới biết, lúc ông D và ông K2 dẫn người xuống đo đất thì bà Q
ra ngăn cản. Nguồn gốc phần đất này là của ông Lê Tấn Thế L ông ngoại của
ông chết đlại không nhớ diện ch. Trước đây khoảng thời gian trước năm
1990, phần đất này bà Lê Thị H1 em ruột của bà Q sử dụng ở một phần, sau đó
cho lại ông Huỳnh Minh K1 là con bà Lê Thị D3 ở một thời gian, ông K1 mới để
lại cho em gái của mình Huỳnh Thị C sử dụng một thời gian thì không nữa
mà dọn đi nơi khác và giao đất lại cho bà Q quản lý từ đó đến nay bao gồm luôn
phần đất ông và chị em ông đang ở hiện nay. Ông K2 sinh sống tại Cần Thơ, đến
năm 1994 ông K2 về gặp Q để xin một nền nhà để thờ ông bà vì ông K2
trai út, lúc đó bà Q các của ông gồm bà Thị Đ, Thị H1
Thị D3 (chết) cũng thống nhất cho ông K2 một nền nhà là nền nhà trước đây ông
cốc ở, ông K2 cất nhà tạm ở, sau đó ông vô sử dụng chung với ông K2, nền nhà
này nằm trong phần đất ông D sang của ông K2, nhưng không hiểu sao ông K2
lại làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hết diện tích thửa đất. Hiện tại, ông
vẫn ở trên phần đất của ông bà để lại cặp ranh với phần đất tranh chấp với ông D,
không chiếm sử dụng phần đất nào của ông D, vì phần đất đó của mẹ ông, việc
ông trồng cây, đào mương trên đất là do mẹ ông lớn tuổi không thể làm được nên
nhờ ông làm dùm. Còn việc mẹ ông tranh chấp với ông D thế nào thì ông không
có liên quan, nên ông không đồng ý trả đất và cũng không có yêu cầu gì thêm, vì
ông không có chiếm đất.
Bị đơn Thị Qui trình B: Nguồn gốc phần đất tranh chấp với ông D
của cha bà là ông Lê Tấn T2 chết để lại cho bà quản lý sử dụng, nhưng bà không
biết diện tích bao nhiêu, quản lý sử dụng đất từ lúc chưa có gia đình đến nay
đã mấy chục năm, không ai tranh chấp gì. Ông Văn K2 em trai út của bà,
năm 1994 ông K2 về hỏi xin một nền nhà đsau này ông K2 về ở thờ cúng ông
bà, các chị em của cũng đồng ý cho, nhưng không nói vị trí nào, diện tích
bao nhiêu cũng không làm giấy tờ gì. Phần đất này trước đây được cấp bằng
khoáng tạm thời một phần, ông Huỳnh Minh K1 được cấp một phần, nhưng hiện
tại không còn giấy tờ gì, nhưng sau đó đã cấp đổi bằng khoáng đỏ sử dụng đến
nay (giấy chứng nhận quyền sdụng đất). Nhưng không hiểu sao ông K2 lại được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc ông K2 sang đất cho ông D hoàn
toàn không hay biết, đến khi ông D nói với bà là ông K2 sang đất cho ông D thì
bà mới biết và có ngăn cản ông D và ông K2 sang đất với nhau, sau đó ông D và
ông K2 dẫn địa chính xuống đo đạc đất thì tiếp tục ngăn cản trình báo
miệng với cán bộ phụ nữ ấp lúc đó Nguyễn Thị T3 việc không đồng ý cho
ông K2 bán đất, lúc bà ngăn cản lúc đó ông K2 và ông D không nói nên nghĩ
5
không sang bán nữa, nên không làm đơn gửi chính quyền ấp hay để
can thiệp, lúc đó tcác hộ tứ cận cũng không đồng ý giáp ranh cho ông K2
sang đất. Đến tháng 09/2022, ông D vào cất nhà mới ra ngăn cản không cho
ông D cất nhà hai bên mới phát sinh tranh chấp, lúc này bà cũng chưa biết ông D
đã được cấp bằng khoáng, đến lúc ông D kiện ra ấp thì mới biết ông K2 chuyển
bằng khoáng cho ông D, n việc ông K2 làm sao được cấp giấy tkhông biết.
Nay ông D khởi kiện yêu cầu trả lại đất thì không đồng ý, yêu cầu Tòa
án hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông D ông K2, buộc ông D trả lại
cho bà toàn bộ phần đất mà ông D đã sang của ông K2 theo diện tích đo đạc thực
tế 2.767,9m
2
đây là đất gốc của ông để lại cho bà, ông K2 không quyền
sang bán.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trương Thị H trình bày:
thống nhất với lời trình bày của chồng là ông Nguyễn Văn D không trình bày bổ
sung gì thêm.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn K trình bày: Việc
tranh chấp đất giữa ông Nguyễn Văn D với ông Nguyễn Trí N Thị Q,
nhưng có liên quan đến phần ranh đất giáp với phần đất của ông thì ông có ý kiến
như sau:
Ông có phần đất giáp ranh với phần đất của ông Tấn Thế L cha của
Thị Q, nguồn gốc phần đất ông sử dụng là của bà Lâm Thị Q1 mẹ của ông
Tấn T2, Thị N1, Thị Đ1 Thị D4, cho các anh chị em ông
T2, N1, bà Đ1 và bà D4 mỗi người một phần, phần đất của ông đang sở hữu
đầu tiên của D4, sau đó giữa bà D4 N1 thỏa thuận thế nào ông K không
biết bà N1 được sở hữu, thông qua ông N giới thiệu nên ông mới sang phần
đất này của bà N1 vào năm 1993, phần đất ông sang của bà N1 giáp phần đất của
ông T2, lúc sang đất hai bên có chỉ ranh mốc rỏ ràng giữa đất của ông và đất ông
Thế con mương ranh, nguyên con mương của ông, sau khi sang đất ông sử
dụng đến năm 1996 thì Q ngang nhiên cho rằng phần ơng ranh của ông
Thế L cha Q, nên Q qua chặt cây trồng trên đất giành phần con mương
này (nay là con mương bà Q chỉ khi đoa đạc tranh chấp với ông D), từ đó ông và
Q phát sinh tranh chấp phần mương ranh trên, ông gửi đơn đến chính quyền
địa phương yêu cầu giải quyết tại Quyết định số 278/1998.QĐ.Ct.UBH ngày
15/6/1998 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Cần Thơ đã công nhận
cho ông toàn bộ phần đất ông sang của bà N1. Buộc bà Q bồi thường thiệt hại đối
với các cây trồngQ đã chặt của ông. Từ ngày ông D sang đất đến nay ông
ông D không tranh chấp phần con mương ranh này. Nên nay bà Q và ông D tranh
chấp bà Q cho rằng mương ranh của Q không đúng, sự việc con mương ranh
này đã được giải quyết bằng Quyết định số 278 năm 1998 của ủy ban nhân dân
huyện L xong rồi. Nên trong vụ kiện này ông không tranh chấp với ông D và cũng
không yêu cầu độc lập giải quyết phần mương ranh.
6
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Tuyết V1 trình bày:
vợ ông Văn K2, thừa nhận vào năm 2017 cùng chồng ông K2
con gái có chuyển nhượng cho ông D, bà H phần đất hiện ông D đang tranh chấp
với ông N, bà Q. Phần đất chuyển nhượng tại thửa 414 diện tích 2950m
2
và 414A
diện tích 300m
2
, với giá 250.000.000 đồng, gia đình bà vân đã giao đất cho ông
D và vợ chồng ông D ng đã giao đủ tiền cho gia đình bà và hai bên đã làm thủ
tục sang tên quyền sử dụng đất cho ông D xong. Theo nguồn gốc phần đất
đất gốc của ông để lại, trước đây Nhà nước chủ trương đưa đất vào tập đoàn,
sau đó trả về chủ hộ gốc nên chồng là ông K2 các anh chị em của ông K2
nhận lại đất, phần đất này ông K2 được nhận làm thủ tục khai đăng quyền
sử dụng ổn định không ai tranh chấp. Đến năm 2017, ông K2 bệnh nặng nên vợ
chồng bà mới thống nhất chuyển nhượng đất để lấy tiền trị bệnh cho ông K2, lúc
tìm người mua đất vợ chồng bà có hỏi trong tất cả anh chị em, con cháu ai có khả
năng thì sang lại, nhưng không ai sang. Lúc này ông N là con bà Q mới giới thiệu
cho vợ chồng ông D H mua đất, lúc ông D đặt cọc đất thì ông N chứng
kiến, ông N, bà Q biết vợ chồng sang đất nhưng không ai can ngăn gì. Tuy
nhiên, nhà Q nằm liền giáp ranh với phần đất của vợ chồng bà nhưng phía
trong, phía sau sông Cái Rắn, phía trước đất ông K nên bà Q không đường
đi ra lộ, nên lúc sang đất vợ chồng bà có nói là chừa lại cho bà Q một đường đi ra
lộ nhưng không nói diện tích bao nhiêu, lúc này vợ chồng ông D, bà H cũng đồng
ý. Việc sang bán đất giữa vchồng vchồng ông D đã hoàn tất và việc
chuyển nhượng được thực hiện đảm bảo quy định, nên nay đất thuộc sở hữu của
ông D, H tự định đoạt, con không còn liên quan gì. Đối với yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng thì không đồng ý đây đất thuộc quyền s
hữu hợp pháp của vợ chồng bà, không phải của Q. yêu cầu Toà án giải
quyết theo quy định pháp luật.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Thu T1 trình bày: Chị
con của ông K2 V1, chị thống nhất với ý kiến trình bày của V1, chị không
có yêu cầu gì khác.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lê Thị H1 trình bày: là con
ông Lê Tấn T2, em ruột bà Thị Qui . Năm 1974, có chồng về ở trên phần
đất của ông T2, đến năm 1982 cho lại cháu ông Huỳnh Minh K1 sử dụng.
Ông K2 không có canh tác trên mãnh đất này đến năm 2017 ông K2 về lấy phần
đất này sang cho ông D, khi đó các chị em trong gia đình ngăn cản, nhưng không
D ông K2 làm giấy sang tên sdụng khi nào chị em trong gia đình không ai
hay biết. Nay bà yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định pháp luật.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thị Đ trình bày: con
ông Lê Tấn T2, là em ruột bà Thị Qui . Phần đất tranh chấp của ông T2 chết
để lại cho Q. Năm 2017, ông K2 về lấy phần đất này sang cho ông D, khi đó
các chị em trong gia đình ngăn cản không cho đo đạc phần đất của ông bà
7
để lại không được sang bán cho người ngoài. Nay yêu cầu Toà án giải quyết
theo quy định pháp luật.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trương Thị D2 trình bày:
vợ ông Nguyễn TN, thống nhất với ý kiến của ông N, không có ý kiến yêu
cầu gì thêm.
Người quyền li nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Minh K1 trình bày:
Năm 1982, ông trên phần đất của ông T2 (ông ngoại của ông) phần đất do
H1 để lại cho ông ở, đến năm 1990 ông để lại cho em gái bà Huỳnh Thị C ở,
phần đất gần ng, đến lộ lớn đường đi ngang khoảng 7m được dùng chung
cho các hộ đó đi chung. Nay đối với việc tranh chấp giữa ông D, bà Q, ông N
thì ông yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị C trình bày: Năm
1990, gia đình ra riêng trên phần đất của ông T2 (ông N2 của bà), phn
đất cho anh bà là ông K1 để lại. Đến năm 1998, bà trả lại đất cho Lê Thị Qui .
Nay đối với việc tranh chấp giữa ông D, Q, ông N thì bà yêu cầu giải quyết
theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Tú A trình bày:
con của bà Lê Thị Đ1, có đất giáp ranh với đất của bà Q. Từ trước đến nay, bà chỉ
biết đất này của Q bằng khoáng và bà Q không sang bán cho ai. Khi ông K2
tự ý sang đất cho ông D không ai hay biết, khi xuống đo đạc mấy chị em Q
ngăn cản không cho sang bán đất này của ông để lại nên ông D ông K2
đi về. Bà không ký giáp ranh, không ai ký giáp ranh nhưng không biết vì sao ông
D được cấp giấy sử dụng. Nay yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định pháp
luật. Đối với phần ranh đất giữa bà ông D tại vị trí II bà không yêu cầu
gì.
Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền li, nghĩa
vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện L - người đại diện theo ủy quyền ông Trần
Ngọc Thanh T4 trình y: Tại công văn phúc đáp số 1140/UBND-TNMT ngày
23/4/2024 Ủy ban nhân dân huyện L có ý kiến:
Về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông
Văn K2 như sau: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000384 do Ủy ban
nhân dân huyện L (cũ) cấp cho hộ ông Văn K2 ngày 23/5/1997, có tổng diện
tích 8.595m
2
thuộc thửa 410, 414 và 414A tờ bản đồ số 07, tại ấp G, xã X, huyện
L, có nguồn gốc đất từ hộ gốc theo Đơn xin đăng quyền sử dụng đất do ông
Văn K2 khai ngày 09/10/1996 được Hội đồng đăng đất đai X xác nhận
đất gốc của ông Lê Văn K2.
Về đối tượng và trình tự thủ tục cấp giấy: Thực hiện theo quy định tại khoản
1, Điều 2, Điều 36 Luật đất đai năm 1993; Quyết định số 499/QĐ-ĐC ngày
27/7/1995 của T7.
8
Về thủ tục chuyển quyền sử dụng đất: Căn cứ khoản 3 Điều 105 Luật đất đai
năm 2013, quy định: “Đối với những trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận,
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình
xây dựng mà thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn
liền với đất hoặc cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng thì do quan tài
nguyên và môi trường thực hiện theo quy định của Chính phủ”.
Trường hợp gia đình Thị Q yêu cầu hủy giấy chứng nhận đã cấp của
ông K2 đề nghị Hội đồng xét xử nghiên cứu thực hiện đúng quy định tại Điều 152
Luật Đất đai năm 2024.
Tại Bản án sơ thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 12/5/2025 của Tòa án nhân dân
huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 Cần Thơ)
tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn D đối với
bị đơn bà Lê Thị Q và ông Nguyễn Trí N về việc đòi lại phần đất bị chiếm.
2. Buộc bị đơn Thị Q ông Nguyễn Trí N giao trả lại cho ông Nguyễn
Văn D bà Trương Thị H phần đất theo đo đạc thực tế tại vị trí I diện tích
2.154,2m
2
, vị trí II diện tích 205,5m
2
, vị trí V diện ch 110,9m
2
, vị tVI diện tích
297,3m
2
. Tổng diện tích 2.767,9m
2
tại thửa 414 loại đất CLN thửa 414A loại
đất ONT, tờ bản đồ số 7 đất tọa lạc tại ấp G, X, huyện L, tỉnh Hậu Giang, thuộc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03409 do UBND huyện L cấp vào ngày
07/11/2017 cho ông Nguyễn Văn D và bà Trương Thị H.
(Kèm theo mảnh trích đo địa chính số 44/SHC ngày 02/4/2025 của Công ty
Cổ phần Đ2).
Buộc bị đơn ThQ ông Nguyễn Trí N trách nhiệm di dời toàn
bộ cây trồng công trình xây dựng do ông N, Q trồng và xây dựng trên đất,
để trả lại đất cho ông Nguyễn Văn D.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị Q đối với nguyên
đơn ông Nguyễn Văn D về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 20/10/2017 giữa ông Nguyễn Văn D, Trương Thị Hông
Văn K2 và công nhận quyền sử dụng phần đất tranh chấp cho bà Lê Thị Qui .
4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bị đơn Thị Q đối với
nguyên đơn ông Nguyễn Văn D về việc yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền
kề. Dành quyền khởi kiện cho Thị Q đối với ông Nguyễn Văn D về việc
yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề theo quy định pháp luật.
5. Dành quyền khởi kiện cho Trần Thị Tú A đối với ông Nguyễn Văn D
đối với phần ranh mốc giới giữa các bất động sản của hai bên thành vụ kiện khác
theo quy định nếu bà Tú A và ông D phát sinh tranh chấp.
9
Ngoài ra, bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm; quyền
yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 19/5/2025, bđơn ông Nguyễn Trí NLê Thị Q đơn kháng cáo
Bản án số 702025/DS-ST ngày 12/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện huyện Long
Mỹ, tỉnh Hậu Giang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 – Cần Thơ).
Nội dung kháng cáo:
- Ông Nguyễn Trí N yêu cầu sửa Bản án thẩm theo hướng bác yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc
yêu cầu ông di dời cây trồng, trả đất cho nguyên đơn.
- Thị Q yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn chấp nhận yêu cầu phản tố của về việc hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/10/2017 giữa ông Lê Văn K2ông Nguyễn
Văn D. Công nhận quyền sử dụng đất của đối với phần đất diện tích
2.562,4m
2
tại hai thửa 414, 414A, tờ bản đồ số 7 tại ấp G, X, huyện L, tỉnh Hậu
Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đnghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Luật sư Trần Thanh P trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại nguồn
gốc phần đất đang tranh chấp, bà Q đã sử dụng phần đất này trên 30 năm nay
ranh giới rõ ràng, việc ông K2 tự ý đăng ký khai và được Nhà nước cấp Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất thì Q hoàn toàn không biết, xác nhận của
những người công tác trong tập đoàn ngày trước xác định đất do Q nhận lại khi
tập đoàn T8 rả nên đất thuộc sở hữu của Q. Ngoài ra, ông K2 sinh sống tại Cần
Thơ không có hộ khẩu tại L, do đó việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông K2 không đúng đối tượng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng
cáo của bị đơn, sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký, đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự.
- Về nội dung: Kiểm sát viên cho rằng bản án thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn căn cứ, vậy đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
10
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, qua kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang,
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử thẩm các bđơn ông Nguyễn Trí N
Lê Thị Q đơn kháng cáo đúng tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét tiến hành xét
xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của các bị đơn Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Phần đất tranh chấp được các đương sự thống nhất theo Mảnh trích đo
địa chính số 44/SHC ngày 02/4/2025 của Công ty Cổ phần Đ2 tại vị trí I diện tích
2.154,2m
2
, vị trí II diện tích 205,5m
2
, vị trí V diện tích 110,9m
2
, vị tVI diện tích
297,3m
2
. Tổng diện tích là 2.767,9m
2
tại thửa 414 và 414A tbản đồ số 7 loại đất
CLN ONT thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03409 do UBND
huyện L cấp vào ngày 07/11/2017 cho ông Nguyễn Văn DTrương Thị H.
[2.2] Xét nguồn gốc phần đất tại thửa 414 và 414A:
[2.2.1] Bà Q và ông N cho rằng nguồn gốc phần đất là của ông Tấn Thế
L cha của bà Q và ông K2, ông T2 chết để lại cho chị emQ quản lý, bà Q cho
rằng bà Q là chủ sở hữu phần đất này. Tuy nhiên, bà Q, bà H1, ông K1, bà C đều
trình bày tại các bản tự khai cho rằng H1 thời gian trên phần đất tranh
chấp từ năm 1974 -1982, sau đó để lại cho ông K1 sử dụng từ năm 1982 - 1990,
sau đó ông K1 dọn đi nơi khác C đến ở t1990 1998. Tuy nhiên, theo lời trình
bày của bị đơn tại phiên tòa thẩm và theo đơn xác nhận ngày 25/12/2024 do bà
Q cung cấp xác nhận của ông Nguyễn Văn D5, ông Phạm Thành T5, ông
Huỳnh Văn N3, ông Nguyễn Văn T6 theo các biên bản xác minh của Tòa án
đều thể hiện phần đất tranh chấp là đất gốc của cha mẹ ông T2 để lại cho ông T2,
đất được đưa vào tập đoàn sản xuất nông nghiệp theo chủ trương của Nhà nước
từ năm 1983 đến năm 1990 khi tập đoàn tan rã các con của ông Thế là bà Q mới
nhận lại đất gốc, như vậy giai đoạn từ năm 1983 - 1990 đất đã được đưa vào tập
đoàn nên việc Q ông K1 cho rằng giai đoạn này ông K1 người đang sử
dụng đất là không phù hợp mâu thuẩn với lời trình bày, với các xác nhận do Q
cung cấp và các biên bản xác minh của Tòa án.
[2.2.2] Tại bản tkhai ngày 27/6/2023 và biên bản hòa giải ngày 22/6/2023
Q thừa nhận vào m 1994 chị em Q thống nhất cho ông K2 phần đất cất
nhà để thờ cúng ông cha mẹ và ông K2 cất nhà trên đất là sự thật, đều
đó cũng cho thấy sau khi nhận lại đất gốc lại từ tập đoàn thì bà Q và các anh chị
em trong gia đình đã thỏa thuận giao cho ông K2 các phần đất của cha mẹ để
lại trong đó có phần đất tranh chấp, ngoài ra, ông N cũng xác định ông K2 cất
nhà trên phần đất này sinh sống một thời gian, đi vgiữa Cần TX, sau
đó ông K2 về Cần Thơ sinh sống và giao nhà lại cho ông N ở, đều đó cho thấy từ
11
năm 1994 đến thời điểm ông K2 khai trong sổ mục kê ruộng đất và được cấp
giấy quyền sử dụng đất vào năm 1997 thì ông K2 người đang trực tiếp sử dụng
đất, không phải ông K1 hay bà C. Nên việc ông K2 đăng ký kê khai chủ sử dụng
đất trong sổ mục đất, người trực tiếp sử dụng đất tại thời điểm cấp giấy
không phát sinh tranh chấp với ai được Hội đồng đăng đất đai X xác
nhận tại thời điểm đăng đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nên việc ông K2 được cấp giấy là phù hợp với quy định tại Điều 2 và Điều 36
Luật đất đai năm 1993.
[2.2.3] Ngoài ra, Q cho rằng vào năm 1998 khi giữa Q ông K tranh
chấp ranh đất là con mương (tại vị trí IV) tUBND huyện L đã giải quyết tranh
chấp giữa Q ông K, Qua xem xét Quyết định số 278/1998.Q Đ.Ct.UBH
ngày 15/6/1998 của UBND huyện L thể hiện rỏ phần đất của ông K giáp với
phần đất ông T2 (cha bà Q) không thể hiện giáp với đất của bà Q và tại biên bản
ghi lời khai của Tòa án ông K cũng xác định tranh chấp phần đất của ông T2
không phải của Q, vậy việc Q cho rằng Q người quản các phần
đất của ông T2 chết để lại khi tranh chấp UBND huyện giải quyết đất của
Q là không đúng thực tế. Bên cạnh đó, qua biên bản xác minh của Tòa án thể hiện
ông N3, ông D5, ông Ú đều cho rằng phần đất của ông T2 đưa vào tập đoàn
bà Q là người nhận lại đất gốc khi tập đoàn T8 rả, tuy nhiên ông N3, ông D5, ông
Ú không ai biết khi nhận lại đất gốc của gia đình thì bà Q các anh chị em của
bà đã thỏa thuận phân chia thế nào và Q được giao quyền sở hữu hay định
đoạt các phần đất này hay không.
[2.2.4] Bà Q và ông N cất nhà ở trên phần đất tại thửa 384 (vị trí III) cũng là
đất gốc của ông T2, phần đất này theo lược đồ thể hiện nằm liền kề giáp ranh với
phần đất tranh chấp và theo bà Q cung cấp thì phần đất tại thửa 384, thưa 390
một số phần đất khác của ông T2, bà Q đã thực hiện thủ tục kê khai đăng ký chủ
sở hữu trong sổ mục kê, cùng một quyển sổ với ông Văn K2 đã đăng
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1995, bà Q được cấp giấy
quyền sử dụng đất trước thời điểm ông K2 được cấp giấy, như vậy cho thấy vào
thời điểm bà Q khai đăng đất trong smục kê đất chị em Q đã thực
hiện phân chia đất các phần đất của ông T2 để lại trong đó ông K2, còn việc
bà Q nại ra do bà không kê khai đăng ký phần đất này là để dành phân chia cho
con cháu là không phù hợp với các quy định pháp luật và lẻ tự nhiên, bởi vì bà Q
không chứng cứ chứng minh khi ông T2 chết để lại di chúc hay văn bản
phân chia thừa kế, tặng cho hay giao quyền định đoạt các phần đất của ông T2
cho bà Q n việc định đoạt phân chia đất đai cho ai thì phải do các hàng thừa kế
của ông T2 quyết định không chỉ riêng bà Q, trong khi đó ông K2 là con ruột ông
T2 cũng một trong các hàng thừa kế thứ nhất của ông T2 cũng có quyền quản
tài sản thừa kế của ông T2 giống như Q. vậy, Q trình bày phần đất
tranh chấp thuộc quyền sở hữu của bà Q là không có căn cứ.
12
[2.4] Xét đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông
Nguyễn Văn Dông Lê Văn K2:
Như đã phân tích tại mục [2.2.2] thì việc ông K2 được cấp giấy phù hợp
với quy định tại Điều 2 Điều 36 Luật đất đai năm 1993. Ông K2 chuyển nhượng
cho vợ chồng ông D năm 2017, thông qua người giới thiệu là ông Nguyễn Trí N.
Ông N còn người tên chứng kiến trong giấy tay sang bán của hai bên, còn
đối với Q thì khi biết ông D chuyển nhượng đất thì giữa Q ông K2
xảy ra cải vã, nhưng Q không ngăn cản khi hai bên thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng không gởi đơn yêu cầu đến hội đồng hòa giải của ấp hoặc để giải
quyết tranh chấp mà lại trình báo sự việc với bà Nguyễn Thị T3 cán bộ phụ nữ ấp
không đảm bảo quy định pháp luật bà T3 không phải người thẩm quyền
giải quyền được giao phụ trách giải quyết tranh chấp đất đai địa phương, nên
việc Q ông N cho rằng lúc ông D chuyển nhượng đất, Q các chị em
của bà là bà H1, bà Đ có ngăn cản nhưng không có chứng chứng cứ chứng minh.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Ông K2 ông D được
thực hiện ngày 20/10/2017 trên cơ sở ý chí tự nguyện của các bên, không vi phạm
các điều cấm của phát luật, khi thực hiện chuyển nhượng ông K2 chủ sở hữu
hợp pháp của phần đất này, ông D đã giao đủ tiền, ông K2 đã giao đất nên hợp
đồng chuyển nhượng đã thực hiện hoàn toàn, ông D được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng đất ông D, bà H và ông K2
đủ các điều kiện hiệu lực của hợp đồng theo quy định tại Điều 117 Điều 502
Bộ luật dân sự 2015. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Nguyễn Văn D, buộc bị đơn Thị Q ông Nguyễn Trí N
trả lại cho ông D, H phần đất theo đo đạc thực tế diện tích 2.767,9m
2
tại thửa
414 414A; Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Q về việc yêu cầu hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông K2ông D, yêu cầu ng
nhận quyền sử dụng đất phần đất tại thửa 414 và 414A là có căn cứ.
[2.5]. Đối với phần cây trồng và công trình xây dựng trên đất do Q ông
N trồng xây dựng sau khi ông D nhận chuyển nhượng đất của ông K2 do
ông N trồng thêm sau khi Tòa án thẩm định đất tranh chấp tài sản trên đất ngày
13/12/2023. Do đó, Tòa án cấp thẩm buộc ông N bà Q có trách nhiệm di dời
toàn bộ cây trồng và công trình xây dựng trên đất để trả lại đất cho ông D là phù
hợp.
Từ những phân tích trên, xét thấy các bị đơn kháng cáo nhưng không cung
cấp được tài liệu chứng cứ mới có giá trị pháp nên không có sở để chấp
nhận.
[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp với các quy
định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.
13
[4] Án phí phúc thẩm: Các bị đơn người cao tuổi, đơn xin miễn tiền tạm
ứng án phí, án phí nên được miễn theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 36 Luật đất đai
năm 1995; Điều 500 và Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 100, Điều 167,
Điều 188 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Nguyễn Trí NLê Thị Qui .
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn D đối
với bị đơn bà Lê Thị Q và ông Nguyễn Trí N về việc đòi lại phần đất bị chiếm.
2. Buộc bị đơn Thị Q ông Nguyễn Trí N giao trả lại cho ông
Nguyễn Văn D Trương Thị H phần đất theo đo đạc thực tế tại vị trí I diện
tích 2.154,2m
2
, vị trí II diện tích 205,5m
2
, vị trí V diện tích 110,9m
2
, vị trí VI diện
tích 297,3m
2
. Tổng diện tích 2.767,9m
2
tại thửa 414 loại đất CLN và thửa 414A
loại đất ONT, tờ bản đồ số 7 đất tọa lạc tại ấp G, xã X, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
thuộc giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CS03409 do UBND huyện L cấp
vào ngày 07/11/2017 cho ông Nguyễn Văn D và bà Trương Thị H.
(Kèm theo mảnh trích đo địa chính số 44/SHC ngày 02/4/2025 của Công ty
Cổ phần Đ2).
Buộc bị đơn bà Thị Q và ông Nguyễn Trí N trách nhiệm di dời toàn
bộ cây trồng công trình xây dựng do ông N, Q trồng và xây dựng trên đất,
để trả lại đất cho ông Nguyễn Văn D.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị Q đối với nguyên
đơn ông Nguyễn Văn D về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 20/10/2017 giữa ông Nguyễn Văn D, Trương Thị Hông
Văn K2 và công nhận quyền sử dụng phần đất tranh chấp cho bà Lê Thị Qui .
4. Về án phí và chi phí tố tụng khác:
- Về án pdân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Lê Thị Q ông Nguyễn Trí N được
miễn toàn bộ án phí. Nguyên đơn ông Nguyễn Văn D được nhận lại 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0006986 phiếu
lập ngày 08/6/2023 của Chi cục thi hành án dân shuyện Long Mỹ, tỉnh Hậu
Giang.
- Về chi phí tố tụng khác: Bị đơn ông Nguyễn Trí N Thị Q trách
nhiệm nộp toàn bộ chi phí đo đạc thẩm định, định giá, trích lục hồvới số tiền
14
là: 22.068.000 đồng (hai mươi hai triệu không trăm sáu mươi tám nghìn đồng),
ông Nguyễn Trí N Lê Thị Q đã nộp số tiền 4.800.000 đồng (bốn triệu tám
trăm nghìn đồng), như vậy, bị đơn ông Nguyễn Trí N Lê Thị Q còn phải
tiếp tục nộp số tiền 17.268.000 đồng (mười bảy triệu hai trăm sáu mươi tám nghìn
đồng) để hoàn trả lại cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn D.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn Thị Q và ông Nguyễn Trí N
được miễn toàn bộ án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành
án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Các phần nhận định quyết định khác của bản án thẩm, cụ thể: Đình
chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bị đơn bà Thị Q đối với nguyên đơn ông
Nguyễn Văn D về việc yêu cầu mlối đi qua bất động sản liền kề. Dành quyền
khởi kiện cho bà Thị Q đối với ông Nguyễn Văn D về việc yêu cầu mở lối đi
qua bất động sản liền kề theo quy định pháp luật; Dành quyền khởi kiện cho
Trần Thị A đối với ông Nguyễn Văn D đối với phần ranh mốc giới giữa các
bất động sản của hai bên thành vụ kiện khác theo quy định nếu bà Tú A và ông D
phát sinh tranh chấp, có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết kháng cáo, kháng
nghị.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Cần Thơ;
- TAND khu vực 12 – Cần Thơ;
- Chi cục THADS khu vực 12– Cần Thơ;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
đã ký
Đào Thị Thủy
Bản án có hiệu lực kể từ ngày tuyên án, ngày 14 tháng 8 năm 2025.
Tải về
Bản án số 447/2025/DS-PT Bản án số 447/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 447/2025/DS-PT Bản án số 447/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất