Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 29/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 195/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 29/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 195/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Ngô Đức D, bà Võ Thị Hồng L và vợ chồng ông Hoàng Văn T1, bà Nguyễn Thị M, giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số 05/2025/DS-ST ngày 24/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lâm Đồng).
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 195/2025/DS-PT
Ngày: 29-8-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phn Hội đng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Vân
Ông Nguyễn Thành Tâm
- Thư phiên toà: Ông Nguyễn Đạt Nguyên Thư Tòa án, Toà án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Nguyễn Thị Thu
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 29 tháng 8 năm 2025 tại trụ sToà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 158/2025/TLPT-DS ngày 28 tháng 7 năm
2025 về tranh chấp:“Yêu cầu chuyển giao nghĩa vụ; Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án Dân sự thẩm số 05/2025/DS-ST ngày 24/3/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng (nay Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Lâm Đồng) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 320/2025/QĐ-PT ngày 08
tháng 8 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 232/2025/QĐ-PT ngày
25 tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Vợ chồng ông Ngô Đức D, sinh năm: 1967, Thị Hồng
L, sinh năm: 1973; cư trú tại thôn T, xã Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Anh Phan T, sinh năm: 2000; địa chỉ liên hệ: G,
khu Q, phường X - Đ, tỉnh Lâm Đồng, người đại diện theo y quyền (Văn bản
ủy quyền số 002455, quyển số 05/2024TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C1
chưng nhận ngày 24/5/2024); có mặt.
- Bị đơn: Vợ chồng ông Hoàng Văn T1, sinh năm: 1970, bà Nguyễn Thị M,
sinh năm: 1973; cư trú tại thôn T, xã Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
2
Người đại diện hợp pháp: Ông Hoàng Văn C, sinh năm: 1996; ông Trần Quốc
D1, sinh năm: 1999; địa chỉ liên hệ: số G, đường H, xã Đ, tỉnh Lâm Đồng, là người
đại diện theo y quyền (Văn bản ủy quyền số 7040, quyển số 01/2024TP/CC-
SCC/HĐGD do Văn phòng C2 chứng nhận ngày 24/12/2024); ông C mặt, ông
D1 vắng mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thị L1, sinh năm: 1955;
cư trú tại thôn C, xã Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
- Người kháng cáo:
+ Vợ chồng ông Ngô Đức D, Võ Thị Hồng L Nguyên đơn.
+ Vợ chồng ông Hoàng Văn T1, bà Nguyễn Thị M Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 24/11/2023, đơn sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện ngày 15/01/2024 của vợ chồng ông Ngô Đức D, Thị Hồng L, lời
trình bày tại các bản tự khai trong quá trình tham gia tố tụng của anh Phan T,
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, thì: Ngày 24/12/2012 vợ chồng ông
Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M vay của vợ chồng ông D, bà L 1.300kg
phê nhân, tổng giá trị là 50.000.000đ, thời hạn vay là 01 năm kể từ ngày vay. Ngày
22/01/2016 vợ chồng ông T1, Minh xác Đ không khả năng chi trả nên đã tự
nguyện cam kết sang tên cho vợ chồng ông D, L diện tích đất 500m
2
(chiều
ngang 05 mét, chiều dài 100 mét) tại thôn T, P, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng theo
đơn chuyển giao đất theo cam kết do vợ chồng ông T1, bà M cùng ký tên xác nhận.
Vợ chồng ông D, L đã nhận đất trên thực địa, cắm mốc xác định ranh giới. Tại
thời điểm lập giấy sự chứng kiến của ông Khuất Duy A, ông Mai Văn Đ1. Tuy
nhiên sau khi giao đất cho vợ chồng ông D, L thì vchồng ông T1, M tiếp
tục dùng thửa đất trên để đi khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện
nay phần đất này đã được đứng tên vợ chồng ông T1, M. Sau khi phát hiện sự
việc trên vợ chồng ông D, bà L đã yêu cầu bị đơn sang tên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho vợ chồng ông, để đảm bảo quyền sử dụng đất của nguyên đơn
theo quy định nhưngvợ chồng ông T1, M không thực hiện, cứ hẹn hết lần này
đến lần khác.
vậy, nay vợ chồng ông D, L yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vchồng
ông T1, bà M giao diện tích đất 500m
2
(05m x100m) tại thôn T, xã P, huyện Đ cho
nguyên đơn theo cam kết được lập ngày 22/01/2016 giữa hai bên, thực hiện thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với đất nêu trên cho vợ chồng ông D,
L theo quy định của pháp luật.
- Theo lời trình bày của vợ chồng ông Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M thì:
Việc vay phê cam kết sang tên 05m đất cho vchồng ông D, L có, tuy
nhiên việc vay phê do vchồng ông, bà vay giúp chị gái của ông T1
Hoàng Thị L1, lúc đó ông T1 cùng L1 vào sổ của vợ chồng ông D, L,
3
thời hạn vay chỉ khoảng 04 tháng chứ không đến 01 năm. Khi đến hạn thì L1
chưa khả năng để trả, khi L1 mang tiền đến trả cho vợ chồng ông D, L
nhưng do không đủ nên nguyên đơn không nhận, còn vợ chồng ông T1, bà M cũng
khó khăn nên đã đồng ý viết giấy chuyển giao đất với vợ chồng ông D, L với
diện tích 05m x 100m tọa lạc tại thôn T, P. Mục đích của việc viết giấy này là
để làm tin cũng như thúc giục phía L1 trả ncho nguyên đơn, việc vợ chồng
ông D, L cho rằng vợ chồng ông, đã giao đất và cắm mốc trên thực tế
không đúng.
Tại thời điểm xác lập “Đơn chuyển giao đất theo cam kết” ngày 22/01/2016
thì chỉ có vợ chồng ông D, bà L, vợ chồng ông, bà và ông Nguyễn Văn X, giấy này
do ông Nguyễn Văn X trực tiếp viết chứ không mặt ông Khuất Duy A Mãi
Văn Đ2 như tài liệu chứng cứ do vợ chồng ông D, bà L giao nộp cho Tòa án.
Nay vợ chồng ông D, L yêu cầu vợ chồng ông, phải giao diện tích đất
500m
2
(05m x100m) tại thôn T, P, huyện Đ cho nguyên đơn theo cam kết được
lập ngày 22/01/2016 giữa nguyên đơn với vợ chồng ông, bà, thực hiện thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với lô đất có diện tích nêu trên cho theo quy
định của pháp luật cho thì vợ chồng ông, không đồng ý; chỉ đồng ý trả cho vợ
chồng ông D, bà L số tiền gốc là 50.000.000đ và tiền lãi phát sinh theo quy định.
- Theo lời trình bày của ông Hoàng Văn C, người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn, thì: ông T1 Hoàng Thị L1 có quan hệ chị em với nhau, ngày
24/12/2012 (âm lịch), L1 nhờ vợ chồng bị đơn vay của vợ chồng ông D, L
1.300kg cà phê nhân, thành tiền 50.000.000đ với lãi suất 3%/tháng, 03 tháng trả
lãi 01 lần. Năm 2016 L1 đã trả cho vợ chồng ông D, L 60.000.000đ tiền lãi,
còn lại 50.000.000đ tiền gốc chưa trả được. Vì đứng tên vay và thời hạn vay đã hết
nên vợ chồng ông D, L đã yêu cầu vợ chồng ông T1, bà M lập 01 đơn chuyển
giao đất theo cam kết với nội dung thỏa thuận giao cho vợ chồng ông D, L diện
tích đất chiều rộng 05m mặt đường sâu 100m, tổng diện tích 500m
2
để làm
tin, phần này bị đơn vẫn quản lý, sử dụng, chưa chuyển giao cho ai. Do vậy bị đơn
yêu cầu phản tố, đề nghị tuyên đơn giao đất theo cam kết lập ngày 22/01/2016
giữa bị đơn nguyên đơn hiệu do giả tạo; tuyên buộc Hoàng Thị L1
trách nhiệm trả cho vợ chồng nguyên đơn 50.000.000đ và lãi suất phát sinh từ ngày
22/01/2016 đến ngày xét xử.
- Hoàng Thị L1 thống nhất với ý kiến của ông Hoàng Văn T1, không ý
kiến gì bổ sung.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 05/2025/DS-ST ngày 24/3/2025; Tòa án nhân dân huyện Đam
Rông, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lâm Đồng) đã xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn vợ chồng ông Ngô Đức D,
Thị Hồng L về việc công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(dưới dạng Đơn chuyển giao đất theo cam kết ngày 22/01/2016) về việc chuyển
4
nhượng lô đất kích thước khoảng 5 mét chiều ngang, chiều sâu khoảng 100 mét
tại thôn T, P, huyện Đ cũng như buộc ông T1, M giao diện tích đất 500m
2
(5m x100m) tại thôn T, xã P, huyện Đ cho ông D, bà L theo cam kết được lập ngày
22/01/2016 giữa ông D, L với ông Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M, thực hiện
thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với đất diện tích nêu trên cho
ông Ngô Đức D, Võ Thị Hồng L theo quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn vợ chồng ông Hoàng Văn T1,
Nguyễn Thị M về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (dưới
dạng Đơn chuyển giao đất theo cam kết ngày 22/01/2016) vô hiệu do giả tạo.
3. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (dưới dạng Đơn
chuyển giao đất theo cam kết ngày 22/01/2016) hiệu do vi phạm điều cấm
của luật và vi phạm về hình thức của giao dịch dân sự.
4. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về việc giải quyết hậu quả
hợp đồng hiệu, buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền
50.000.000đ tiền chuyển nhượng đất và 568.905.265đ tiền chênh lệch giá trị quyền
sử dụng đất, tổng cộng là 618.905.265đ.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về chi phí tố tụng án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các bên đương sự.
Ngày 24/3/2025 ông Hoàng Văn C, người đại diện theo ủy quyền của vợ
chồng ông Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M, có đơn kháng cáo không đồng ý với
toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Ngày 02/4/2025 vợ chồng ông D, L đơn kháng cáo đề nghị hủy hoặc
sửa Bản án thẩm theo hướng buộc vợ chồng ông T1, M thanh toán số tiền
1.305.286.29 tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất đối với diện ch đất
500m
2
tại thôn T, xã Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Tại phiên tòa,
Ông Hoàng Văn C, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác định kháng
cáo yêu cầu hủy toàn bộ Bản án thẩm do Tòa án cấp thẩm vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng; ngoài ra không có yêu cầu nào khác.
Anh Phan T, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, vẫn ginguyên
kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Về nội dung: Đề nghị sửa Bản án
thẩm theo hướng buộc bị đơn nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn số tiền vay
gốc là 50.000.000đ và tiền lãi suất theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của vợ chồng ông D, bà L và của
ông Hoàng Văn C, người đại diện theo ủy quyền của vợ chồng ông T1, bà M, được
thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự
năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của vợ chồng ông D, bà L của ông Hoàng Văn C, người
đại diện theo ủy quyền của vợ chồng ông T1, bà M thì thấy rằng:
[2.1] Theo hồ sơ thể hiện: xuất phát từ việc vào năm 2012 bà Hoàng Thị L1
chị của ông Hoàng Văn T1 cần vay tiền nên vợ chồng ông T1, M đã đứng ra
vay của vợ chồng ông D, bà L 1.300kg cà phê nhân tương ứng với số tiền
50.000.000đ; thời hạn vay 01 tháng tuy nhiên L1 không trả được. Do đứng tên
vay thời hạn vay đã hết nên ngày 22/01/2016 vchồng ông T1, M đã lập
“Đơn chuyển giao đất theo cam kết” với nội dung thỏa thuận giao cho vợ chồng
ông D, L được quyền sử dụng diện tích đất chiều rộng 05m mặt đường x
chiều sâu 100m, tổng diện tích 500m
2
, đất này tọa lạc tại thôn T, P, huyện Đ để
cấn trừ đối với khoản nợ nói trên.
[2.2] Qua xem xét nội dung “Đơn chuyển giao đất theo cam kết” ngày
22/01/2016 thì thấy rằng vợ chồng ông T1, bà Minh xác Đ đối với khoản nợ
50.000.000đ nói trên thì khi đến thời hạn bên vay không điều kiện chi trả nên
thỏa thuận cấn trừ bằng lô đất chiều ngang mặt đường 05m, chiều sâu 100m;
diện tích 500m
2
; kể từ ngày thỏa thuận thì hai bên cắm mốc ranh giới giữa hai bên
gia đình. Như vậy, nội dung “Đơn chuyển giao đất theo cam kết” ngày 22/01/2016
được lập với mục đích ràng thay thế nghĩa vụ trả nợ bằng quyền sdụng đất,
không nhằm che giấu hợp đồng vay. Khoản vay được phát sinh tnăm 2012 đến
năm 2016, chính bị đơn xác nhận không khả năng trả tự nguyện lập văn bản
cam kết giao đất. Tại thời điểm giao kết thì vợ chồng bị đơn đầy đủ năng lực
hành vi dân snên phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình. vậy không
thể xem đây là giao dịch giả tạo để che dấu một giao dịch khác.
Bên cạnh đó, tại phiên tòa hôm nay, tại phần hỏi thì người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn đề nghị cho định giá lại tài sản tranh chấp do kết quả định giá tại
cấp sơ thẩm là quá cao, điều này mâu thuẫn với lời trình bày trước đó bởi lẽ nếu
bị đơn cho rằng giao dịch nói trên chỉ giả tạo để che dấu cho việc vay tiền thì
không cần phải đề nghị thẩm định giá lại để xem xét nghĩa vụ hoàn trả lại của bị
đơn mà chỉ cần tính lãi mà bị đơn phải chịu là phù hợp.
Do đó, căn cứ để xác định bị đơn tnguyện cấn trừ khoản nợ o việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên số tiền vay vào năm 2012 đã được các bên
thỏa thuận thành tiền chuyển nhượng chứ không phải dùng đất này thực hiện
việc cầm cố hay thế chấp để đảm bảo cho số tiền đã vay nói trên và việc thỏa thuận
này không nhằm mục đích che dấu giao dịch vay tài sản trước đó.
6
[2.3] Quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn xuất trình “Giấy xin chuộc lại
đất” ghi ngày 30/4/2016 (bản phô tô) để xác định sau khi các n lập “Đơn chuyển
giao đất theo cam kết” nói trên tphía Hoàng Thị L1 đã trả tiền đặt cọc
50.000.000đ để chuộc lại đất và hẹn đến ngày 30/4/2017 sẽ trả hết số tiền còn lại là
60.000.000đ. Tuy nhiên qua xem xét nội dung của “Giấy xin chuộc lại đất” thì
không thể hiện việc đồng ý của nguyên đơn; hay việc thỏa thuận chuộc lại
đất này. Đồng thời, L1 cũng không xuất trình được các căn cứ để chứng minh
đã trả số tiền theo “Giấy xin chuộc lại đất” nói trên; nguyên đơn cũng không thừa
nhận đối với nội dung này nên không căn cứ để xem xét. Tuy vậy, việc các bên
giao kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất để cấn trừ nợ chỉ được lập bằng giấy
tay, không được quan thẩm quyền công chứng, chứng thực; tại thời điểm
kết, đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng; hơn nữa thửa đất các bên
thỏa thuận không đủ điều kiện tách thửa như các bên giao kết nên vi phạm quy
định bắt buộc vhình thức điều kiện chuyển nhượng. vậy, Tòa án cấp
thẩm tuyên giao dịch dân stheo “Đơn chuyển giao đất theo cam kết” hiệu do
vi phạm điều cấm của pháp luật là đúng quy định.
[2.4] Tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng
cấp thẩm vi phạm thủ tục tố tụng do nguyên đơn không yêu cầu giải quyết hậu
quả nhưng cấp sơ thẩm lại tuyên buộc bị đơn thanh toán lại cho nguyên đơn số tiền
trượt giá. Xét lời trình bày này không sở bởi lẽ nguyên đơn yêu cầu công
nhận hợp đồng, bị đơn không đồng ý do giao dịch nói trên giả tạo chứ không
phải nguyên đơn yêu cầu tuyên bố giao dịch Dân sự hiệu cả hai đều không
yêu cầu giải quyết hậu quả nên không thể xem việc giải quyết của cấp thẩm là
vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự được.
[2.5] Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Khi giao
dịch dân sự hiệu thì các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận, …, bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Xét về lỗi làm hợp đồng chuyển nhượng hiệu thì thấy rằng: Tòa án cấp
thẩm xác định lỗi của các bên là ngang nhau là phù hợp bởi lẽ tại thời điểm các bên
chuyển giao đất theo cam kết thì các bên đều biết phần diện tích đất này chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên các bên không thể thực hiện
việc chuyển nhượng đất theo đúng quy định của pháp luật được nên việc giao kết
này đã bị vô hiệu.
Như đã phân tích, số tiền nợ 50.000.000đ được các bên thỏa thuận cấn trừ thì
đã trở thành tiền chuyển nhượng, nên Tòa án cấp thẩm xác định phần đất các
bên thỏa thuận chuyển nhượng thuộc vị trí số (2) trên họa đồ diện ch 455m²,
giá trị 1.187.810.530đ, sau khi trừ số tiền vay 50.000.000đ đã được các bên
chuyển sang thành tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giá trị quyền sử dụng
đất còn lại là 1.137.810.530đ nên buộc bị đơn ngoài việc hoàn trả 50.000.000đ, còn
phải thanh toán cho nguyên đơn 50% chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất (tương
ứng 568.905.265đ) là có căn cứ.
7
vậy, việc nguyên đơn kháng cáo yêu cầu bị đơn phải thanh toán toàn bộ
100% giá trị quyền sử dụng đối với diện tích 500m² đất, tương đương
1.305.286.296đ việc bị đơn kháng cáo cho rằng giao dịch theo “Đơn chuyển
giao đất theo cam kết” là giả tạo là không có cơ sở.
[3] Từ những phân tích trên, vợ chồng ông D, bà L và vợ chồng ông T1, bà M
kháng cáo nhưng không xuất trình được các chứng cứ nào mới làm thay đổi nội
dung vụ án nên không căn cứ để chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông D,
L và của vợ chồng ông T1, bà M; giữ nguyên Bản án sơ thẩm là phù hợp.
[4] Về chi phí tố tụng: chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo vẽ thẩm định
giá tài sản tại giai đoạn thẩm 22.612.000đ (nguyên đơn đã tạm nộp được
quyết toán xong), do xác định cả nguyên đơn bị đơn đều lỗi nên cần buộc
mỗi bên phải chịu ½ chi phí nói trên là phù hợp. Bị đơn phải có trách nhiệm trả lại
số tiền nói trên cho nguyên đơn.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên vợ chồng ông D,
L và của vợ chồng ông T1, bà M phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm.
Bị đơn phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 157 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 137, 697, 698 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Căn cứ khoản 4 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Ngô Đức D, Thị Hồng
L vợ chồng ông Hoàng Văn T1, bà Nguyễn Thị M, giữ nguyên Bản án Dân sự
thẩm số 05/2025/DS-ST ngày 24/3/2025 của Tòa án nhân dân huyện Đam
Rông, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lâm Đồng).
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Ngô Đức D,
Thị Hồng L về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng (dưới
dạng Đơn chuyển giao đất theo cam kết ngày 22/01/2016) đất kích thước
khoảng 05m chiều ngang, chiều sâu khoảng 100m tại thôn T, xã P, huyện Đ (nay là
Đ, tỉnh Lâm Đồng) đối với vợ chồng ông Hoàng Văn T1, bà Nguyễn Thị M
cũng như buộc vợ chồng ông T1, M giao diện tích đất 500m
2
(05m x100m) tại
thôn T, P, huyện Đ (nay xã Đ, tỉnh Lâm Đồng) cho vợ chồng ông D, bà L
theo giấy cam kết được lập ngày 22/01/2016, thực hiện thủ tục chuyển nhượng
8
quyền sử dụng đất đối với đất diện tích nêu trên cho vợ chồng ông NĐức
D, bà Võ Thị Hồng L theo quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của vợ chồng ông Hoàng Văn T1,
Nguyễn Thị M về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất (dưới dạng Đơn chuyển giao đất theo cam kết ngày 22/01/2016) hiệu do
giả tạo.
3. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (dưới dạng Đơn
chuyển giao đất theo cam kết ngày 22/01/2016) là hiệu do vi phạm điều cấm
của luật và vi phạm về hình thức của giao dịch dân sự.
Buộc vợ chồng ông Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M phải thanh toán cho vợ
chồng ông Ngô Đức D, Thị Hồng L số tiền 618.905.265đ (sáu trăm mười
tám triệu chín trăm lẻ năm nghìn hai trăm sáu mươi lăm đồng), trong đó
50.000.000đ (năm ơi triệu) tiền chuyển nhượng đất 568.905.265đ (năm
trăm sáu mươi tám triệu chín trăm lẻ năm nghìn hai trăm sáu mươi lăm đồng)
tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất.
4. Về chi phí tố tụng: Buộc vợ chồng ông Ngô Đức D, Thị Hồng L
vợ chồng ông Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M mỗi bên phải chịu 11.306.000đ
chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo vẽ và thẩm định giá tài sản.
Buộc vợ chồng ông T1, M phải trả cho vợ chồng ông D, bà L 11.306.000đ
(mười ba triệu ba trăm lẻ sáu nghìn đồng).
5. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
+ Vợ chồng ông Ngô Đức D, Võ Thị Hồng L phải chịu 32.295.000đ án phí
Dân sự thẩm; được trừ vào số tiền 2.500.000đ tạm ứng án phí Dân sự thẩm
đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005286 ngày
15/01/2024 của Chi cục Thi hành án n sự huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng
(nay Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 - Lâm Đồng). Vợ chồng ông D, L
còn phải nộp 29.795.000đ án phí còn thiếu.
+ Vợ chồng ông Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M phải chịu 28.756.200đ án
phí Dân sự sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm:
+ Vợ chồng ông Ngô Đức D, Thị Hồng L phải chịu 600.000đ án phí
Dân sự phúc thẩm; được trừ vào stiền 600.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc
thẩm đã nộp theo các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000264 và số
0000265 ngày 24/4/2025 của Chi cục Thi hành án Dân shuyện Đam Rông, tỉnh
Lâm Đồng (nay Phòng Thi hành án dân sự khu vực 3 - Lâm Đồng). Vợ chồng
ông D, bà L đã nộp đủ án phí Dân sự phúc thẩm.
9
+ Vợ chồng ông Hoàng Văn T1, Nguyễn Thị M phải chịu 300.000đ án phí
Dân sự phúc thẩm; được trừ vào stiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc
thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000255 ngày
11/4/2025 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đamng, tỉnh Lâm Đồng (nay
Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 - Lâm Đồng). Vợ chồng ông T1, M đã
nộp đủ án phí Dân sự phúc thẩm.
6. Về nghĩa vụ thi hành án:
Kể từ ngày Bản án hiệu lực pháp luật kể từ ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với c khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng Gđ, Ktr, Ttr & THA (01)
- TAND khu vực 3 – Lâm Đồng (01);
- THADS tỉnh Lâm Đồng (01);
- Các đương sự (03);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 195/2025/DS-PT Bản án số 195/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 195/2025/DS-PT Bản án số 195/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất