Bản án số 285/2024/DS-PT ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về các yêu cầu dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 285/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 285/2024/DS-PT ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về các yêu cầu dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Quan hệ pháp luật: Các yêu cầu dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 285/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phan Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông P, chị H1, chị L, anh T, anh H2, anh T1 và anh T2 phải có nghĩa vụ dùng phần di sản của bà T3 trả cho bà H khoản nợ 700.000.000 đồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 285/2024/DS-PT
Ngày 10 - 9 - 2024
“V/v: Yêu cầu thực hiện nghĩa
vụ do người chết để lại”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đinh Thị Tuyết
Các Thẩm phán: Ông Trần Duy Tuấn và bà Lưu Thị Thu Hường
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Kim Duyên – Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Thị Bích Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 188/2024/TLPT-DS ngày 16 tháng 7
năm 2024, về “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại”. Do bản án dân sự
thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 16/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn,
tỉnh Đắk Lắk bị kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xsố: 217/2024/QĐ-PT, ngày 23/7/2024
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Phan Thị H, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1956.
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Số A, N, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1987.
2
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1989.
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1995.
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
Kháng o, Kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân n tỉnh Đắk Lắk
kháng nghị .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Phan Thị H trình
bày:
Do mối quan hệ quen biết nên tôi cho Trần Thị T3 (đã chết) vay nhiều
lần với tổng số tiền là 700.000.000 đồng (bảy trăm triệu đồng), cụ thể:
- Vào ngày 04/7/2022 (Âm lịch) tức ngày 01/8/2022 (Dương dịch) bà Trần
Thị T3 vay của tôi số tiền: 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) thời gian vay
04 tháng với lãi suất hai bên tự thỏa thuận là 1.5%/tháng.
- Vào ngày 22/7/2022 (Âm lịch) tức ngày 19/8/2022 (Dương lịch) T3 vay
số tiền: 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) thời gian vay 03 tháng hẹn trả vào
ngày 22/10/2022 (Âm lịch) với lãi suất hai bên tự thỏa thuận là 1.5%/tháng.
- Vào ngày 26/7/2022 (Âm lịch) tức ngày 23/9/2022 (Dương lịch) bà T3 vay
thêm số tiền: 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) thời gian vay 20 ngày hẹn trả
vào ngày 16/8/2022 (Âm lịch) với lãi suất hai bên tự thỏa thuận là 1.5%/tháng.
Tổng cộng 03 (ba) lần T3 vay H số tiền là: 700.000.000 đồng (bảy trăm
triệu đồng). Đến hạn trả nợ T3 không thực hiện trả nợ cho bà H. Đến ngày
21/12/2022 bà T3 chết. HiệnT3 đã chết nên ông P và các con của T3 phải
trách nhiệm liên đới trả cho bà H số tiền đã vay trên.
Được biết gia đình ông P 01 thửa đất số 852 (cũ 164a), tờ bản đồ số 10a,
diện tích 1605,5m
2
đứng tên hộ gia đình ông Nguyễn Văn P, địa chỉ thửa đất tại
thôn A, E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Đây tài sản chung của hộ gia đình ông P,
trong đó có phần của bà T3 chưa chia thừa kế.
Trần Thị T3 người trực tiếp vay tiền của H, nhưng theo quy định của
pháp luật dân sự thì những người hưởng thừa kế của T3 phải trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản nợ T3 chết để lại. vậy, yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn P và những người liên quan gồm anh T, anh
H2, anh T1, anh T2, chị H1 chị L những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất
3
của T3 phải trả cho H tổng số tiền vay gốc là: 700.000.000 đồng (bảy trăm
triệu đồng).
Về tiền lãi: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H2, ông
Nguyễn Văn T1, ông Nguyễn Văn T2 thống nhất trình bày: Chúng tôi con của
ông Nguyễn Văn P Trần Thị T3 (bà Trần Thị T3 chết năm 2022). Trước đây
Trần Thị T3 vay tiền của Phan Thị H như thế nào, vay số tiền bao nhiêu thì
chúng tôi không được biết chúng tôi cũng không vào giấy vay tiền của
Phan Thị H. Trần Thị T3 vay tiền của Phan Thị H để sử dụng vào mục đích
gì thì chúng tôi không biết và chúng tôi cũng không được sử dụng số tiền mà bà T3
vay của H. Hiện nay chúng tôi đã lập gia đình riêng, kinh tế không phụ thuộc và
không liên quan tới ông Nguyễn Văn P Trần Thị T3. Tài sản của ông
Nguyễn Văn P, bà Trần Thị T3 căn nhà và thửa đất số 852 (cũ là thửa đất số 164
a); Tờ bản đồ số 10a; Địa chỉ thửa đất tại thôn A, xã E, huyện B.
Tại Bản kết luận giám định số 247/KL-KTHS, ngày 21/02/2024 của Phòng K
Công an tỉnh Đ kết luận:“Chữ ký, chữ viết họ tên Trần Thị T3 dưới mục “Người
vay tiền” trên mẫu cần giám định kí hiệu A1, A2, A3 so với chữ ký, chữ viết htên
Trần Thị T3 trên mẫu so sánh ký hiệu M do cùng một người ký, viết ra”.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 22/4/2024 và biên bản định giá
tài sản ngày 22/4/2024 xác định như sau:
Quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất theo thửa đất số 852 (cũ thửa
164a); Tờ bản đồ số 10a; Diện tích 1.605,5m
2
. Địa chỉ thửa đất tại thôn A, E,
huyện B. Được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số K542570 ngày 10/12/1996 cho hộ ông Nguyễn Văn P.
Kết quả định giá tài sản đối với đất tài sản trên đất tổng giá trị:
483.818.000 đồng (Bốn trăm tám mươi ba triệu, tám trăm mười tám triệu đồng).
* Quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn P đã được T án triệu tập
nhưng đều vắng mặt không do, không hợp tác với Tòa án về việc giải quyết
vụ án, không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sthẩm số: 08/2024/DS-ST ngày 16/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Buôn Đôn đã quyết định:
Áp dụng Điều 429; Điều 463; khoản 1 Điều 466; Điều 468; Điều 615; khoản 3
Điều 623; Điều 651 Bộ Luật dân sự năm 2015.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phan
Thị H.
1. Buộc ông Nguyễn Văn P, chị Nguyễn Thị H1, chị Nguyễn Thị L, anh
Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn H2, anh Nguyễn Văn T1 anh Nguyễn Văn T2
phải nghĩa vụ dùng phần di sản của bà Trần Thị T3 trả cho Phan Thị H số
4
tiền nợ: 161.272.000 đồng (Một trăm sáu mươi mốt triệu, hai trăm bảy mươi hai
nghìn đồng).
Trong trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì kể tngày đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả
các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về tiền lãi: Nguyên đơn bà Phan Thị H không yêu cầu về tiền lãi nên không
xem xét giải quyết.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí
quyền kháng cáo.
Ngày 12/6/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nn dân tỉnh Đắk Lắk ban hành
Quyết định kháng nghị số 517/QĐ-VKS-DS, kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm
huỷ bản án thẩm chuyển hồ vụ án cho Toà án cấp cấp thẩm giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện. Đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk thay đổi một phần quyết định kháng nghị.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử,
Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk thay đổi nội dung kháng nghị
theo hướng sửa Bản án thẩm, buộc ông Nguyễn Văn P, chị Nguyễn Thị H1, ch
Nguyễn Thị L, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn H2, anh Nguyễn Văn T1
anh Nguyễn Văn T2 trả cho Phan Thị H số tiền 700.000.000đ (Bảy trăm triệu
đồng), trong phạm vi di sản do Trần Thị T3 chết để lại sửa phần án phí dân
sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ ván đã được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên sở xem xét đầy đủ các tài liệu
chứng cứ lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên:
[1] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk và
việc thay đổi nội dung kháng nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm, xét thấy:
Nguyên đơn bà Phan Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án cấp thẩm phải giải
quyết buộc ông P, chị H1, chị L, anh T, anh H2, anh T1 và anh T2 phải có nghĩa vụ
dùng phần di sản của T3 trả cho H khoản nợ 700.000.000 đồng, nhưng Tòa
án cấp sơ thẩm lại xem xét thẩm định, định giá thửa đất số 852 (cũ 164a), tờ bản đồ
số 10a, diện tích 1605,5m
2
giá trị 483.818.000 đồng, chia ra kỷ phần cho T3
5
là 161.272.000 đồng để buộc các hàng thừa kết thứ nhất phải có nghĩa vụ trả cho bà
H, stiền ncòn lại 538.728.000 đồng không đề cập xem xét giải quyết chấp nhận
hay không chấp nhận là giải quyết chưa hết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Xét thấy, tại Bản kết luận giám định số 247/KL-KTHS, ngày 21/02/2024 của
Phòng K Công an tỉnh Đ kết luận:“Chữ ký, chữ viết họ tên Trần Thị T3 dưới mục
“Người vay tiền” trên mẫu cần giám định hiệu A1, A2, A3 so với chứ , chữ
viết họ tên Trần Thị T3 trên mẫu so sánh ký hiệu M do cùng một người ký, viết ra”.
Như vậy, đủ căn cứ xác định bà Trần Thị T3 vay Phan Thị H tổng số tiền
700.000.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng) trong thời kỳ hôn nhân giữa bà T3 với ông
P. Hợp đồng vay được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, không trái với đạo đức,
hội. Đến thời hạn trả nợ Trần Thị T3 chưa trả nợ cho Phan Thị H vi
phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân
sự năm 2015. Nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn căn cứ. Tòa án cấp
thẩm căn cứ việc xem xét thẩm định, định giá thửa đất s852 (cũ 164a), tờ bản đồ
số 10a, diện tích 1605,5m
2
để buộc các hàng thừa kết thứ nhất phải nghĩa vụ trả
cho H 161.272.000 đồng chưa xem xét hết yêu cầu khởi kiện làm ảnh hưởng
đến quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của bà H buộc các hàng thừa kế thứ nhất phải có nghĩa vụ trả cho bà H số
tiền 700.000.000 đồng. Trường hợp di sản của Trần Thị T3 để lại trong giai
đoạn thi hành án gtrị thấp hơn nghĩa vụ trả nợ cho Phan Thị H thì ông
Nguyễn n P, chị Nguyễn Thị H1, chị Nguyễn Thị L, anh Nguyễn Văn T, anh
Nguyễn Văn H2, anh Nguyễn Văn T1 anh Nguyễn Văn T2 không trách
nhiệm trả phần chênh lệch nợ còn thiếu của bà Trần Thị T3 cho bà Phan Thị H. Do
đó, căn cứ chấp nhận sửa đổi kháng nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng như đã phân tích nêu trên.
[2] Về án phí dân sự thẩm: Do thực hiện nghĩa vụ do Trần Thị T3 chết
để lại nên án phí được xác định trong phần di sản của Trần Thị T3 để lại, nên
cần buộc bị đơn ông Nguyễn Văn P, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị
Nguyễn Thị H1, chị Nguyễn Thị L, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn H2, anh
Nguyễn Văn T1 anh Nguyễn Văn T2 phải chịu 32.000.000 đồng án phí dân sự
sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
6
Chấp nhận thay đổi nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk. Sửa bản án dân sự thẩm s08/2024/DS-ST ngày 16/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Điều luật áp dụng: Áp dụng Điều 429; Điều 463; khoản 1 Điều 466; Điều
468; Điều 615; khoản 3 Điều 623; Điều 651 Bộ Luật dân sự năm 2015. Căn cứ
Điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
[3]. Tuyên xử:
[3.1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơnPhan Thị H.
Buộc ông Nguyễn Văn P, chị Nguyễn Thị H1, chị Nguyễn Thị L, anh Nguyễn
Văn T, anh Nguyễn Văn H2, anh Nguyễn Văn T1 anh Nguyễn Văn T2 trả cho
Phan Thị H stiền 700.000.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng), trong phạm vi di
sản do bà Trần Thị T3 chết để lại.
Trường hợp di sản của bà Trần Thị T3 để lại trong giai đoạn thi hành án có giá
trị thấp hơn nghĩa vụ trả ncho Phan Thị H thì ông Nguyễn Văn P, chị Nguyễn
Thị H1, chị Nguyễn Thị L, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn H2, anh Nguyễn
Văn T1 và anh Nguyễn Văn T2 không trách nhiệm trả phần chênh lệch ncòn
thiếu của bà Trần Thị T3 cho bà Phan Thị H.
Trong trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì kể tngày đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả
các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền n phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015 (bên phải thi hành án phải chịu khoản lãi trong phạm vi
di sản do bà Trần Thị T3 để lại).
[3.2]. Về án phí:
[3.2.1]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Văn P, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị H1, chị Nguyễn Thị L, anh Nguyễn Văn T,
anh Nguyễn Văn H2, anh Nguyễn Văn T1 và anh Nguyễn Văn T2 phải chịu
32.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Trả lại bà Phan Thị H số tiền 16.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại
Chi cục thi hành án dân sự huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu số
0019400 ngày 19/10/2023.
[3.2.2]. Về án pdân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
7
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
[5]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND H. Buôn Đôn;
- Chi cục THADS H. Buôn Đôn;
- Đương sự;
- Cổng thông tin điện tử TA;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Thị Tuyết
8
Tải về
Bản án số 285/2024/DS-PT Bản án số 285/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 285/2024/DS-PT Bản án số 285/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất