Bản án số 225/2024/DS-PT ngày 23/07/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về các yêu cầu dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 225/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 225/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 225/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 225/2024/DS-PT ngày 23/07/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về các yêu cầu dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Các yêu cầu dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 225/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà X có rẫy vẫn đi qua nhờ đất rẫy của ông N1 và bà N2 khi bị rào lại bà X kiệnmở lối đi qua bất động sản liền kề |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 225/2024/DS-PT
Ngày: 23 – 7 – 2024
V/v: Tranh chấp về yêu cầu mở lối
đi qua bất động sản liền kề
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Đình Triết
Các Thẩm phán: Bà Đinh Thị Tuyết, bà Nguyễn Thị Thu Trang.
- Thư ký phiên tòa:
Bà Đỗ Thị Minh Chi – Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà: Bà Trần
Thị Xuân Linh Byă – Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 154/2024/TLPT-DS ngày 13/6/2024 về
việc “Tranh chấp về yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề”
.
Do Bản án dân sự
sơ thẩm số 13a/2023/DS-ST ngày 08/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2024/QĐPT-
DS ngày 26 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị X, sinh năm 1973; Địa chỉ: Thôn 1B, xã C1, huyện
C2, tỉnh Đắk Lắk; (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn
L – Công ty luật TNHH MTV T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ: Số 20
T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1962 (có mặt) và bà Nguyễn Thị N2,
sinh năm 1964 (có mặt); Cùng địa chỉ: Thôn 1B, xã C1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Vũ Trọng T – Văn
phòng luật T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ: Số 81/6 G, tổ dân phố S,
phưng T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt)
- Người làm chứng:
+ Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1958; Địa chỉ: Thôn B, xã E, huyện C2, tỉnh
Đắk Lắk; (vắng mặt)
2
+ Ông Nguyễn Văn T2; Địa chỉ: Thôn 1A, xã C1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. (vắng
mặt)
* Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị N2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Lê Thị X trình bày:
Thửa đất số 136, t bản đồ số 10, diện tích 3940 m
2
tại thôn 1C, xã C1, huyện
C2 trước đây là của ông Nguyễn Văn T2, sau đó chuyển nhượng cho Nguyễn Văn T1.
Đến năm 2013, bà X nhận chuyển nhượng lại của ông T1, khi nhận chuyển nhượng
thì thấy ông T1 vẫn đi lại trên con đưng đất rộng 3m, dài 37,9m để vẩn chuyển vật
tư và chăm sóc cà phê trên thửa đất. Sau khi chuyển nhượng, gia đình bà X vẫn tiếp
tục sử dụng con đưng cho đến tháng 4/2023 thì gia đình ông N1, bà N2 đã trồng cà
phê trên đó và không cho gia đình bà X đi trên con đưng này để vào thửa đất canh
tác nữa. Ông N1, bà N2 cho rằng con đưng này nằm trong thửa đất 635 do ông N1
quản lý và sử dụng, con đưng là do gia đình ông N1 tự mở để đi lại và trước đây ông
T1 đi nh trên con đưng này. Tuy nhiên, bà X được biết trước đây ông T1 đã đổi cho
gia đình ông N1 01 hàng cà phê để lấy con đưng đi lại nên diện tích đất làm đưng
này là do ông T1 đổi đất với ông N1 mà có. Nay ông N1 không cho đi nh thì bà X
không có con đưng nào khác để đi vào chăm sóc vưn cây nên bà X đã khởi kiện
yêu cầu Toà án buộc ông N1 và bà N2 nhổ cây cà phê đã trồng và dành cho gia đình
bà X một lối đi như hiện trạng con đưng trước đây để đi lại.
Bị đơn ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 thống nhất trình bày:
Thửa đất số 635, t bản đồ số 10 diện tích 1163 m
2
là do gia đình ông N1 khai
hoang vào năm 1992, đến năm 1994 thì gia đình có trồng cà phê. Khoảng năm 1996,
thì gia đình được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên. Đối
với con đưng mà bà X đang tranh chấp là do gia đình ông N1 tự mở để vận chuyển
vật tư và chăm sóc vưn cây từ năm 1994. Khi gia đình ông T2 canh tác trên thửa đất
số 136, t bản đồ số 10, diện tích 3940 m
2
thì không đi lại trên con đưng này mà đi
tắt qua thửa đất số 299 của em gái ông T2. Đến thi gian ông T1 chăm sóc vưn cây
thì có đi nh trên con đưng này của gia đình tôi. Đến năm 2013, bà X nhận chuyển
nhượng lại của ông T1 cũng đi nh trên con đưng này. Đến tháng 4 năm 2023, gia
đình ông N1 không sử dụng con đưng này nữa, nên đã trồng thêm cây cà phê, sầu
riêng để mở rộng diện tích đất. Tại phiên toà, ông N1 bổ sung ý kiến Toà án cấp sơ
thẩm chưa đưa các con của ông tham gia tố tụng và chưa ghi nhận đúng số cây ông
3
trồng trên đất và bỏ sót tài sản là lưới B40 ông rào trên con đưng đi. Do vậy, ông
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà X và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
chấp nhận toàn bộ đơn kháng cáo của ông.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn T1 trình bày:
Ông không có mối quan hệ thân thiết gì với nguyên đơn và bị đơn. Trước đây,
ông T1 có mua của ông Nguyễn Văn T2 thửa đất số 136, t bản đồ số 10, diện tích
3.940m
2
tại thôn 1C, xã C1, huyện C2. Khi nhận chuyển nhượng đất thì ông T1 đã
thấy ông N1, bà N2 có mở một lối đi nhỏ trên thửa đất số 635, t bản đồ số 10 của gia
đình ông N1 để phục vụ canh tác. Do ông T1 không nói gì đến lối đi vào thửa đất số
136 và ông T1 đã thấy có sẵn lối đi nên đã xin phép gia đình ông N1 cho ông T1 cùng
sử dụng lối đi trên.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 13a/2023/DS-ST ngày 03/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 254 Bộ luật dân sự; Điểm d khoản 1
Điều 12, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị X
- Buộc ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 phải chừa (dành) diện tích
113,7m
2
trong thửa đất số 635, t bản đồ số 10 xã C1 làm đưng đi cho gia đình bà
Lê Thị X có tứ cận như sau:
Cạnh phía Bắc giáp thửa đất ông N1 cạnh dài 3 mét;
Cạnh phía Nam giáp đưng nội thôn cạnh dài 3 mét ;
Cạnh phía Tây giáp đất ông Phan Văn T3 cạnh dài 37,9 mét;
Cạnh phía Đông giáp đất ông N1 cạnh dài 37,9 mét;
- Buộc ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 phải nhổ các cây trồng trên
đất đưng đi gồm 11 cây cà phê trồng mới năm 2023.
- Buộc bà Lê Thị X phải thanh toán cho ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị
N2 số tiền 17.743.000 đồng (trong đó tiền sử dụng đất là 17.055.000 đồng và tiền cây
cà phê là 688.500 đồng) .
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng
cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
4
Ngày 08/5/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 kháng cáo đề
nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ đơn khởi kiện của
nguyên đơn bà Lê Thị X.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Luật sư Vũ Trọng T trình
bày:
Ngoài thửa đất của ông N1 thì đất của bà X còn giáp thửa đất của ông Phan
Văn T3 và lối đi qua nhà ông N1 cũng chưa phải là lối đi thuận lợi nhất. Ngưi làm
chứng ông Nguyễn Văn T1 cũng thừa nhận không có con đưng đi qua thửa đất của
ông N1, dẫn từ đưng lộ vào thửa đất bà X. Ngoài ra, thửa đất của ông N1 được nhà
nước cấp cho hộ gia đình nhưng Toà án cấp sơ thẩm không đưa những ngưi con
của ông N1, bà N2 tham gia tố tụng là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các ngưi con. Trong đó, ông N1, bà N2 còn có 02 ngưi con hiện đang sinh sống ở
nước ngoài nhưng Toà án cấp sơ thẩm cũng chưa thực hiện uỷ thác tư pháp. Do vậy,
đề nghị HĐXX huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm và giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk thụ lý giải quyết mới là đúng thẩm quyền.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Luật sư Nguyễn Văn
L trình bày:
Lối đi mà các bên đang tranh chấp là con đưng có sẵn từ xưa đến nay, còn thực
tế chưa có lối đi nào được trên đất của ông Phan Văn T3 mà dẫn vào thửa đất của bà
X. Bị đơn cho rằng Toà án cấp sơ thẩm không ghi nhận đúng số cây trồng trên diện
tích đất tranh chấp là không đúng vì 11 cây cà phê và 02 cây sầu riêng lúc đó chỉ mới
được trồng ở ngoài biên lối đi và khi đó cũng không có lưới B40 nào. Do đó, Luật sư
đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên
Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán và
HĐXX đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự đã chấp
hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật
tố tụng dân sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn N1,
5
bà Nguyễn Thị N2, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 13a/2024/DS-ST ngày
03/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị N2 được nộp
trong thi hạn luật định nên hợp lệ. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải
quyết theo trình tự phúc thẩm là phù hợp. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp
phúc thẩm, nguyên đơn bà Lê Thị X không rút đơn khởi kiện, bị đơn ông Nguyễn
Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 không rút đơn kháng cáo; Các đương sự không tự hòa
giải được với nhau về việc giải quyết vụ án và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Theo đơn khởi kiện của bà Lê Thị X và nội dung
vụ án thể hiện bà X yêu cầu Toà án buộc ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị N2
dành cho bà Xuân một lối đi trên phần đất của bị đơn để bà X đi lại từ thửa đất mình
đang quản lý sử dụng ra đưng đi công cộng. Như vậy, quan hệ tranh chấp trong vụ
án này là “Tranh chấp về yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề” nhưng Toà án
cấp sơ thẩm xác định đây là “Tranh chấp đường đi” là chưa đúng với quan hệ pháp
luật được giải quyết, nhưng nếu huỷ bản án thì Toà án cấp sơ thẩm cũng không thể
giải quyết khác được nên đề nghị Toà án cấp sơ thẩm lưu ý rút kinh nghiệm.
[3] Xét nội dung đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn
Thị N2, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[3.1] Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/01/2024 và Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số O 368147 (BL số 10,11,12) thể hiện thửa đất số 136 do
bà Lê Thị X đang quản lý, sử dụng là thửa đất bị vây bọc bởi các thửa đất của các
chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra đưng công cộng (đưng đất nội thôn). Do
đó, bà X có quyền yêu cầu các chủ sở hữu bất động sản liền kề là hộ ông Phan Văn
T3 và hộ ông Nguyễn Văn N1 dành cho bà X một lối đi hợp lý trên diện tích đất của
ông T3 hoặc của ông N1.
[3.2] Xét thấy, lối đi là do hộ ông N1 tạo lập và thuộc thửa đất số 635, t bản
đồ số 10 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng nhận quyền
6
sử dụng đất cho hộ ông N1. Tuy nhiên, trước khi bà X nhận chuyển nhượng thửa đất
số 136 thì ông Nguyễn Văn T1 (chủ sở hữu cũ đang sang nhượng cho bà X) đã sử
dụng lối đi trên và hiện nay gia đình bà X cũng không còn con đưng đi nào khác
để ra vào đưng nội thôn nhằm vận chuyển vật tư, phân bón và cây trồng. Do đó,
Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015 để chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà X và buộc bà X thanh toán cho gia đình ông N1 giá trị của lối
đi theo Biên bản định giá ngày 04/01/2024 là có cơ sở. Cụ thể, buộc bà X phải thanh
toán cho ông N1, bà N2 số tiền 17.743.000 đồng (trong đó tiền đất 17.055.000 đồng;
tiền 11 cây cà phê trồng năm 2023 có 08 cây loại A giá 69.000 đồng/cây; 01 cây loại
B giá 55.500 đồng/cây và 02 cây loại C giá 38.900 đồng/cây, thành tiền: 688.500
đồng).
[3.3] Đối với nội dung bị đơn kháng cáo cho rằng ông bà thuộc trưng hợp
được miễn án phí thì thấy:
Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên xử ông N1, bà N2 là ngưi già nên được miễn án
phí, là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/10/2016 của Ủy ban thưng vụ Quốc hội. Tuy
nhiên, căn cứ khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị X được chấp nhận nên bị đơn
ông Nguyễn Văn N1, bà N2 vẫn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định
giá tài sản.
[3.4] Ngày 05/7/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn N1 có đơn đề nghị xem xét
thẩm quyền giải quyết vụ án do Toà án cấp sơ thẩm không đưa các con của ông vào
tham gia tố tụng (trong đó có 02 ngưi con hiện nay đang sinh sống ở nước ngoài).
Sau khi xem xét đơn đề nghị, Hội đồng xét xử xét thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, ông N1 và bà N2 trình bày thửa đất số 635, t bản
đồ số 10, địa chỉ tại thôn 1C, xã C1, huyện C2 do gia đình ông khai hoang từ năm
1992, sau đó được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vào ngày 18/7/1998.
Tuy nhiên, những ngưi con của ông N1, bà N2 gồm có anh Nguyễn Văn P
sinh năm 1989, chị Nguyễn Thị Y sinh năm 1991, anh Nguyễn Văn N3 sinh năm
1993, anh Nguyễn Văn T4 sinh năm 1995, chị Nguyễn Thị H sinh năm 1997 và anh
Nguyễn Văn S sinh năm 1999.
7
Như vậy, tại thi điểm ông N1, bà N2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì ngưi con lớn nhất của ông bà là anh Nguyễn Văn P chỉ mới 9 tuổi và
những ngưi con còn lại đều còn quá nhỏ, thậm chí là chưa được sinh ra nên quan
điểm của ông N1 và Luật sư về việc đề nghị đưa các con tham gia tố tụng do có công
sức đóng góp đối với quyền sử dụng thửa đất số 635, t bản đồ số 10 là không phù
hợp.
Từ những phân tích và nhận định như trên, do kháng cáo của bị đơn ông
Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị N2 là không có cơ sở chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 phải chịu
chi phí thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 2.000.000 đồng. Bà Lê Thị X được
nhận lại số tiền 2.000.000 đồng khi thu được của ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn
Thị N2.
[5] Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 là ngưi cao tuổi nên không phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
- Bà Nguyễn Thị X được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu số 0017802 ngày 12/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
C2, tỉnh Đắk Lắk.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị
N2.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 13a/2024/DS-ST ngày 03/5/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
- Áp dụng Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/10/2016 của Ủy ban thưng vụ Quốc hội,
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị X.
8
[1.1] Buộc ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị N2 phải dành cho bà Lê Thị X diện
tích đất 113,7m
2
thuộc thửa đất số 635, t bản đồ số 10, toạ lạc tại xã C1, huyện C2 (được
Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 368256 ngày
18/7/1998 cho hộ ông Nguyễn Văn N1), có tứ cận như sau:
- Cạnh phía Bắc giáp thửa đất ông N1 cạnh dài 3 mét;
- Cạnh phía Nam giáp đưng nội thôn cạnh dài 3 mét;
- Cạnh phía Tây giáp đất ông Phan Văn T3 cạnh dài 37,9 mét;
- Cạnh phía Đông giáp đất ông N1 cạnh dài 37,9 mét.
[1.2] Buộc ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị N2 phải nhổ, di di 11 cây cà phê
trồng mới năm 2023 trên diện tích đất 113,7m
2
có đặc điểm như trên.
[1.3] Buộc bà Lê Thị X thanh toán cho ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị N2 số
tiền 17.743.000 đồng (mười bảy triệu bảy trăm bốn mươi ba nghìn đồng) tương ứng với
giá trị 113,7m
2
đất và cây trồng trên đất theo kết quả định giá tài sản ngày 04/01/2024.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
[2] Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 phải chịu
chi phí thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Bà
Lê Thị X được nhận lại số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) khi thu được của
ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2.
[3] Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị N2 là ngưi cao tuổi nên được miễn
nộp án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.
- Bà Nguyễn Thị X được nhận lại số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0017802 ngày 12/10/2023 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện C2, tỉnh Đắk Lắk.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng
cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
9
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Cư Kuin;
- Chi cục THADS huyện C2; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án. Nguyễn Đình Triết
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 09/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm