Bản án số 27/2025/KDTM-PT ngày 01/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng tín dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 27/2025/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 27/2025/KDTM-PT ngày 01/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 27/2025/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/04/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310, Điều 313, khoản 3 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; 1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Tôn Thất Nguyễn Thi . Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1430/2023/KDTM-ST ngày 18/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. 2. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 27/2025/KDTM-PT
Ngày 01 tháng 4 năm 2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và
đòi tài sản”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bà Huỳnh Thanh Duyên
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Văn Tửu
bà Lê Thị Tuyết Trinh
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: ông Phạm Ba Duy - Kiểm sát viên.
Ngày 01 tháng 4 năm 2025, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số
97/2024/TLPT-KDTM ngày 25 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
vay tài sản và đòi tài sản”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1430/2023/KDTM-ST ngày
18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 245/2025/QĐ-PT ngày
13 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tất T (có mặt).
Địa chỉ: B B, phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đỗ Văn K
Luật thuộc Đoàn luật thành phố H. Địa chỉ: Công ty L, H (tầng1) X,
Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Bị đơn : Ông Tôn Thất Nguyễn T1 (vắng mặt).
Địa chỉ: 5 N, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
- Ông Trần Đặng Chí H (Giấy ủy quyền ngày 14/3/2022) (có mặt).
2
- Ông Nguyễn Đ (Giấy ủy quyền ngày 24/02/2025). Địa chỉ: H trệt +
lửng N, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần E.
Người đại diện hợp pháp của Công ty Cổ phần E:Đồng Nữ Hoàng H1
(Giấy ủy quyền ngày 06/4/2023) (có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ trụ sở: E N, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Người làm chứng:
4.1. Nguyễn Thủy Phượng U. Địa chỉ: 2 B, phường C, quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
4.2. Bà Tôn Nữ Kiều M. Địa chỉ: xá A, L, đường L, phường V, Quận
C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
4.3. Ông Trần Công T2. Địa chỉ: Chung cư M (hộp thư A)- 102 Đ, phường
T, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn là ông Tôn Thất Nguyễn Thi .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện lập ngày 25/11/2021 và sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện
ngày 10/01/2022 của Nguyên đơn là ông Nguyễn Tất T và tại phiên tòa, Nguyên
đơn trình bày như sau: ông Nguyễn Tất T ông Tôn Thất Nguyễn T1 quan
hệ bạn bè trong nhiều năm. Vào tháng 6/2019, ông T1 rủ ông T mở nhà hàng E1
thuộc Công ty TNHH Một thành viên E do ông T1 làm đại diện theo pháp luật.
Quá trình hợp tác, do ông T1 không có tiền và không có tài sản thế chấp nên nhờ
ông T đứng ra vay Ngân hàng H2 số tiền 600.000.000 đồng, vay Ngân hàng
Standard Chartered 250.000.000 đồng và Ngân hàng V 250.000.000 đồng. Tổng
số tiền ông T1 nhờ ông T vay 1.100.000.000 đồng. Khi giải ngân thì ông T
chuyển trực tiếp vào tài khoản nhân của ông T1 100.000.000 đồng để tiêu dùng.
Số tiền còn lại đlàm chi phí xây dựng nhà hàng. Hàng tháng ông T1 đã trả lãi và
gốc của 3 khoản vay t3 Ngân hàng đến tháng 3/2021 bằng nhiều hình thức như:
trả tiền mặt cho ông T hoặc chuyển khoản vào tài khoản của ông T. Ttháng
4/2021 thì ông T1 ngưng không chuyển tiền để trả cho Ngân hàng. Để tránh phải
trả lãi phạt nên ông T đã phải tất toán các khoản vay tại 3 Ngân hàng từ tháng
4/2021. Tính đến tháng 3/2022 thì khoản nợ mà ông T1 còn nợ ông T tổng cộng
là 1.995.280.653 đồng kèm giải trình ngày 04/01/2023. Cụ thể:
+ Khoản vay 600 triệu đồng tại Ngân hàng H2: ông T1 đã chuyển trả
168.998.972 tiền gốc lãi 114.475.051 đồng. Tính đến tháng 4/2022 thì ông
T1 còn nợ 1.083.916.435 đồng trong đó gồm: gốc 431.001.028 đồng; lãi
94.281.475 đồng; tiền phạt tính trên chậm trả gốc 17.024.042 đồng; số tiền ông
T ng ra trả i từ tháng 4/2021 đến tháng 3/2022 là 28.347.402 đồng; số tiền ông
T ứng trả gốc 161.985.156 đồng; số tiền ông T ứng khi tất toán gồm gốc
329.120.000 đồng và lãi 21.941.333 đồng.
3
+ Khoản vay 500 triệu đồng tại Ngân hàng Standard Chartered nhưng được
ông T cho ông T1 vay lại 250.000.000 đồng: ông T1 đã chuyển trả 73.143.522
đồng gốc lãi 42.994.001 đồng. Tính đến tháng 4/2022 thì ông T1 còn nợ
439.595.659 đồng trong đó gồm: gốc 176.856.478 đồng; lãi 43.329.837 đồng;
tiền phạt chậm trả gốc là 3.537.130 đồng ; số tiền ông T ứng ra trả gốc
81.979.430 đồng lãi 14.346.400 đồng; số tiền ông T ứng khi tất toán gồm
gốc là 112.074.735 đồng và lãi 7.471.649 đồng.
+ Khoản vay 500 triệu đồng tại Ngân hàng V nhưng được ông T cho ông
T1 vay lại 250.000.000 đồng: ông T1 đã chuyển trả 70.712.211 đồng tiền gốc và
lãi 52.644.100 đồng. Tính đến tháng 4/2022 thì ông T1 còn nợ 471.768.559
đồng trong đó gồm: gốc 179.287.788 đồng; lãi 50.200.581 đồng; tiền phạt
tính trên chậm trả gốc là 5.378.634 đồng; số tiền ông T ứng trả gốc là 82.486.650
đồng lãi 14.435.164 đồng; số tiền ông T ng khi tất toán gốc 131.231.007
đồng và lãi 8.748.734 đồng.
Ngoài ra ông T1 còn nợ tiền sinh hoạt phí ông T đã ứng ra để chi cho
sinh hoạt chung của hai người là 61.000.000 đồng.
Do ông T đã nhiều lần yêu cầu ông T1 trả khoản tiền trên nhưng ông T1
không trả nên ông T kiện đến Tòa án yêu cầu ông T1 hoàn trả lại khoản tiền nợ
phát sinh liên quan đến 3 khoản vay tại 3 Ngân hàng nêu trên khoản phí sinh
hoạt chung tổng cộng là 2.056.280.653 đồng.
* Đại diện hợp pháp cho Bị đơn, ông T1 bản khai trình bày: Ngày
15/10/2018, ông T1 thành lập và đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH
Một thành viên E (theo giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp số
0315330202 đăng ký lần thứ 1 ngày 15/10/2018 do Sở kế hoạch và đầu tư thành
phố H cấp). Tháng 6/2019, ông T1ông T quyết định hùn vốn mở nhà hàng E1
trực thuộc Công ty TNHH Một thành viên E. Đến tháng 02/2021, Công ty TNHH
Một thành viên E chuyển đổi thành Công ty cổ phần. Quá trình hợp tác thì nội bộ
các thành viên góp vốn phát sinh mâu thuẫn, ông T đã áp lực buộc ông T1 phải
giao chức danh đại diện pháp luật cho ông T nên từ ngày 06/10/2021 người đại
diện pháp luật của Công ty cổ phần E được chuyển cho ông T còn ông T1 chỉ
thành viên góp vốn.
Về yêu cầu khởi kiện của ông T thì ông T1 không chấp nhận vì ông T1
không nhận khoản tiền nào từ ông T như trình bày của ông T. Những tài liệu
ông T nộp đến tòa làm chứng cứ để khởi kiện là do ông T tự ngụy tạo nên không
đúng sự thật.
* Đại diện hợp pháp của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Công ty
Cổ phần E trình bày: Ông T ông T1 thành viên p vốn của Công ty Cổ phần
E. Nhà hàng E1 trực thuộc Công ty E. Hiện nhà hàng này đã ngưng hoạt động.
Đối với việc khởi kiện tranh chấp giữa ông T1 ông T tranh chấp nhân
không liên quan tới Công ty Cổ phần E nên Công ty không có ý kiến.
Tại Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 1430/2023/KDTM-ST ngày
18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
4
Căn cứ Khoản 3 Điều 30; Khoản 1 Điều 37; Điều 147; Khoản 2 Điều 227;
Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.
Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một squy định của pháp
luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự có hiệu lực ngày 01/7/2009.
Tuyên xử :
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là ông Nguyễn
Tất T. Cụ thể như sau:
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về việc: Buộc ông Tôn
Thất Nguyễn T1 phải hoàn trả cho ông Nguyễn Tất T số tiền tổng cộng
965.058.053 đồng (trong đó gồm: tiền nợ do nhờ vay Ngân hàng 958.773.554
đồng và khoản tiền ứng sinh hoạt phí là 6.284.499 đồng).
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về việc: Buộc
ông Tôn Thất Nguyễn T1 phải hoàn trả cho ông Nguyễn Tất T số tiền tổng cộng
là 1.091.222.600 đồng (trong đó gồm: tiền ứng trả gốc, lãi và tiền sinh hoạt phí).
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, về nghĩa vụ thi hành án
và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 29/8/2023 ngày 03/10/2023 bđơn ông Tôn Thất Nguyễn T1
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Nguyễn Vũ Đ trình bày: Ông Tôn Thất Nguyễn T1 kháng cáo toàn bộ
bản án thẩm các do sau: Thứ nhất, căn cứ vào email tử
“nthitonthat@gmail.com”để xác định ông T1 mượn ông T một số tiền gần
1.000.000.000 đồng đbuộc ông T1 thực hiện nghĩa vụ trả cho ông T thì trong cả
quá trình tố tụng ông T1 xác định không phải người sử dụng email nội dung
nêu trên. Thứ hai, nội dung email thể hiện thế nào thì phải căn cứ vào dòng tiền,
thông qua phần xét hỏi cũng như trong hồ vụ án thì ông T cho rằng ông
người mượn tiền giùm cho ông T1 tại ngân hàng nhưng khi dòng tiền từ ngân
hàng về giải ngân cho ông T thì không tài liệu chứng cứ nào để xác định ông
T chuyển khoản cho ông T1 hoặc đưa tiền mặt cho ông T1. Do vậy, nội dung
email ông T cung cấp cho Hội đồng xét xđchứng minh việc ông T1 mượn tiền
của ông T hoàn toàn không có sở pháp lý, không phù hợp với dòng tiền ông
T đã sử dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn
ông Tôn Thất Nguyễn T1, sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
5
Luật Đỗ Văn K trình bày: Thứ nhất, tại phần xét hỏi thì người đại diện
theo ủy quyền của bị đơn hỏi ông Nguyễn Tất T vấn đgiải ngân tiền thì tại
thời điểm đó mục đích của ông T đi vay tiền đvề cùng với ông T1 mở nhà
hàng E1 vào khoảng tháng 6 năm 2019, thời điểm đó công ty chưa số tài khoản
ngân hàng nên tất nhiên khi ông T được 03 ngân hàng giải ngân theo 03 hợp đồng
tín dụng thì tiền đó về tài khoản của ông T, mục đích là để sử dụng thành lập nhà
hàng n không thể chuyển hết số tiền đó vào tài khoản nhân của ông T1 được,
đồng thời công ty không có tài khoản nên ông T mới để trong tài khoản của ông
T chỉ chuyển 100.000.000 đồng cho ông T1 mượn để tiêu xài nhân còn số
tiền trong tài khoản của ông T sử dụng vào mục đích mở nhàng đều cập nhật
cho ông T1, đều được ng khai minh bạch và thực tế kể tkhi sdụng tài khoản
đó cho đến nay ông T1 không có bất cứ ý kiến gì về tính minh bạch hoặc đề ngh
giải trình số tiền đó nên việc người đại diện theo y quyền của bị đơn yêu cầu
phải có chứng cứ chứng minh số tiền đó có chuyển vào tài khoản của ông T1 hay
không thì không phù hợp với quá trình xảy ra. Thứ hai, email mà người đại diện
theo ủy quyền của bị đơn phủ nhận thì email này do ông T1 phủ nhận không phải
email nên trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm tnguyên đơn đã làm
thủ tục lập Vi bằng. Ngoài thủ tục lập Vi bằng ra để xác thực hơn thì nguyên đơn
còn liên hệ 03 nhân chứng đều biết ông Tôn Thất Nguyễn T1 ông T1 đều dùng
email này ngoài trao đổi với ông T thì ông T1 còn dùng email này trao đổi với 03
người, trong 03 người đó thì 01 người đồng thời là cổ đông của ng ty. Ngoài
03 nhân chứng xác nhận email thì họ đã cung cấp bằng văn bản kèm theo căn
cước công dân Tòa án còn triệu tập họ lên phiên tòa yêu cầu giải thích cụ
thể do tại sao lại trao đổi qua email đó, mối quan hệ giữa họ với công ty nên
việc ông T1 chối bỏ email không đúng. Thứ ba, một người nếu không có giao
dịch vay mượn tiền thì không thể nào từ tháng 10/2019 đến tháng 03/2021 trả tiền
ròng rã cho ông T trong quá trình trả tiền thì mục đích tại nội dung giao dịch
có lúc ghi là không có thông tin đính kèm, lúc ghi là trả nợ cho khoản vay.
Ông Nguyễn Tất T trình bày: Thống nhất với lời trình bày của Luật sư,
không bổ sung gì thêm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm có thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ
để giải quyết vụ án cụ thể như sau: Tòa án cấp thẩm chưa thu thập chứng cứ
chứng minh giữa nguyên đơn bị đơn giao dịch qua thư điện tử, chưa tiến
hành đối chất hoặc làm việc với bị đơn để xác định số tiền gốc lãi giữa nguyên
đơn bị đơn nếu có, chưa thu thập chứng cứ để chứng minh việc bị đơn
chuyển khoản trnợ cho nguyên đơn. Tại phiên tòa, nguyên đơn có cung cấp một
số sao của ngân hàng trong đó không chứng minh được nguồn gốc lãi của
các khoản tiền như nguyên đơn và bị đơn trình bày. Do Tòa án cấp sơ thẩm chưa
thu thập chứng cứ đầy đủ đã tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
6
nguyên đơn là chưa khách quan, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ
thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Tại phiên tòa phúc thẩm những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã
được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 296 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử
vắng mặt những người tham gia tố tụng trên.
Về nội dung kháng cáo của ông Tôn Thất Nguyễn T1 yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
ông Nguyễn Tất T.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét, đối với số tiền vay Ngân hàng:
Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Tất T ông Tôn Thất Nguyễn T1
thống nhất trình bày, vào tháng 6/2019, ông T ông T1 hùn vốn mở nhà hàng
E1 trực thuộc Công ty TNHH Một thành viên E do ông T1 là người đại diện theo
pháp luật. Tháng 02/2021, Công ty TNHH Một thành viên E chuyển đổi thành
Công ty cổ phần E. Ngày 06/10/2021, ông T là người đại diện theo pháp luật của
Công ty cổ phần này.
Cũng trong khoảng thời gian tháng 6/2019, ông T hợp đồng tín dụng vay
Ngân hàng H2 số tiền 600.000.000 đồng, vay Ngân hàng Standard Chartered
500.000.000 đồng, vay Ngân hàng V số tiền 500.000.000 đồng. Các Ngân hàng
đã giải ngân cho ông T người nhận tiền. Đến tháng 4/2021, ông T đã tất toán
xong các khoản vay của ba Ngân hàng trên.
Ông T cho rằng, việc ông hợp đồng vay tiền Ngân hàng là vay hộ cho
ông T1 để ông T1 có tiền hùn vốn mở nhà hàng chi tiêu chung cho Nhà hàng
E1. Tổng số tiền ông T vay hộ ông T1 1.100.000.000 đồng, trong đó
600.000.000 đồng vay của Ngân hàng H2, 250.000.000 đồng trong tổng số tiền
500.000.000 đồng vay Ngân ng Standard Chartered và 250.000.000 đồng trong
tổng số tiền 500.000.000 đồng vay Ngân hàng V.
Để chứng minh cho yêu cầu của mình, ông T cung cấp chứng cứ email
trao đổi được gửi từ hòm thư điện tử: Matt Thi T3 [email protected]om”đến
hòm thư điện tử của ông T (R [email protected]trong đó nội dung:
khoản tiền vay từ ngân hàng, về khoản này, T1 muốn mình hiểu chính xác như
thỏa thuận ban đầu của hai bên đây khoản tiền T đứng tên giúp T1 để mượn
làm ăn từ các Ngân hàng sau: VP, H2, SC. Không phải là khoản tiền T1 mượn từ
7
cá nhân T”. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, ông T1 không thừa nhận
nhờ ông T vay tiền hộ; không thừa nhận hòm thư điện tử
“nthitonthat@gmail.com”là của ông T1; không thừa nhận có gửi email xác nhận
nợ với ông T. Tòa án cấp thẩm chỉ căn cứ vào Vi bằng số 246/2023/VB-
TPLTPHCM do Văn phòng Thừa phát lại Thành phố H lập ngày 16/5/2023, thể
hiện khi truy cập vào máy tính của ông T email nêu trên gửi từ địa chỉ Matt
Thi T “nthitonthat@gmail.com” đến hòm thư điện tcho ông T để xác định tên
địa chỉ Matt Thi T [email protected]địa chỉ email của ông T1,
chưa đủ căn cứ.
Tòa án cấp thẩm còn căn cứ vào các n bản cung cấp thông tin của ông
Trần Công T2, bà Tôn NKiều M Nguyễn Thị Phượng U1, trong đó xác
nhận, ông T1 sử dụng địa chỉ Matt Thi T “nthitonthat@gmail.com”để trao đổi
công việc khi ông T1 còn làm quản của Công ty cổ phần E, để nhận định cho
rằng nội dung email xác nhận nợ gửi từ địa chỉ Matt Thi T
“nthitonthat@gmail.com” của ông T1 cũng chưa đủ căn cứ. Bởi lẽ, tại phiên
tòa thẩm, M ông T2 đều xác định không chứng kiến ông T1 đăng nhập
vào email nêu trên. Tòa án cấp thẩm chưa xác minh, làm rõ, ngoài việc trao đổi
email với ông T thì ông T1 còn trao đổi với những ai qua email
“nthitonthat@gmail.com”không (bạn bè, người thân trong gia đình), chứng cứ
gì để chứng minh hay không, để từ đó có cơ sở giải quyết vụ án.
Ông T cho rằng, sau khi vay tiền của Ngân hàng, ông T đã chuyển cho ông
T1 100.000.000 đồng để tiêu dùng; stiền còn lại làm chi pxây dựng nhà hàng;
từ khi vay cho đến tháng 3/2021 hàng tháng, ông T1 đã trả cho Ngân hàng số tiền
nợ gốc và lãi vay. Mặc dù tại phiên tòa ông T xuất trình chứng cứ chứng minh
hàng tháng ông T1 chuyển khoản cho ông T số tiền cđịnh hơn 27.000.000 đồng.
Tuy nhiên, phía ông T1 không thừa nhận các nội dung ông T trình bày nêu trên.
Tòa án cấp thẩm chưa xác minh, làm sự việc ông T1 chuyển trả một phần
tiền nợ gốc và lãi cho Ngân hàng hay không, trả bằng hình thức nào, trả cho ai, số
tiền chuyển tr(nếu có) phù hợp với khoản tiền gốc lãi hàng tháng Ngân
hàng yêu cầu trả hay không; có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện ông T có giao cho
ông T1 số tiền vay hay không; thỏa thuận gì về việc ông T đầu số tiền vay
cho Nhà hàng Esta theo yêu cầu của ông T1 hay không.
Trong khi chưa xác minh, làm rõ các vấn đề nêu trên, tài liệu chứng cứ để
giải quyết vụ án chưa được thu thập đầy đủ, nhưng Tòa án cấp thẩm đã chấp
nhận u cầu khởi kiện của ông T, buộc ông T1 trả cho ông T số tiền 958.773.554
đồng, là chưa đủ cơ sở vững chắc.
[2.2] Đối với khoản tiền sinh hoạt phí:
Ông T khởi kiện u cầu ông T1 trsố tiền sinh hoạt phí khi hai người sống
chung 61.000.000 đồng nhưng ông T không cung cấp được chứng cứ nào
giá trị pháp để chứng minh cho yêu cầu của mình sở. Tòa án cấp
thẩm căn cứ vào email trao đổi được gửi đi từ hộp thư Matt Thi T4
“nthitonthat@gmail.com”ngày 25/3/2021 để cho rằng ông T1 còn nợ ông T khoản
sinh hoạt phí 6.284.499 đồng, từ đó buộc ông T1 trả cho ông T số tiền này, trong
8
khi chưa có chứng cứ xác thực rằng, địa chỉ email “nthitonthat@gmail.com”của
ông T1, email do ông T1 gửi, là chưa đủ căn cứ.
[3] Các vấn đtrên, Tòa án cấp thẩm chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên
tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm
chấp nhận một phần kháng cáo của ông Tôn Thất Nguyễn T1, hủy toàn bộ bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm, giao hồ ván cho Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại vụ án.
[4] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bản án sơ thẩm bị hủy,
ông Tôn Thất Nguyễn T1 không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310, Điều 313, khoản 3 Điều 148 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Tôn Thất Nguyễn Thi .
Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 1430/2023/KDTM-ST
ngày 18/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; chuyển hồ vụ
án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục
sơ thẩm.
2. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Ông Tôn Thất Nguyễn T1
không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Ông Tôn Thất Nguyễn
T1 được nhận lại số tiền 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương
mại phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2022/0002373 ngày 26/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác sẽ
được xác định lại khi Tòa án giải quyết sơ thẩm lại vụ án.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.Hồ Chí Minh;
- TAND TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- Cục THADS TP.HCM;
- Nguyên đơn;
- Bị đơn;
- NCQLNVLQ;
- Người làm chứng;
- Lưu VT (5), HS (2) (BA-Tâm).
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(3)
9
Tải về
Bản án số 27/2025/KDTM-PT Bản án số 27/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 27/2025/KDTM-PT Bản án số 27/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất