Bản án số 19/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 19/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 19/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 19/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Lê Thị Tuyết N tranh chấp hợp đồng đặt cọc Nguyễn Xuân Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 19/2025/DS-PT
Ngày: 18-02-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt
cọc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Tâm
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Bà Nguyễn Thị Thanh
Hương – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 18 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 249/2024/TLPT-DS ngày 28 tháng 10
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 04/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 464/2024/QĐ-PT ngày
07 tháng 11 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 226/2024/QĐ-
PT ngày 26 tháng 11 năm 2024; Thông báo mở lại phiên tòa phúc thẩm số 22/TB-
TA ngày 07 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Thị Tuyết N, sinh năm: 1972; cư trú tại số ¾, đường T,
Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Kim L, sinh năm: 1999;
trú tại số A, đường T, Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (Văn bản ủy quyền
ngày 23/12/2024).
2
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật Nguyễn Phương Đại N1
Công ty TNHH L2 thuộc Đoàn luật sư tỉnh L.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân Đ, sinh năm: 1965; địa chỉ: số D, đường B tháng
D, tổ dân phố N, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; trú tại số F, đường T,
Phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hồ Thị Hồng L1, sinh năm: 1969; địa chỉ:
số A, đường N, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại số E,
đường N, Phường G, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày
13/3/2024).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp:
+ Luật Giang Văn Q Công ty TNHH T1 yêu luật thuộc Đoàn luật
Thành phố H.
+ Luật sư Nguyễn Quyết Q1 Công ty L3 thuộc Đoàn L thuộc Đoàn luật sư
Thành phố H.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị Hoàng N2, sinh năm: 1988; địa chỉ: số B, cư xá Đ, đường
T, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại C, đường Đ,
Phường C, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
+ Nguyễn Thị Hoàng M, sinh năm: 1989; cư ttại số B, cư Đ, đường
T, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hồ Thị Hồng L1, sinh năm: 1969; địa chỉ:
số A, đường N, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại số E,
đường N, Phường G, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày
14/3/2024).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật Giang Văn Q Công ty
TNHH T1 yêu luật thuộc Đoàn luật sư Thành phố H.
Người kháng cáo: Bà Lê Thị Tuyết N Nguyên đơn.
(Bà Tuyết N, bà Kim L, bà Hồng L1, bà Hoàng N2 và luật sư Q1 có mặt tại
phiên tòa; luật sư N1 vắng mặt khi tuyên án; Luật sư Q và các đương sự còn lại
vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong đơn khởi kiện ngày 24/6/2022, ngày 12/7/2022; Đơn khởi kiện bổ
sung ngày 20/3/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
Lê Thị Tuyết N trình bày: Bà và ông Nguyễn Xuân Đ mối quan hệ họ hàng.
3
Do nhu cầu mua đất nên bà ông Đ trao đổi với nhau về việc thỏa thuận
chuyển nhượng đất. Trong ngày 06/4/2022 ông Đ gọi điện thoại cho đến Đ
xem đất. Ông Đ nói với bà là con ông Đ có miếng đất ở T muốn bán lại nên ngày
06/4/2022 bà xuống Đơn Dương xem đất. Khi đến T bà có ghé thửa đất 4011, tờ
bản đồ số 7, thị trấn T, huyện Đ, diện tích 100m
2
đứng tên người sử dụng đất
Nguyễn Thị Hoàng N2 thửa 4012, tờ bản đồ số 7 thị trấn T, huyện Đ, diện tích
100m
2
đứng tên người sử dụng đất Nguyễn Thị Hoàng M xem trước, sau đó mới
đi Tu Tra. Khi đến T thì bà thấy đất ở T xa quá nên không có ý định mua đất ở T
mà quay lại Thạnh M1 và ghé lại thửa 4011, 4012 để xem lại.
Thời điểm xem đất vào sáng ngày 06/4/2022 tại thửa đất 4011, 4012 có mặt
bà, ông Nguyễn Xuân Đ, chị Nguyễn Thị Hoàng M. Khi đó chị Hoàng M gọi
điện cho chị Nguyễn Thị Hoàng N2 và đưa điện thoại cho nói chuyện điện
thoại với chị Hoàng N2. Chị Hoàng N2 thỏa thuận giá cả với bà hai lô đất 4011,
4012 mỗi 1.500.000.000đ, hai 3.000.000.000đ đề nghị ứng trước
1.000.000.000đ để trả tiền ngân hàng và xóa đăng ký thế chấp 02 thửa đất này vì
02 đất đang được thế chấp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C (V) Chi nhánh
L4 phòng G. Sau khi chị Hoàng N2 thỏa thuận xong tông Đ, chị
Hoàng M ghé nhà bố mẹ ông Đ để thăm mẹ ông Đ (bà gọi mẹ ông Đ họ).
Sau đó chHoàng M công việc đi thành phố Hồ Chí Minh, do vậy chỉ
ông Đ về lại Đ để làm thủ tục đặt cọc. Do là bà con nên hợp đồng đặt cọc giữa
ông Đ chỉ làm đơn giản ghi nhầm từ ngày 06/4/2022 thành ngày
06/02/2022. Sau khi bà và ông Đ ký giấy đặt cọc xong thì bà chuyển 02 lần tiền,
499.999.999đ 499.999.000đ vào tài khoản số 105868723495 mang tên người
thụ hưởng Nguyễn Xuân Đ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C, nội dung
chuyển tiền đặt cọc mua đất. do chuyển hai lần thiếu 1.100đ để tốn ít phí
chuyển tiền. Sau khi chuyển khoản cho ông Đ thì bà có chụp lại màn hình chuyển
tiền gửi cho chị Hoàng M thông qua ứng dụng zalo. Ngày hôm sau, gọi điện
thoại cho chHoàng N2 phàn nàn giá chuyển nhượng cao, yêu cầu giảm tiền
chuyển nhượng nhưng chị Hoàng N2 không đồng ý giảm thì bà vẫn hẹn ngày hai
bên đến văn phòng C1 để làm thủ tục chuyển nhượng. Theo giấy đặt cọc, hai bên
thỏa thuận ngày ký hợp đồng chuyển nhượng là ngày 16/4/2022. Nhưng do ngày
16/4/2022 là ngày thứ 7 nên bà hẹn lại chị Hoàng N2 đổi ngày đến văn phòng C1
để làm thủ tục chuyển nhượng sang ngày 19/4/2022 thì được chị Hoàng N2 đồng
ý. Đến ngày 10/4/2022 bà nhờ luật tư vấn về hợp đồng đặt cọc. Luật
vấn cho bà rằng hợp đồng đặt cọc này vô hiệu ngay từ ký khi kết vì ông Đ không
phải chủ sdụng đất đất đang thế chấp ngân hàng, do vậy ngưng giao
dịch. Ngay trong ngày 10/4/2022, khi ông Đ đang ở bên Mỹ thì bà gọi điện thoại
cho ông Đ thông qua ứng dụng zalo, bà thông báo với ông Đ hợp đồng vô hiệu,
4
yêu cầu chấm dứt hợp đồng, yêu cầu ông Đ trả lại tiền thì ông Đ đồng ý trả lại
tiền cho khi ông Đ trở về Việt Nam. Sau ngày 10/4/2022 chị Hoàng N2 gọi
điện thoại nhắn tin qua ứng dụng zalo cho bà, gia hạn cho đến ngày
31/5/2022 nếu không đến văn phòng công chứng để làm thủ tục chuyển nhượng
thì bà bị mất cọc. Chị Hoàng M không thể hiện ý kiến vì việc giao dịch mua bán
hai thửa đất 4011, 4012 là do chị Hoàng N2 toàn quyền quyết định.
Sau khi ông Đ về Việt Nam bà gọi điện thoại cho ông Đ để yêu cầu trả tiền
thì ông Đ không nghe máy. Ông Đ có trả lời bà là bà cứ làm việc theo pháp luật.
Do đó bà khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Xuân Đ trả lại tiền cọc.
Bà xác định tại thời điểm thỏa thuận ký kết hợp đồng đặt cọc và chuyển tiền
cọc thì thửa đất 4011, 4012 đang thế chấp ngân hàng. Thửa 4011 được xóa đăng
ký thế chấp ngày 13/4/2022. Còn thửa đất 4012 đến ngày 31/5/2022 vẫn đang thế
chấp ngân hàng. Ngày 27/6/2022 bà nộp đơn khởi kiện yêu cầu trả lại tiền cọc t
ngày 24/8/2022 thửa 4012 mới được xóa đăng thế chấp Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện Đ. Lúc đầu bà nghĩ do có quan hệ bà con nên bà chỉ lấy lại
tiền cọc, nhưng sau đó phía bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
kháng cáo, do vậy nay yêu cầu ông Nguyễn Xuân Đ trả lại tiền cọc cho bà
1.000.000.00yêu cầu phạt cọc 1.000.000.000đ. Theo bà, việc không tiến
hành giao kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lỗi của ông
Nguyễn Xuân Đ vi phạm cam kết của bên nhận cọc thửa đất 4011 đứng tên chủ
sử dụng Nguyễn Thị Hoàng N2 được xóa đăng thế chấp ngày 13/4/2022 và
thửa đất số 4012 đứng tên chủ sử dụng Nguyễn Thị Hoàng M đến ngày 24/8/2022
mới được xóa đăng ký thế chấp.
- Bị đơn ông Nguyễn Xuân Đ người đại diện theo ủy quyền trong quá trình
giải quyết vụ án trình bày: Ông Nguyễn Xuân Đ bố ruột của chNguyễn Thị
Hoàng N2 chị Nguyễn Thị Hoàng M. Thửa đất 4011, tờ bản đồ số 7, thị trấn
T, huyện Đ đứng tên chị Nguyễn Thị Hoàng N2. Thửa đất 4012, tờ bản đồ số 7,
thị trấn T, huyện Đ đứng tên chị Nguyễn Thị Hoàng M. Do chị Hoàng N2, chị
Hoàng M có nhu cầu muốn sang nhượng các thửa đất này và bà Lê Thị Tuyết N
nhu cầu mua đất nên các bên thỏa thuận đi xem đất. Vào ngày 06/4/2022
ông, Tuyết N, chị Hoàng M đến vị trí thửa đất 4011 4012 để xem đất. Sau
đó, mọi người về nhà mẹ ông ở thị trấn T, huyện Đ thỏa thuận mua bán. Tại đây
giữa Tuyết N, chị Hoàng M ông thỏa thuận chuyển nhượng đất và chị
Hoàng N2 gọi facetime để cùng trao đổi thỏa thuận việc chuyển nhượng đất
cho Tuyết N. Thỏa thuận giá bán 02 đất 3.000.000.000đ. Ông đến Ngân
hàng Thương mại cổ phần C chi nhánh L4 phòng G1 02 giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thửa 4011, 4012 đưa cho bà Tuyết N. Sau đó, Tuyết N lập hợp
đồng đặt cọc tại thành phố Đ. Nội dung hợp đồng như thế nào thì ông không quan
5
tâm. Vì nghĩ là người con trong nhà, đất thật nên sau khi lập hợp đồng đặt
cọc thì ông đã ký vào hợp đồng đặt cọc do bà Tuyết N soạn thảo. Cùng ngày, bà
Tuyết N đã chuyển tiền vào tài khoản của ông số 105868723495 tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần C tổng hai lần chuyển khoản là 1.000.000.000đ, nội dung là
chuyển tiền đặt cọc đất. Ông xác nhận đã nhận khoản tiền này của bà Tuyết N
xác nhận ngày hợp đồng đặt cọc ngày 06/4/2022, còn ngày 06/02/2022
ghi nhầm. Sau đó, ông chuyển số tiền nhận cọc đất cho chị Hoàng N2, chị Hoàng
M để mua nhà tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian sau ông sang Mỹ. Khi ông
đang ở Mỹ, Tuyết N gọi điện thoại cho ông thông qua ng dụng zalo nói đất
đắt quá. Bà Tuyết N nói rằng ông không phải chủ sử dụng đất và yêu cầu hủy
hợp đồng, yêu cầu ông trả lại tiền thì ông đồng ý trả lại tiền cho Tuyết N khi
các con ông đã bán được hai thửa đất 4011, 4012 và để bán được đất thì phải đổi
từ giấy đặt cọc thành giấy vay tiền. Theo ông việc ông nhận cọc là do bà Tuyết N,
chị Hoàng N2, chị Hoàng M thỏa thuận để ông nhận thay chị Hoàng N2 Hoàng
M, còn việc thỏa thuận chuyển nhượng đất là bà Tuyết N thỏa thuận trực tiếp với
chị Hoàng N2 chị Hoàng M (thỏa thuận với chị Hoàng N2 thông qua điện
thoại). Việc ông đưa ra phương án đồng ý trả lại tiền cọc ý chí riêng của
nhân ông, khi ông đề xuất phương án trả lại cọc ông chưa bàn bạc với chị Hoàng
N2 và chị Hoàng M.
Nay phía Tuyết N yêu cầu ông trả số tiền cọc 1.000.000.000đ, đồng thời
yêu cầu phạt cọc 1.000.000.000đ thì ông không đồng ý. do việc mua bán 02
thửa đất số 4011, 4012 sự thỏa thuận giữa Tuyết N với chị Hoàng N2, chị
Hoàng M, ông chỉ là người đại diện nhận tiền cọc. Đồng thời chính phía nguyên
đơn người vi phạm hợp đồng do từ chối việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Bị
đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không lỗi. Do đó nguyên đơn
phải chịu mất cọc.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Hoàng N2 trình
bày: Trước khi hợp đồng đặt cọc giữa bà Tuyết N với ông Đ thì giữa bà Tuyết
N với chị chị Nguyễn Thị Hoàng M đã sự thống nhất về giá chuyển nhượng,
thời gian kết hợp đồng chuyển nhượng, số tiền cọc cũng như việc ông Đ đại
diện nhận tiền cọc. Theo thỏa thuận giữa bà Tuyết N, chị và chị Hoàng M thì chị
chị Hoàng M schuyển nhượng cho T Nhung 02 đất thuộc thửa 4011
(đứng tên chị) thửa 4012 (đứng tên chị Hoàng M) với giá 1.500.000.000đ/thửa.
Tổng giá trị chuyển nhượng của hai thửa 3.000.000.000đ. Ngày thỏa thuận cũng
ngày xem đất sau đó lập hợp đồng đặt cọc. Thỏa thuận giữa chị, chị Hoàng
M, ông ĐTuyết N là ông Đ sẽ đứng ra nhận cọc thay cho chị và chHoàng
M, việc thỏa thuận này bà Tuyết N cũng đồng ý. Giấy đặt cọc do bà Tuyết N soạn
thảo. Thực tế ngày thỏa thuận ngày làm hợp đồng đặt cọc ngày 06/4/2022
nhưng ghi nhầm ngày 06/02/2022. Sau khi thỏa thuận, cũng trong ngày
06/4/2022 Tuyết N đã chuyển vào tài khoản của ông Đ số tiền 1.000.000.000đ.
6
Ông Đ đã chuyển số tiền này vào tài khoản của chị 900.000.000đ chị Hoàng
M 100.000.000đ. Nội dung hợp đồng đặt cọc ngày 16/4/2022 sẽ kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất tại văn phòng C1 Tuyết N thanh
toán 1.500.000.000đ, số tiền còn lại 500.000.000đ Tuyết N sẽ thanh toán sau
khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 07/4/2022, bà Tuyết N gọi
điện thoại cho chị phàn nàn giá cao đề nghị giảm tiền chuyển nhượng đất thì
chị không đồng ý. Hai bên thỏa thuận lại ngày đến văn phòng công chứng ký kết
hợp đồng chuyển nhượng là ngày 19/4/2022 do ngày 16/4/2022 là ngày thứ bảy.
Ngày 13/4/2022 ch nhận được cuộc gọi của ông Đ từ Mỹ về, ông Đ thông báo
ngày 10/4/2022 Tuyết N yêu cầu hủy hợp đồng yêu cầu trả lại
1.000.000.000đ tiền đặt cọc. Lý do ông Đ nhận được cuộc gọi hủy hợp đồng của
Tuyết N vào ngày 10/4/2022 nhưng đến ngày 13/4/2022 ông Đ mới gọi điện
thông báo cho chị được biết múi giờ Việt Nam Mỹ khác nhau. Đồng
thời khi bà Tuyết N gọi điện cho ông Đ thì ông Đ đang ở bang này, sau đó ông Đ
đi xe di chuyển sang bang khác. Thời gian trên xe đi đường không mạng
internet, đồng thời cũng không thể dừng lại để mua sim liên lạc về Việt Nam được.
Đến khi ông Đ đến địa điểm mới mạng internet thì ông Đ mới liên lạc bằng
zalo về cho chị và chị Hoàng M thông báo là bà Tuyết N hủy hợp đồng. Sau đó,
từ ngày 13/4/2022, 16/4/2022, 19/4/2022 chliên tục gọi điện thoại nhắn tin
cho bà Tuyết N yêu cầu bà Tuyết N đến văn phòng công chứng để thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng hai thửa đất 4011, 4012 nhưng Tuyết N không hợp tác.
Lý do chị người quyết định giao dịch và thỏa thuận chuyển nhượng cả hai thửa
đất 4011, 4012 chị Hoàng M thường xuyên bận đi xa không rành việc mua
bán nên để chị quyết định việc mua bán hai thửa đất luôn. Đến ngày 20/5/2022
ngày 27/5/2022 chị nhắn tin gia hạn cho Tuyết N hạn cuối đến ngày
31/5/2022 sẽ đến văn phòng công chứng thực hiện việc ký kết hợp đồng chuyển
nhượng. Tuyết N nhận được tin nhắn nhưng không đồng ý tiếp tục thực hiện
hợp đồng chỉ nhất quyết đòi lại tiền cọc. Do Tuyết N không đồng ý thỏa
thuận nhận chuyển nhượng đất nữa nên giữa hai bên cũng không thỏa thuận được
ngày, giờ địa điểm đến văn phòng công chứng kết hợp đồng chuyển nhượng.
Sau đó, Tuyết N thông báo cho chị về việc khởi kiện ông Đ. Theo chị,
việc thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất 4011 4012 chị và chị Hoàng M trực
tiếp thỏa thuận với Tuyết N. Đồng thời chủy quyền cho ông Đ bán thửa
đất 4011. Giữa chị và ông Đ là cha con, có giấy ủy quyền của chị và có việc thỏa
thuận nhận tiền giữa các bên nên ông Đ mới nhận tiền đặt cọc chuyển nhượng đất.
Việc ông Đ nhận cọc do bà Tuyết N không tin tưởng chị chị Hoàng M, do
đó mới chỉ định ông Đ là người nhận cọc.
Nay Tuyết N khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Xuân Đ trả lại số tiền cọc
1.000.000.00phạt cọc 1.000.000.000đ thì chị không đồng ý chính
Tuyết N người đã vi phạm hợp đồng đặt cọc do Tuyết N đổi ý không mua
7
đất nữa nên phải mất số tiền đã đặt cọc. Ngoài ra, chị không yêu cầu, ý kiến
nào khác.
- Chị Nguyễn Thị Hoàng M người đại diện theo ủy quyền quá trình giải
quyết vụ án trình bày: Chị Hoàng M chủ sử dụng thửa đất 4012. Ngày 06/4/2022
có sự thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa chị Hoàng M, chị Hoàng N2, ông Đ
Tuyết N. Cụ thể chị Hoàng M và ông Đ dẫn bà Tuyết N đi xem thửa đất 4011,
4012. Sau đó chị Hoàng M gọi điện thoại cho chị Hoàng N2 để chị Hoàng N2 trao
đổi với bà Tuyết N về việc thỏa thuận chuyển nhượng đất. Theo đó, chị Hoàng M
và chị Hoàng N2 thỏa thuận chuyển nhượng cho bà Tuyết N thửa đất 4012 (đứng
tên chủ sử dụng đất chị Hoàng M) thửa 4011 (đứng tên chủ sử dụng chị
Hoàng N2). Chị Hoàng M và chị Hoàng N2 thỏa thuận với Tuyết N vgiá
chuyển nhượng stiền cọc của hai thửa đất 4011, 4012. Các bên cùng thống
nhất là nhờ ông Đ đứng ra nhận tiền đặt cọc. Việc ông Đ đứng ra nhận tiền cọc
được T N đồng ý, đồng thời bà Tuyết N cũng chỉ định ông Đ người nhận cọc
không tin tưởng chị Hoàng M chị Hoàng N2. Ngày 06/4/2022, sau khi lập
hợp đồng đặt cọc thì Tuyết N đã chuyển tiền cọc vào tài khoản của ông Đ
chụp hình giao dịch chuyển tiền gửi vào zalo của chị Hoàng M. Nội dung Tuyết
N chuyển tiền đặt cọc đất. Sau khi ông Đ nhận tiền thì đã chuyển số tiền này vào
tài khoản của chị Hoàng M chị Hoàng N2. Sau đó Tuyết N đổi ý không mua
đất nữa và yêu cầu hủy hợp đồng, yêu cầu trả lại tiền cọc. Từ sau ngày Tuyết
N đổi ý và đòi lại tiền cọc thì chị Hoàng N2 là người thay mặt chị Hoàng M trực
tiếp thương lượng với Tuyết N về thời hạn thời điểm gia hạn kết hợp
đồng chuyển nhượng hai thửa đất 4011, 4012. Tuy nhiên, khi chị Hoàng N2 gia
hạn cho Tuyết N thời hạn cuối cùng đến ngày 31/5/2022 đến văn phòng công
chứng ký kết hợp đồng nhưng bà Tuyết N vẫn không đồng ý tiếp tục mua đất.
Nay Tuyết N khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Xuân Đ trả lại số tiền cọc
1.000.000.00phạt cọc 1.000.000.000đ thì phía người có quyền lợi, nghĩa v
liên quan Nguyễn Thị Hoàng M không đồng ý vì chính bà Tuyết N người đã vi
phạm hợp đồng đặt cọc do Tuyết N đổi ý không mua đất nữa nên phải mất số
tiền đã đặt cọc. Ngoài ra, chị Hoàng M không có yêu cầu, ý kiến nào khác.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” của nguyên đơn Thị Tuyết N đối với bị đơn
ông Nguyễn Xuân Đ đối với yêu cầu trả lại tiền đặt cọc 1.000.000.000đ và yêu
cầu phạt cọc 1.000.000.000đ.
8
Ngoài ra, bản án còn tuyên ván phí, quyền kháng cáo trách nhiệm thi
hành án của các bên đương sự.
Ngày 13/9/2024, bà Lê Thị Tuyết N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay: N rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng
cáo đối với số tiền 1.000.000.000đ phạt cọc, giữ nguyên kháng cáo yêu cầu bị đơn
trả lại 1.000.000.000đ tiền đặt cọc đã nhận.
Hồng L1 không đồng ý việc rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Ttụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xkhông
chấp nhận kháng cáo của bà N, căn cứ khoản 1, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương xét xử sơ thẩm, bị đơn
ông Đ kháng cáo nên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã xét xphúc thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 296/2023/DS-GĐT ngày 13/12/2023 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố HChí Minh đã hủy toàn bộ Bản án dân sự
thẩm số 42/2022/DS-ST ngày 27/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương
Bản án dân sphúc thẩm số 17/2023/DS-PT ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng. Chuyển hồ vụ án về cho Tòa án nhân dân huyện Đơn
Dương giải quyết lại vụ án.
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của Thị Tuyết N; người
kháng cáo, thủ tục kháng cáo được thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 271,
272, 273 Bộ luật Tố tụng dân snên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết N thì thấy rằng:
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với
số tiền 1.000.000.000đ phạt cọc nhưng không được bị đơn đồng ý nên Hội đồng
xét xử giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Việc nguyên đơn rút kháng
cáo yêu cầu bị đơn phải chịu phạt cọc số tiền 1.000.000.000đ. Xét thấy, việc rút
kháng cáo của nguyên đơn là tự nguyện, đúng pháp luật nên đình chỉ xét xử phúc
thẩm đối với phần kháng cáo này.
Đối với kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số tiền
1.000.000.00đặt cọc đã nhận thì thấy rằng: Hồ thể hiện, giữa N ông
9
Đ có mối quan hệ họ hàng với nhau. Theo thỏa thuận giữa bà và ông Đ thì ông Đ
chuyển nhượng cho bà hai thửa đất là thửa 4011, diện tích 100m
2
, tờ bản đồ số 7,
thuộc quyền sử dụng của chị Nguyễn Thị Hoàng N2 và diện tích 100m
2
đất, thửa
4012, tờ bản đồ số 7, thuộc quyền sử dụng của chị Nguyễn Thị Hoàng M với giá
mỗi thửa 1.500.000.000đ. Khi thỏa thuận chuyển nhượng đất M mặt
M gọi cho Hoàng N2 về việc chuyển nhượng hai đất trên đồng ý
để ông Đ thay mặt M Hoàng N2 hợp đồng đặt cọc. Do hai thửa đất
trên đang thế chấp tại ngân hàng nên Hoàng N2 M yêu cầu đặt cọc số
tiền 1.000.000.000đ để tất toán khoản vay. Ngày 06/4/2022 bà Lê Thị Tuyết N và
ông Nguyễn Xuân Đ giấy đặt cọc số tiền 1.000.000.000đ chuyển nhượng hai
thửa đất nêu trên. Cùng ngày Tuyết N chuyển khoản số tiền đặt cọc
1.000.000.00cho ông Đ. Sau khi nhận tiền, ông Đ đã chuyển số tiền này cho
chị Nguyễn Thị Hoàng N2 và chị Nguyễn Thị Hoàng M.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật dân sự quy định: “Đặt cọc
là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên
nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật giá trị khác
(sau đây gọi chung tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng”. Như vậy, theo quy định trên thì bà Tuyết N đặt cọc là
để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng đối với 02 thửa đất 4011
và 4012.
Qua xem xét quá trình giao kết thực hiện hợp đồng, thấy rằng: Tại Biên
bản lấy lời khai đối chất ngày 15/8/2022, Tuyết N thừa nhận “Do nhu cầu
mua đất Đ nên tôi thỏa thuận mua đất với ông Đ ông Đ trực tiếp điện thoại
cho tôi xuống xem đất ở T. Tuy nhiên, T quá xa nên có quay lại Thạnh M1
thỏa thuận mua 02 đất 4011, 4012 với ông Đ. Khi thỏa thuận mua bán đất
với ông Đ thì chị M mặt, chị M nói giá trị 1.500.000.000đ/lô chị M
gọi điện thoại cho chị N để chị N nói chuyện với tôi xin ông tiền cọc 01 tỷ để lấy
sổ trong Ngân hàng V1 D ra. Ngày 17/4/2022, tôi gọi điện thoại cho chị N phàn
nàn vviệc giá mua đất cao trình bày ngày 16/4/2022 rơi vào ngày thứ bảy nên
rời sang ngày 19/4/2022”. Qtrình giải quyết vụ án Tuyết N thừa nhận hợp
đồng đặt cọc do soạn rồi đưa cho ông Đ ký, số tiền đặt cọc do trực tiếp
chuyển khoản cho ông Đ.
Như vậy, có căn cứ xác định trong quá trình tham giao dịch giữa bà Tuyết N
với ông Đ, chị Hoàng N2, chHoàng M đã sự thỏa thuận thống nhất với
nhau về số tiền đặt cọc, giá chuyển nhượng, thời hạn giao kết hợp đồng chuyển
nhượng. Đồng thời, bà Tuyết N đã biết 02 thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của
các con ông Đ chị Hoàng N2 chị Hoàng M đang thế chấp tại Ngân hàng V
đồng ý để ông Đ thay mặt chị Hoàng N2 chị Hoàng M hợp đồng đặt cọc.
10
Do đó, bà Tuyết N cho rằng ông Đ không đủ cách về mặt chủ thể để hợp
đồng đặt cọc là không có cơ sở.
Căn cứ quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sthì hợp đồng đặt cọc ngày
06/4/2022 đã thỏa mãn đầy đủ các điều kiện hiệu lực của một giao dịch dân sự
nên hợp đồng này được xác định là hợp pháp, có hiệu lực buộc các bên phải thực
hiện. Việc bà Tuyết N từ chối kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
với chị Hoàng N2 chị Hoàng M với lý do giá đất chuyển nhượng quá cao là vi
phạm thỏa thuận đặt cọc, lỗi hoàn toàn thuộc về bà Tuyết N nên bà Tuyết N phải
chịu mất cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 328 của Bộ luật dân sự.
Đối với đoạn ghi âm có tên “Ghi âm 003” có độ dài 2 phút 36 giây (theo
Vi bằng ngày 17/02/2025 nguyên đơn cung cấp), Tuyết N cho rằng nội dung
nào chứng minh cho vụ án thì mới ghi âm, bị đơn không thừa nhận cho rằng
dữ liệu trên điện thoại thể hiện cuộc gọi điện thoại giữa Tuyết N ông Nguyễn
Xuân Đ lúc 8 gi11 phút ngày 03/5/2022 thời lượng 4 phút 57 giây nên nội
dung đã bị cắt xén. Qua xem xét Hội đồng xét xử thấy rằng: nội dung chính đoạn
ghi âm cũng chỉ thể hiện ông Đ nói với N là “Bây giờ chị cứ làm thẳng đơn
kiện mua bán” thì cũng không làm thay đổi bản chất của vụ án.
Từ những phân tích trên, không căn cứ để chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí:
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà N phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Lê Thị Tuyết N về
việc yêu cầu ông Nguyễn Xuân Đ phải chịu số tiền phạt cọc 1.000.000.000đ (Một
tỷ đồng).
2. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Thị Tuyết N, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của nguyên đơn Thị Tuyết N đối với bị
11
đơn ông Nguyễn Xuân Đ đối với yêu cầu trả lại tiền đặt cọc 1.000.000.000đ (Một
tỷ đồng) và yêu cầu phạt cọc 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng).
2.2. Về án phí:
Buộc Thị Tuyết N phải chịu 72.000.000đ án phí dân sự thẩm
300.000đ án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền 21.000.000đ đã
nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0002449 ngày 25/3/2024 300.000đ
theo Biên lai thu số 0002645 ngày 18/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Bà N còn phải nộp 51.000.000đ án phí.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Xuân Đ, chị Nguyễn Thị Hoàng N2, chị Nguyễn
Thị Hoàng M mỗi người 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo
Biên lai thu số 0009074, 0009073, 0009075 cùng ngày 09/11/2022 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng TTr,KT&THA (01);
- TAND huyện Đơn Dương (01);
- Chi cục THADS huyện Đơn Dương
(01);
- Đương sự (05);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Bản án số 19/2025/DS-PT Bản án số 19/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 19/2025/DS-PT Bản án số 19/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất