Bản án số 261A/2024/DS-PT ngày 28/08/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 261A/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 261A/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 261A/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 261A/2024/DS-PT ngày 28/08/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 261A/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Công ty cà phê Thắng L yêu cầu chấm dứt hợp đồng giao khoán |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
Bản án số: 261A/2024/DS-PT
Ngày: 23/8/2024
“V/v: Tranh chấp Hợp đồng thuê khoán tài sản
và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Huyền.
Các Thẩm phán: Bà Lưu Thị Thu Hường;
Bà Nguyễn Thị Hạnh Vân.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thanh Trang - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Bà Lê Thị Bích Thủy - Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 23 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 73/2024/TLPT-DS ngày 27/02/2024,
về việc: “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài
sản” do Bản án dân sự sơ thẩm số 88/2023/DS-ST ngày 21/12/2023 của Toà án nhân
dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 199/2024/QĐ-PT ngày
10/7/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 233/2024/QĐ-PT ngày 9/8/2024, giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần cà phê T; địa chỉ: Km 17, quốc lộ 26, xã Đ,
huyện P, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
thành viên.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Đình B, sinh năm
1957; địa chỉ: 65 đường D, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; có đơn xin xét
xử vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Hoàng Thị H; địa chỉ: Số nhà 63, thôn T, xã Đ, huyện P, tỉnh Đắk
Lắk; vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Ngô Trí Thái; địa chỉ: Số nhà
63, thôn T, xã Đ, huyện P, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
3. Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T và bị đơn bà Hoàng
Thị H.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa người đại
diện theo ủy quyền cho nguyên đơn ông Phạm Đình B trình bày:
Vào ngày 25/8/2011, bà Hoàng Thị H có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn
cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH một thành viên cà phê T
(nay là Công ty cổ phần cà phê T) để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối
trồng năm 1984 có mật độ: 3 x 3, diện tích cà phê mà bà H xin giao khoán là
10.080m
2
. Ngày 28/8/2011, bà Hoàng Thị H với Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn
vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 651/2011/HĐ-GK với nhau.
Theo hợp đồng thì bà H nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm
1984 của Công ty có diện tích 10.080m
2
và diện tích bờ lô 1.464m
2
. Địa điểm đất
giao khoán thửa đất số 57, tờ bản đồ số 15, thuộc đội N, địa chỉ: xã Đ, huyện P, tỉnh
Đắk Lắk. Nội dung giao khoán được nêu rõ tại Điều 1 của hợp đồng đó là: “1. Bên
A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu
hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê”. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán là
39.070.534đồng. Giá trị vườn cây còn lại là 22.545.887đồng. Thời gian giao khoán
là 5 năm, tính từ ngày ký kết hợp đồng, sau đó hai bên tiếp tục gia hạn đến hết niên
vụ 2020-2021. Sản lượng giao khoán hằng năm bà H nộp về Công ty như sau: Từ
niên vụ thu hoạch 2011-2012 đến 2015-2016 và niên vụ 2016-2017 đến niên vụ
2020-2021 nộp 2.408kg quả tươi/niên vụ; Tương ứng với 5,25 tạ nhân/ha/năm.
Từ khi nhận khoán vườn cây đến niên vụ cà phê 2017-2018 bà H đã thực hiện
nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện nghĩa vụ
giao nộp sản phẩm đầy đủ cho Công ty theo Hợp đồng đã ký kết.
Tuy nhiên, từ niên vụ thu hoạch cà phê 2018-2019 đến hết niên vụ 2020-2021,
bà H đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi cho Công ty
theo đúng cam kết trong Hợp đồng. Hợp đồng giao khoán giữa bà H với Công ty đã
hết hạn. Từ niên vụ 2021-2022 cho đến nay, Công ty đã thông báo nhiều lần yêu cầu
bà cùng Công ty thanh lý chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng bà không
đồng ý và chống đối không hợp tác với Công ty. Bà H đã chiếm giữ trái phép vườn
cây của Công ty, hưởng lợi từ vườn cây của Công ty từ niên vụ 2021-2022, niên vụ
2022-2023 và đến nay.
Ngoài ra theo thông báo của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk truy thu tiền thuê đất của
bà H (từ năm 2006 đến năm 2010; 2015 đến 2017) và tiền thuê đất 05 năm mà bà
chưa nộp (năm: 2018, 2019, 2020, 2021, 2022) tổng tiền mà bà phải nộp phần 49%
về Công ty là 8.051.089 đồng.
Ngoài ra trên diện tích mà bà H nhận khoán của Công ty, trong quá trình nhận
khoán đã tự ý chặt phá, chiếm đoạt 98 cây muồng đen được trồng năm 1984 mà
Công ty trồng để che bóng, chắn gió cho vườn cây, 98 cây muồng đen trồng năm
1984 có khối lượng gỗ quy tròn là 56m
3
.
Tại thời điểm bà H nhận khoán vườn cây cà phê của Công ty vào năm 2011 thì
vườn cây cà phê bà nhận khoán có 1.120 cây cà phê vối năm 1984 (khoảng cách cây
3
là 3x3) và 107 cây muồng đen trồng năm 1984. Trong quá trình nhận khoán thì đến
năm 2017 số lượng cây muồng đen còn 98 cây (Công ty có lập bản theo dõi theo bản
kiểm kê vườn cây cà phê, cây muồng đen và cây tiêu có đến 0h ngày 01/01/2017,
biên bản lập ngày 20/01/2017). Ngày 10/4/2019 và ngày 23/4/2019 bà H đã tự ý cắt
hạ 05 cây muồng đen mà không xin ý kiến của Công ty, vì vậy trên lô bà nhận khoán
còn 93 cây muồng đen trồng năm 1984 (theo biên bản kiểm kê vườn cây cà phê và
cây muồng đen năm 2019, biên bản lập ngày 17/12/2019).
Hiện nay vườn cây cà phê mà bà H nhận khoán còn khoảng 915 cây cà phê
trồng năm 1984 (vườn cây loại C); đối với 98 cây muồng đen trồng năm 1984 còn
lại (theo biên bản kiểm kê năm 2017) thì hiện không còn và đã bị bà H tự ý cắt và
chiếm đoạt (Công ty có lập biên bản về việc chủ lô tự ý cắt hạ cây muồng đen trên
lô khoán vào ngày 02/6/2021 do Công ty lập có xác nhận của Công an xã Đ; 02 biên
bản đề ngày 10/4/2019 và ngày 23/4/2019 do Công ty lập không có xác nhận của
Công an xã Đ).
Theo hợp đồng Công ty chỉ cho phép người nhận khoán được phép trồng xen
cây tiêu trên cây muồng đen còn các cây trồng khác Công ty không cho phép (Việc
không cho phép trồng là thực hiện theo hợp đồng và có thông báo của Công ty cụ
thể: Theo thông báo số 31/2015/TB-CT ngày 03/5/2015 và Thông báo số 42/TB-CT
ngày 09/6/2017 của Công ty TNHH MTV cà phê T..). Trong quá trình nhận khoán
vào năm 2019 bà H đã tự ý trồng 34 cây Sầu riêng ghép, năm 2020 tự ý trồng 16 cây
Sầu riêng ghép. Hết niên vụ 2020-2021 thì hợp đồng giao khoán giữa bà với Công
ty hết hạn. Công ty đã nhiều lần gửi thông báo cho bà và yêu cầu bà đến Công ty
thanh lý chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng bà không đồng ý, chống
đối không hợp tác với Công ty đồng thời chiếm giữ trái phép vườn cây của Công ty,
hưởng lợi từ vườn cây từ năm 2021 đến nay và bà đã tự ý trồng thêm cây trồng khác
trên đất mà không được sự cho phép của Công ty.
Do quyền, lợi ích hợp pháp của Công ty bị xâm phạm nên Công ty đã có đơn
khởi kiện bà Hoàng Thị H đến Tòa án. Nguyện vọng của Công ty đề nghị Tòa án
xem xét, giải quyết:
1. Buộc bà Hoàng Thị H phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 12.040kg cà phê
quả tươi còn nợ của 05 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022,
2022-2023). Chất lượng cà phê: Tỷ lệ cà phê quả chín: ≥ 85%; Tỷ lệ cà phê quả
vàng: ≤ 12%; Tỷ lệ cà phê quả xanh: ≤ 3%; Tỷ lệ tạp chất: ≤ 0,5%.
2. Buộc bà Hoàng Thị H phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T tiền thuê đất về
Công ty phần 49% của bà để Công ty nộp cho Cục thuế tỉnh Đắk Lắk với tổng tiền là
8.051.089 đồng. (Trong đó: Truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 là: 589.432
đồng; Truy thu tiền thuê đất từ năm 2015-2017 là: 2.417.152 đồng; Trả tiền thuê đất
các năm: năm 2018 là 1.010.651 đồng, năm 2019 là 1.009.356 đồng, năm 2020 là
1.008.166 đồng, năm 2021 là 1.008.166 đồng, năm 2022 là 1.008.166 đồng).
3. Buộc bà Hoàng Thị H phải đền bù thiệt hại cho Công ty cổ phần cà phê T do
hành vi chặt phá, chiếm đoạt 98 cây muồng đen trồng năm 1984 (cây muồng đen
Công ty trồng để che bóng, chắn gió cho vườn cây) với khối lượng gỗ tròn là
56,00m
3.
Theo kết quả định giá tài sản thì trị giá của 98 cây muồng đen trồng năm
1984 có giá là 258.720.000 đồng.
4
Tại phiên tòa hôm nay Công ty yêu cầu bà Hoàng Thị H phải bồi thường cho
Công ty thiệt hại phần 70% trị giá của 98 cây muồng đen trồng năm 1984 do bà đã
tự ý chặt hạ, chiếm đoạt với số tiền là 181.104.000 đồng.
Đối với số tiền còn lại 77.616.000 đồng phần 30% của bà H thì Công ty không
yêu cầu bà phải bồi thường và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Công ty Cổ phần
cà phê T xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 77.616.000 đồng.
4. Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 651/2011/HĐ-GK ngày
28/8/2011 giữa bà Hoàng Thị H với Công ty TNHH MTV cà phê T (Nay là Công ty
cổ phần cà phê T). Buộc bà Hoàng Thị H phải trả lại đất, vườn cây cà phê cho Công
ty với diện tích 10.080m
2
và diện tích bờ lô 1.464m
2
, tại thửa số 57, tờ bản đồ số 15,
thuộc đội N, địa chỉ thửa đất: xã Đ, huyện P, tỉnh Đắk Lắk. Có tứ cận: phía Bắc giáp
thửa 54 (người nhận khoán ông Nguyễn Hữu T); phía Nam giáp thửa 72 (người nhận
khoán ông Nguyễn Duyên S); phía Đông giáp thửa 56 (người nhận khoán bà Nguyễn
Thị H); phía Tây giáp thửa số 58 (người nhận khoán ông Trình Sỹ H).
Ngoài ra Công ty không yêu cầu gì thêm.
* Tại bản tự khai bị đơn bà Hoàng Thị H khai: Năm 2011 bà có ký hợp đồng
khoán gọn với Công ty TNHH MTV cà phê T. Đến tháng 8/2021 thì hết hạn hợp
đồng, từ năm 2011 đến năm 2017 thì đóng sản lượng đầy đủ tuy nhiên từ năm 2018
thì chưa đóng sản lượng cho Công ty. Nay Công ty khởi kiện thì không đồng ý với
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần cà phê T đối với bà. Lý do không
đồng ý là: Từ niên vụ 2018 do ảnh hưởng của thiên tai khiến sản lượng giảm sút
mạnh, cây cối thì già cỗi, sâu bệnh, đất trồng lâu năm bị thoái hóa biến chất (do phân
bón hóa học), Công ty giao khoán quá cao (so với các công ty khác)… Công ty
không xem xét miễn giảm các khoản phải nộp cho người nhận khoán mà lại căn cứ
vào hợp đồng để thực hiện và đơn phương chấm dứt hợp đồng giao khoán là không
phù hợp với thực tế. Vì vậy không đồng ý với toàn bộ nội dung khởi kiện của Công
ty.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 88/2023/DS-ST ngày 21/12/2023 của Toà án
nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều
227, Điều 228, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506, 507, 508, 510,
511 của Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là các Điều 385, 386, 389, 410, 483, 484,
485, 488, 489, 490, 492, 493 của Bộ luật dân sự 2015); Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của
Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số
102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn; Luật đất đai năm 2003;
Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
5
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà
phê T.
- Buộc bà Hoàng Thị H phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 12.040kg (Mười
hai nghìn không trăm bốn mươi kilogram) cà phê quả tươi còn nợ của 05 niên vụ
(2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022, 2022-2023). Chất lượng cà phê: Tỷ
lệ cà phê quả chín: ≥ 85%; Tỷ lệ cà phê quả vàng: ≤ 12%; Tỷ lệ cà phê quả xanh: ≤
3%; Tỷ lệ tạp chất: ≤ 0,5%.
- Buộc bà Hoàng Thị H phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T tiền thuê đất về
Công ty phần 49% của bà H để Công ty nộp cho Cục thuế tỉnh Đắk Lắk với tổng tiền
là 8.051.089 đồng (Tám triệu, không trăm năm mươi mốt nghìn, không trăm tám mươi
chín đồng). Trong đó: Truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 là: 589.432 đồng và
từ năm 2015-2017 là: 2.417.152 đồng; trả tiền thuê đất các năm: năm 2018 là
1.010.651 đồng, năm 2019 là 1.009.356 đồng, năm 2020 là 1.008.166 đồng, năm
2021 là 1.008.166 đồng, năm 2022 là 1.008.166 đồng.
- Buộc bà Hoàng Thị H phải bồi thường cho Công ty cổ phần cà phê T phần
70% giá trị 98 cây muồng đen, trồng năm 1984 bị cắt hạ là: 181.104.000 đồng (Một
trăm tám mươi mốt triệu, một trăm lẻ bốn nghìn đồng).
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 651/2011/HĐ-GK ngày
28/8/2011 đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà
phê T) với bà Hoàng Thị H.
+ Bà Hoàng Thị H có nghĩa vụ trả lại cho Công ty cổ phần cà phê T diện tích
đất 10.080m
2
và diện tích bờ lô 1.464m
2
, tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 15, thuộc
đội N, địa chỉ thửa đất: thuộc xã Đ, huyện P, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K
239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày
16/5/1997. Có tứ cận: phía Bắc giáp thửa 54 (người nhận khoán ông Nguyễn Hữu
T); phía Nam giáp thửa 72 (người nhận khoán ông Nguyễn Duyên S); phía Đông
giáp thửa 56 (người nhận khoán bà Nguyễn Thị H); phía Tây giáp thửa số 58 (người
nhận khoán ông Trình Sỹ H). Và tài sản trên đất bao gồm: 915 cây cà phê vối (trong
đó: 381 cây cà phê vối trồng năm 1984 (247 cây trồng năm 1984, 134 cây trồng năm
1984 được cưa cắt phục hồi), 443 cây cà phê vối trồng từ năm 1990 đến năm 2011,
75 cây cà phê vối trồng năm 2020, 15 cây cà phê vối trồng năm 2021, 01 cây cà phê
vối trồng năm 2022); 86 cây sầu riêng ghép (34 cây trồng năm 2019, 16 cây trồng
năm 2020, 17 cây trồng năm 2021, 19 cây trồng năm 2022), 83 cây tiêu (07 cây tiêu
trồng trên trụ sống, trồng năm 2015 và 76 cây tiêu trồng trên trụ bê tông, trồng năm
2021), 42 cây bơ ghép (Bơ 034) trồng năm 2018; 01 giếng đào (có đường kính 12m,
sâu 24m, xây thành cao 50cm có nắp đậy, giếng được đào vào năm 1996).
+ Buộc bà Hoàng Thị H phải tự di dời, tháo dở trước khi trả lại đất cho Công
ty đối với: 199 cây Mắc ca (trong đó: 149 cây trồng năm 2021, 50 cây trồng năm
2022), 19 cây sưa trồng năm 2021, 01 cây H mai trồng năm 2022, 55 cây cau trồng
năm 2022, 08 cây đu đủ trồng năm 2021, 05 cây chè xanh trồng năm 1993; 01 hệ
thống ống nước (loại ống nhựa Bình Minh phi 90, dài khoảng 85m được chôn ngầm
phục vụ cho công tác tưới tiêu vườn cây), 01 đường dây điện ba pha có chiều dài
56m (điện ba pha được kéo vào năm 2013) và 01 chòi rẫy khung gỗ, mái lợp ngói,
không đóng vách, diện tích 3,2m x 2,7m được xây dựng năm 2022.
6
Buộc Công ty cổ phần cà phê T phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị vườn cây
cho bà Hoàng Thị H với số tiền 202.199.916 đồng (Hai trăm lẻ hai triệu, một trăm
chín mươi chín nghìn, chín trăm mười sáu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần cà phê T
đối với bà Hoàng Thị H về việc yêu cầu bà Hoàng Thị H phải bồi thường cho Công ty
phần 30% trị giá của 98 cây muồng đen trồng năm 1984 bị chặt hạ, với số tiền là
77.616.000 đồng (Bảy mươi bảy triệu, sáu trăm mười sáu nghìn đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, tuyên quyền
kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án cho các đương sự theo quy định của pháp
luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/01/2024 nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê
T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với các nội dung: Công ty cổ phần cà phê T
không đồng ý thanh toán giá trị vườn cây đối với 86 cây sầu riêng ghép, 83 cây tiêu,
42 cây bơ ghép và 01 giếng đào cho hộ bà Hoàng Thị H. Yêu cầu cấp phúc thẩm xét
xử theo quy định.
Ngày 04/01/2024 bị đơn bà Hoàng Thị H có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với
các nội dung: Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm Huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm,
chuyển cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn và đại
diện theo ủy quyền của bị đơn được triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứa 2
nhưng vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa trình bày ý
quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử, Thẩm phán, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự;
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 308 và Điều 309 Bộ luật tố
tụng dân sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà
phê T, sửa một phần Bản án sơ thẩm 88/2023/DS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án
nhân dân huyện P, tỉnh Đắk Lắk theo hướng buộc bà Hoàng Thị H phải tự di dời,
tháo dở đối với cây trồng bà H tạo dựng trái phép trên đất gồm: 86 cây sầu riêng
ghép, 83 cây tiêu, 42 cây bơ ghép và 01 giếng đào. Đình chỉ kháng cáo của bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết
quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ, lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự và ý kiến
của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
7
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T
và kháng cáo của bị đơn bà Hoàng Thị H trong hạn luật định nên được thụ lý, giải
quyết theo trình tự phúc thẩm là đúng quy định.
Bị đơn bà Hoàng Thị H là người kháng cáo. Mặc dù, đã được triệu tập hợp lệ
tham gia phiên tòa phúc thẩm lần thứ 2 nhưng bà H và người đại diện theo ủy quyền
của bà H là ông Ngô Trí T vắng mặt không có lý do nên bị coi như từ bỏ việc kháng
cáo. HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà H là phù
hợp với quy định tại khoản 3 Điều 296; khoản 2 Điều 312 của BLTTDS.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T
không đồng ý thanh toán giá 86 cây sầu riêng ghép, 83 cây tiêu, 42 cây bơ ghép và
01 giếng đào cho hộ bà Hoàng Thị H, thấy rằng:
[2.1] Đối với cây tiêu, cây bơ ghép và giếng nước đào. Thấy rằng, tại điểm b
khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên
số 651/2011/HĐ-GK quy định “ …..trong lô cà phê chỉ có cây cà phê với cây muồng
đen, ngoài bờ lô được trồng xen tiêu leo trên cây muồng, không được trồng thêm
tiêu leo trên cây muồng đen trong lô cà phê”; tại Thông báo số 31/2015/TB-CT
ngày 03/5/2015 (BL 235), Công ty nghiêm cấm việc trồng thêm tiêu trong lô, đồng
thời nghiêm cấm việc trồng choái muồng, trụ bê tông, các cây trồng khác để trồng
tiêu, chỉ được trồng tiêu bám trên cây muồng đen xung quanh lô. Tại Thông báo số
41/TB-CT ngày 08/6/2017 về việc quản lý cây muồng đen trong và bờ lô cà phê
khoán gọn năm 2017 của Công ty có nêu: “ Chủ hộ phải tự chặt bỏ toàn bộ những
cây muồng đen, cây khác không phải là cây muồng đen…đã trồng hoặc để mọc tự
nhiên không đúng theo quy trình kỹ thuật đã ban hành”. Công ty thực hiện quyền
của bên giao khoán, kiểm tra, theo dõi phát hiện hộ bà H tự ý trồng các loại cây trồng
không được phép theo hợp đồng, Công ty đã lập biên bản về việc người nhận khoán
tự ý trồng xen các loại cây trồng khác không đúng quy trình của Công ty, biên bản
ngày 16/7/2021 (BL 211), biên bản ngày 21/8/2021 (BL 210), biên bản ngày
22/9/2022 (BL 209). Từ sau khi nhận khoán, bà H trồng 83 cây tiêu (trong đó có 07
cây tiêu trồng năm 2015 trên trụ sống, 76 bụi tiêu trồng năm 2021 trên trụ bê tông),
42 cây bơ năm 2018 khi không có sự đồng ý của Công ty là vi phạm cam kết tại
điểm b khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường
viên số 651/2011/HĐ-GK; tại điểm c khoản 2 Điều 2 của Hợp đồng Hợp đồng khoán
gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 651/2011/HĐ-GK quy định “ Khi
vào vụ tưới nước cho cà phê, công ty mở nước cho bên B tưới với diện tích tưới
mương, diện tích tưới mương công ty sẻ thu tiền khấu hao hồ đập kênh mương theo
đơn giá Hội nghị người lao đông quy định hàng năm”. Việc bà H đào giếng nước
trên đất nhận khoán là không phù hợp với nhu cầu sử dụng của Công ty. Do đó, cần
chấp nhận kháng cáo của Công ty, cần sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc bà H
phải lấp giếng nước, di dời cây tiêu, cây bơ ghép ra khỏi đất nhận khoán và Công ty
không có nghĩa vụ phải thanh toán giá trị cây tiêu, cây bơ ghép, giếng nước cho bà
H. Xét thấy, tại phiên tòa sơ thẩm Công ty đồng ý nhận và thanh toán cho bà H giá
trị cây tiêu, cây bơ ghép, giếng nước nên Bản án sơ thẩm tuyên buộc công ty phải
thanh toán giá trị các cây trồng trên là phù hợp, cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm do có
tình tiết mới, cấp sơ thẩm không có lỗi.
8
[2.2] Đối với cây sầu riêng, thấy rằng: Mặc dù, tại thời điểm giao kết hợp đồng
khoán gọn Công ty không cho phép hộ nhận khoán trồng xen cây sầu riêng. Tuy
nhiên, ngày 08/6/2018, Công ty ban hành Nghị quyết số 09/NQ-HĐTV về việc thống
nhất cho triển khai trồng xen cây sầu riêng trong lô cà phê khoán gọn; cùng ngày
08/6/2018, Công ty ban hành Thông báo số 50/TB-CT về chủ trương trồng xen cây
sầu riêng trong vườn cà phê khoán gọn và Quy trình số 01/QT-CT về trồng sen cây
sầu riêng trong vườn cà phê khoán gọn gửi đến các đơn vị sản xuất trồng trọt và các
hộ nhận khoán (từ BL 84-86) và Quyết định số 273/QĐ-TT-CCN ngày 03/7/2013
của Cục trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về việc ban hành
quy trình tái canh cây cà phê, áp dụng cho vườn cà phê vối có thể trồng xen cây cà
phê trong lô thay cây che bóng lâu dài trong vườn cà phê. Như vậy, bà H trồng 86
cây sầu riêng (trong đó, 34 cây trồng năm 2019, 16 cây trồng năm 2020, 17 cây trồng
năm 2021, 19 cây trồng năm 2022) là phù hợp với Nghị quyết, Thông báo và Quy
trình của Công ty nên bản án sơ thẩm buộc Công ty phải thanh toán giá trị 86 cây
sầu riêng ghép theo kết quả định giá tài sản ngày 21/9/2024 là 75.846.400đồng cho
bà H là có căn cứ. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Công ty.
[3] Như vậy, Công ty phải thanh toán cho bà H tổng 131.758.316đồng (trong
đó gồm: phần 49% giá trị cây cà phê là 55.911.916 đồng, giá trị 86 cây sầu riêng là
75.846.400đồng). Bà H phải thanh toán cho Công ty 12.040kg cà phê quả tươi cà
phê quả tươi còn nợ của 05 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022,
2022-2023) và tổng số tiền 189.155.089đồng (trong đó gồm: tiền thuê đất
8.051.089đồng, 70% giá trị 98 cây muồng đen 181.104.000 đồng). Xét các bên đều
có nghĩa vụ phải thanh toán cho nhau nhưng Bản án sơ thẩm không khấu trừ là thiếu
sót, cấp phúc thẩm cần khấu trừ bổ sung. Cụ thể: Bà H phải thanh toán cho Công ty
tổng 189.155.089đồng được khấu trừ vào số tiền Công ty phải thanh toán cho bà H
tổng 131.758.316đồng nên bà H còn phải thanh toán cho Công ty 57.396.773đồng
và 12.040kg cà phê quả tươi cà phê quả tươi.
[4] Từ những phân tích và nhận định trên, cần đình chỉ xét xử phúc thẩm đối
với kháng cáo của bà H và chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Công ty
cổ phần cà phê T theo hướng nhận định và phân tích trên.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản tổng
9.200.000đồng, do nguyên đơn nộp tạm ứng. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
được chấp nhận nên cần buộc bị đơn bà H phải chịu 9.200.000đồng. Nguyên đơn
được nhận lại 9.200.000đồng sau khi thu được của bà H, là phù hợp Điều 157, Điều
165 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[6] Về án phí:
[6.1] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được
chấp nhận nên bị đơn bà Hoàng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí không có giá
ngạch và 18.427.500đồng án phí có giá ngạch, theo mức: (179.396.000đồng +
8.051.089đồng + 181.104.000đồng) x 5% = 18.427.500đồng. Tổng cộng bà Hoàng
Thị H phải chịu 18.727.500 đồng (Mười tám triệu, bảy trăm hai mươi bảy nghìn,
năm trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Công ty phải thanh toán cho bà H 131.758.316đồng nên phải chịu 6.588.000đồng
(55.911.916đồng + 75.846.400đồng) x 5% = 6.588.000đồng. Khấu trừ vào số tiền
9
tạm ứng án phí 8.515.000đồng mà Công ty đã nộp, hoàn trả lại cho Công ty số tiền
tạm ứng án phí 1.927.000đồng theo biên lai thu số AA/2021/0016676 ngày
28/11/2022 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện P.
[6.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên
nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T, không phải chịu án phí DSPT. Số tiền
300.000đồng Công ty cổ phần cà phê T nộp tạm ứng phúc thẩm theo biên lai số
AA/2023/0005503, ngày 11/01/2024 tại Chi cục thi hành án huyện P được khấu trừ
vào án phí DSST. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà H do triệu
tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt không lý do nên bà H phải chịu 300.000đồng án
phí DSPT được khấu trừ số tiền 300.000đồng bà H nộp tạm ứng theo biên lai số
AA/2023/0005514, ngày 16/01/2024 tại Chi cục thi hành án huyện P.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 296; khoản 2 Điều 312; khoản 2 Điều 308 và Điều 309
của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 26, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Hoàng Thị
H.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 88/2023/DS-ST ngày 21/12/203 của Toà án nhân dân
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà
phê T.
[1.1] Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 651/2011/HĐ-GK
ngày 28/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê
T) với bà Hoàng Thị H.
[1.2] Buộc bà Hoàng Thị H có nghĩa vụ trả lại cho Công ty cổ phần cà phê T
diện tích đất 10.080m
2
, diện tích bờ lô 1.464m
2
, tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 15,
thuộc đội N, địa chỉ thửa đất: thuộc xã Đ, huyện P, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ
số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày
16/5/1997. Đất có tứ cận: Phía Đông giáp thửa 56 (người nhận khoán bà Nguyễn Thị
H), phía Tây giáp thửa số 58 (người nhận khoán ông Trình Sỹ H), phía Nam giáp
thửa 72 (người nhận khoán ông Nguyễn Duyên S), phía Bắc giáp thửa 54 (người
nhận khoán ông Nguyễn Hữu T) và tài sản trên đất bao gồm: 915 cây cà phê vối
(trong đó: 381 cây cà phê vối trồng năm 1984, 247 cây trồng năm 1984, 134 cây
trồng năm 1984 được cưa cắt phục hồi, 443 cây cà phê vối trồng từ năm 1990 đến
năm 2011, 75 cây cà phê vối trồng năm 2020, 15 cây cà phê vối trồng năm 2021, 01
10
cây cà phê vối trồng năm 2022); 86 cây sầu riêng ghép (34 cây trồng năm 2019, 16
cây trồng năm 2020, 17 cây trồng năm 2021, 19 cây trồng năm 2022).
[1.3] Buộc bà Hoàng Thị H phải di dời, tháo dở, san lấp trước khi trả lại đất
cho Công ty đối với: 83 cây tiêu (07 cây tiêu trồng trên trụ sống, trồng năm 2015 và
76 cây tiêu trồng trên trụ bê tông, trồng năm 2021), 42 cây bơ ghép (Bơ 034) trồng
năm 2018; 199 cây Mắc ca (149 cây trồng năm 2021, 50 cây trồng năm 2022), 19
cây sưa trồng năm 2021, 01 cây H mai trồng năm 2022, 55 cây cau trồng năm 2022,
08 cây đu đủ trồng năm 2021, 05 cây chè xanh trồng năm 1993; 01 giếng đào (có
đường kính 1,2m, sâu 24m, xây thành cao 50cm có nắp đậy, giếng được đào vào
năm 1996); 01 hệ thống ống nước (loại ống nhựa Bình Minh phi 90, dài khoảng 85m
được chôn ngầm phục vụ cho công tác tưới tiêu vườn cây), 01 đường dây điện ba
pha có chiều dài 56m (điện ba pha được kéo vào năm 2013) và 01 chòi rẫy khung
gỗ, mái lợp ngói, không đóng vách, diện tích 3,2m x 2,7m được xây dựng năm 2022.
[1.4] Buộc bà Hoàng Thị H phải thanh toán cho Công ty cổ phần cà phê T
12.040kg (Mười hai nghìn không trăm bốn mươi kilogram) cà phê quả tươi còn nợ
của 05 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022, 2022-2023), chất
lượng cà phê: Tỷ lệ cà phê quả chín: ≥ 85%; Tỷ lệ cà phê quả vàng: ≤ 12%; Tỷ lệ cà
phê quả xanh: ≤ 3%; Tỷ lệ tạp chất: ≤ 0,5% và tổng số tiền 189.155.089đồng (Một
trăm tám mươi chín triệu, một trăm năm lăm nghìn, không trăm tám mươi chín nghìn
đồng). Trong đó, tiền thuê đất là 8.051.089đồng, phần 70% giá trị 98 cây muồng đen,
là 181.104.000 đồng.
[1.4] Buộc Công ty cổ phần cà phê T phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị vườn
cây cho bà Hoàng Thị H với tổng số tiền 131.758.316đồng (Một trăm ba mươi mốt
triệu bảy trăm năm mươi tám nghìn ba trăm mười sáu đồng). Trong đó, phần 49%
giá trị cây cà phê là 55.911.916 đồng, giá trị 86 cây sầu riêng là 75.846.400đồng.
Sau khi khấu trừ nghĩa vụ cho nhau, buộc bà Hoàng Thị H còn phải thanh toán
cho Công ty Cổ phần cà phê T 12.040kg (Mười hai nghìn không trăm bốn mươi
kilogram) cà phê quả tươi cà phê quả tươi và 57.396.773đồng (Năm mươi bảy triệu
ba trăm chín mươi sáu nghìn bảy trăm bảy mươi ba đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
[2] Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần cà phê T đối với
bà Hoàng Thị H về việc yêu cầu bà Hoàng Thị H phải bồi thường cho Công ty phần
30% trị giá của 98 cây muồng đen trồng năm 1984 bị chặt hạ, với số tiền là 77.616.000
đồng (Bảy mươi bảy triệu, sáu trăm mười sáu nghìn đồng).
[3] Về chi phí tố tụng: Buộc bà Hoàng Thị H phải trả cho Công ty cổ phần cà
phê T 9.200.000 đồng (Chín triệu hai trăm nghìn đồng) tiền chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ và chi phí định giá tài sản.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
11
- Bà Hoàng Thị H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí không
có giá ngạch và 18.427.500đồng án phí có giá ngạch, theo mức: (179.396.000 đồng
+ 8.051.089 đồng + 181.104.000 đồng) x 5% = 18.427.500 đồng. Tổng cộng bà
Hoàng Thị H phải chịu 18.727.500 đồng (Mười tám triệu, bảy trăm hai mươi bảy
nghìn, năm trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Công ty Cổ phần cà phê T phải chịu 6.588.000đồng (55.911.916đồng +
75.846.400đồng) x 5% = 6.588.000đồng. Khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí
8.515.000 đồng mà Công ty đã nộp, hoàn trả lại cho Công ty số tiền tạm ứng án phí
1.927.000đồng (Một triệu chín trăm hai mươi bảy nghìn đồng) theo biên lai thu số
AA/2021/0016676 ngày 28/11/2022 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện P.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T, không
phải chịu án phí DSPT được nhận lại số tiền 300.000đồng Công ty cổ phần cà phê
T nộp tạm ứng theo biên lai số AA/2023/0005503, ngày 11/01/2024 tại Chi cục thi
hành án huyện P được khấu trừ vào án phí DSST.
Buộc bị đơn bà Hoàng Thị H phải chịu số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn
đồng), bà H được khấu trừ số tiền 300.000đ đã nộp tạm ứng theo biên lai số
AA/2023/0005514, ngày 16/01/2024 tại Chi cục thi hành án huyện P.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS huyện P; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Thị Thanh Huyền
12
Tải về
Bản án số 261A/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 261A/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 10/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 08/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm