Bản án số 180/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 180/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 180/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 180/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Phương Tr; giữ nguyên Quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 180/2025/DS-PT
Ngày: 23 - 4 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng giao khoán và
Yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nhung
Các thẩm phán: Bà Lưu Thị Thu Hường
Ông Nguyễn Sỹ Thành
- Thư ký phiên tòa: Ông Hoàng Vấn - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng4 năm 2025, Tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 64/2025/DS-PT ngày 06 tháng 01 năm
2025, về việc kiện “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và Yêu cầu bồi thường thiệt hại
về tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của Tòa án
nhân dân huyện K bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa ván ra xét xử số: 148/2025/QĐXX-PT ngày 10/03/2025
Quyết định hoãn phiên tòa số 158/2025/QĐ-PT ngày 08/04/2025, giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: ng ty cổ phần T;
Địa chỉ: Km 17, QL 26, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đ Hoàng P – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Đình B - sinh năm 1957.
Địa chỉ: 65 Trần D, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Phương Tr sinh năm 1972;
Đại chỉ: Thôn 19/5, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk có mặt.
3. Người kháng nghị, kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Phương Tr.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa người đại
diện theo ủy quyền cho nguyên đơn ông Phạm Đình B trình bày:
Ngày 27/8/2011, ông Nguyễn Phương Tr ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây
phê cho hộ nông trường viên số 1233/2011/HĐ-GK với công ty TNHH MTV
phê T để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1994 của Công ty có
diện tích 8.250 m2 và diện tích bờ lô 1.198 m2, thửa đất số 86, tờ bản đồ số 20, thuộc
đội Nam Thắng 3, địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nội dung giao khoán được
nêu rõ: Tại Điều 1 của hợp đồng đó là: “1. Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên
B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu hoạch giao nộp sản phẩm phê”. Nguyên
giá vườn cây khi nhận khoán giá là: 45.003.408 đồng, giá trị vườn cây còn lại:
28.142.867 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, người nhận khoán
góp 49%. Thời gian giao khoán 10 năm, tính từ ngày ký kết hợp đồng. Sản lượng
giao khoán hằng năm ông Nguyễn Phương Tr phải nộp về công ty theo Hợp đồng
giao khoán cụ thể như sau: Từ niên vụ thu hoạch 2011-2012 đến niên vụ 2014-2015
phải nộp 2.628 kg quả tươi/niên vụ; Tương ứng với 7,00 tạ nhân/ha/năm; Từ niên vụ
thu hoạch 2015-2016 đến niên vụ 2017-2018 phải nộp 2.346 kg quả tươi/niên vụ;
Tương ứng với 6,25 tạ nhân/ha/năm; Từ niên vụ thu hoạch 2018-2019 đến niên vụ
2020-2021 phải nộp 2.065 kg quả tươi/niên vụ; Tương ứng với 5,50 tạ nhân/ha/năm.
Từ khi nhận vườn cây đến niên vụ cà phê 2017-2018, ông Nguyễn Phương Tr
đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của công ty thực hiện
nghĩa vụ giao nộp sản phẩm đầy đủ trong theo Hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký
với công ty. Tuy nhiên, từ niên vụ thu hoạch phê 2018 2019 đến niên vụ 2022-
2023, ông Nguyễn Phương Tr đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩmphê
quả tươi cho công ty theo đúng cam kết trong Hợp đồng mà còn chặt phá, chiếm đoạt
cây muồng đen Công ty trồng đche bóng, chắn gió cho vườn cây 29 cây trồng
năm 1994, khối lượng 12,84 m3. Ngoài ra, theo thông báo của cục thuế tỉnh tiền truy
thu tiền thuê đất từ 2006 đến năm 2010; 2015 đến 2017, tiền thuê đất 6 năm từ 2018,
2019, 2020, 2021, 2022, 2023 là: 7.414.570 đồng. Ông còn nợ tiền khấu hao kênh
mương, hồ đập của Công ty từ năm 2018 đến 2021.
Mặc dù công ty đã động viên, thông báo nhiều lần nhưng ông Nguyễn Phương
Tr vẫn cố tình chống đối, không hợp tác với công ty. Việc làm này của ông Nguyễn
Phương Tr vi phạm hợp đồng đối với Công ty, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi
ích hợp pháp và tài sản của công ty. Vì những lý do trên, Công ty làm đơn khởi kiện
đề nghị Toà án giải quyết:
- Căn cứ, điểm f khoản 1 Điều 2, điểm c, g khoản 2 Điều 3; khoản 5 Điều 6
Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê cho hộ nông trường viên số 1233/2011/HĐ-
GK ngày 27/8/2011. Tuyên chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ
3
nông trường viên số 1233/2011/HĐ-GK giữa Công ty TNHH một thành viên Cà phê
T (Nay Công ty cổ phần T) với ông Nguyễn Phương Tr; Buộc Ông Nguyễn Phương
Tr phải trả lại toàn b đất, vườn cây phê cho Công ty cổ phần T với diện tích
8.250 m2 và diện tích bờ lô 1.198 m2, thửa đất số 86, tờ bản đồ số 20, thuộc đội Nam
Thắng 3, địa chỉ H, huyện K,tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do
UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty cổ phần T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ
cận: Phía Bắc giáp: Thửa số 75, tờ bản đồ số 20, người nhận khoán: Ông Trần Văn
Vượng; Phía Nam giáp: Thửa số 19, tờ bản đồ số 21, người nhận khoán: Bà Nguyễn
Thị Minh Tuyết; Phía Đông giáp: Thửa số 87, tờ bản đồ số 20, người nhận khoán:
Ông Trần Văn Nam; Phía Tây giáp: Thửa số 85, tờ bản đồ số 20, người nhận khoán:
Ông Chính Hòa. Buộc ông di dời toàn bộ cây trồng xen Công ty không cho
phép ông trồng ra khỏi vườn cây trước khi trả đất, vườn cây cho Công ty.
- Căn cứ khoản 3, 4, 5 Điều 1, điểm c khoản 2 Điều 3 hợp đồng giao khoán số
1233/2011/HĐ-GK. Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải trả cho Công ty cổ phần T là:
11.537 kg phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ (2018 2019 ; 2019-2020; 2020-
2021; 2021-2022; 2022-2023; 2023-2024), cụ thể như sau: Niên vụ 2018-2019 là:
1.212 kg x 14.800 đ/kg = 17.937.600 đồng; Niên vụ 2019-2020 là: 2.065 kg x 14.800
đ/kg = 30.562.000 đồng; Niên vụ 2020-2021 là: 2.065 kg x 14.800 đ/kg = 30.562.000
đồng; Niên vụ 2021-2022 là: 2.065 kg x 14.800 đ/kg = 30.562.000 đồng; Niên vụ
2022-2023 là: 2.065 kg x 14.800 đ/kg = 30.562.000 đồng; Niên vụ 2023-2024 là:
2.065 kg x 14.800 đ/kg = 30.562.000 đồng .
- Căn cứ điểm g khoản 2 điều 3 Hợp đồng số 1233/2011/HĐ; hợp đồng hợp
tác đầu phân chia sản phẩm, Thông báo s43/CT-THNVDT ngày 08/01/2018
các thông báo từ năm 2019-2023 của cục thuế tỉnh Đăk Lăk. Buộc ông Nguyễn
Phương Tr phải nộp tiền thuê đất về công ty Phần 49% để công ty nộp cho cục thuế
tỉnh Đăk Lăk là: 7.414.570 đồng. Trong đó: Truy thu tiền thuê đất 2006 - 2010 là:
482.422 đồng, bao gồm: Truy thu tiền thuê đất 2015 - 2017 là 1.978.324 đồng; Tiền
thuê đất năm 2018 827.170 đồng; năm 2019 826.110 đồng; năm 2020 825.136
đồng; năm 2021 là 825.136 đồng; năm 2022 là 825.136 đồng; năm 2022 là 825.136
đồng.
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải trả cho Công ty cổ phần T tiền khấu hao
kênh mương hồ đập tưới cho vườn phê từ năm 2018 đến năm 2021 1.237.500
đồng.
- Căn cứ khoản 1 Điều 6 hợp đồng khoán gọn, Điều 30 nội quy, quy chế Công
ty; Buộc Ông Nguyễn Phương Tr phải bồi thường thiệt hại do hành vi chặt phá, chiếm
đoạt cây muồng đen Công ty trồng để che bóng, chắn gió cho vườn cây là 29 cây trồng
năm 1994; khối lượng 12,84 m3.
4
* Quá trình tố tụng tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Phương Tr trình
bày:
Tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty. Tôi không ký kết bất cứ
hợp đồng nào với Công ty cổ phần T. Tôi chỉ ký hợp đồng với Công ty TNHH MTV
cà phê T, thời hạn hợp đồng là 30 năm, tính đến nay thì chưa hết hạn hợp đồng. Yêu
cầu khởi kiện của Công ty cổ phần T về việc buộc tôi phải nộp tiền khâu hao kênh
mương không sở. Đối với yêu cầu của Công ty về việc buộc tôi phải bồi
thường thiệt hại 29 cây muồng trồng năm 1994 là không có cơ sở. Do toàn bộ số cây
muổng trên là do tôi tự trồng, tự chămc.
Theo Nghị định 135 của Chính phủ thì người trực tiếp canh tác trên hợp đồng
được toàn quyền thừa hưởng các cây trồng xen trên đất. Hiện tôi đang đợi kết quả
thanh tra chính phủ nên tôi sẽ không cho Tòa án thẩm định, định giá. Tôi đề nghị Tòa
án tạm đình chỉ vụ án, khi nào kết luận của thanh tra Chính phủ thì tôi sẽ hợp tác
để Tòa án tiến hành thẩm định và định giá lô nhận khoán.
Tại bản án dân sự sơ thm số: 71/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Krông Pắc đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều
244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 388, 390, 392, khoản 1, 3, 7, 8 Điều 409, 412, 414, 501, 502,
503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự
năm 2015;
Áp dụng Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005
của Chính phủ;
Áp dụng Thông số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn;
Áp dụng Luật đất đai năm 2003;
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần T.
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải trả cho Công ty cổ phần T 11.537 kg (Mười
một ngàn năm trăm ba bảy kilogram) cà phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ 2018
2019; 2019 2020; 2020 - 2021; 2021 2022; 2022 2023; 2023 2024.
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải nộp tiền truy thu tiền thuê đất các năm
2006-2010; 2015-2017; tiền thuê đất 06 năm t2018-2023 cho Công ty cổ phần T,
5
phần 49% là 7.414.570 đồng (Bảy triệu bốn trăm mười bốn ngàn năm trăm bảy mươi
đồng).
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải trả cho Công ty cổ phần T tiền khấu hao
kênh mương, hồ đập từ năm 2018-2020 1.237.500 đồng (Một triệu hai trăm ba mươi
bảy ngàn năm trăm đồng).
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải bồi thường cho Công ty cổ phần T 51%
giá trị 29 cây muồng đen, trồng năm 1994 bị cắt hạ là: 30.253.608 đồng (Ba ơi
triệu hai trămm ba ngàn sáu trăm lẻ tám đồng).
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số
1233/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công
ty cổ phần T) và ông Nguyễn Phương Tr.
Ông Nguyễn Phương Tr nghĩa vụ trả lại cho Công ty cổ phần T diện tích đất
8.250 m2 và diện tích bờ lô 1.198 m2, thửa đất số 86, tờ bản đồ số 20, thuộc đội Nam
Thắng 3, địa chỉ: H, huyện K,tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ sK 239519, do
UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty cổ phần T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ
cận: Phía Đông giáp thửa số 87, TBĐ 20, người nhận khoán ông Trần Văn N; Phía
Tây giáp thửa số 85, TBĐ 20, người nhận khoán ông Chính H; Phía Nam giáp
thửa số 19, TBĐ 21, người nhận khoán bà Nguyễn Thị Minh T; Phía Bắc giáp thửa
75, TBĐ 20, người nhận khoán ông Trần Văn V và tài sản trên đất bao gồm: 832 cây
cà phê Vối trồng năm 1994.
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải tự di dời, tháo dỡ, nhổ bỏ tài sản trên đất
trước khi trả lại đất cho Công ty cổ phần T đối với: 38 cây Tiêu trồng năm 2018; 40
cây Sầu riêng trồng năm 2018; 20 cây Dổi trồng năm 2019; 360m dây Kẽm gai; 30
trụ bê tông cao 1,6m.
- Buộc Công ty cổ phần T phải thanh toán cho ông Nguyễn Phương Tr 49% giá
trị vườn cây cà phê là 91.848.638 đồng (Chín mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi tám
ngàn sáu trăm ba mươi tám đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều
468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc
ông Nguyễn Phương Tr phải bồi thường cho Công ty cổ phần T 49% giá trị của 29
cây muồng đen trồng năm 1994 bị cắt hạ là 29.067.192 đồng
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo, chi phí tố tụng, án phí, về trình tự
thủ tục thi hành án dân sự cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
6
Ny 10/10/2024, bị đơn ông Nguyễn Phương Tr nộp đơn kháng cáo với nội
dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn vắng mặt nhưng đã có văn bản trình
bày quan điểm vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện cũng như giữ nguyên quan điểm
như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phía bị đơn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày trong quá trình
giải quyết vụ án và nội dung đơn kháng cáo.
Qua phần tranh luận, Kiểm sát viên ý kiến: Do đơn kháng cáo của bị đơn
ông Nguyễn Phương Tr không căn cứ pháp nên đnghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Ttụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Phương Tr, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
71/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời trìnhy của các bên
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về ttụng: Đơn kháng cáo của bị đơn trong hạn luật định, đã nộp tiền
tạm ứng án phín vụ án được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: Xét đơn kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1] Khi ký kết Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số: 1233/2011/HĐ-GK
ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV pT (nay Công ty cổ phần T)
ông Nguyễn Phương Tr cả hai bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đủ năng lực trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Do đây hợp đồng song vụ khi kết
không vi phạm pháp luật nên giá trị pháp làm phát sinh quyền nghĩa vụ
giữa các bên.
Sau khi kết hợp đồng nhận vườn cây đến niên v2017-2018 ông Nguyễn
Phương Tr đã thực hiện các nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định và giao
nộp sản phẩm đầy đủ theo đúng hợp đồng hai bên đã kết. Đến niên vụ 2018 - 2019;
2019-2020; 2020-2021; 2021-2022; 2022-2023; 2023-2024 ông Nguyễn Phương Tr
đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp sản lượng cho công ty nên đã vi phạm quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 3 của Hợp dồng khoán gọn vườn cây phê số
1233/2011/HĐ-GK ny 27/8/2011, có nội dung: "Nghĩa vụ của bên B (ông Tr) thực
hiện nộp sản lượng cho bên A theo quy định... "và theo quy định tại khoản 5 Điều 6
của hợp đồng nội dung: "Trong quá tnh thực hiện hợp đồng bên B không hoàn
thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm cà phê theo định mức hàng năm thì bên A có quyền
7
áp dụng biện pháp cần thiết để thu hồi nợ đơn phương chấm dứt hợp đồng giao
khoán...". Do đó, Công ty khởi kiện yêu cầu ông Tr phải trả cho công ty 11.537 kg cà
phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ trên là có căn cứ, cần chấp nhận.
[2.2] Xét năm 2006 - 2010; m 2015 - 2017 06 năm từ 2018 đến năm 2023,
ông Tr chưa nộp tiền thuê đất cho Công ty để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê
đất vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. Theo quy định trong hợp
đồng hai bên đã ký kết Tại điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn, về phần
nghĩa vụ của bên B nội dung: Bên B có nghĩa vụ nộp tiền thuê đất, thuế đất nông
nghiệp cho Nhà nước, theo tỷ lệ 51 49%, phần bên B chịu 49% nộp vào tháng 11
trong năm thông qua n A”, cũng như Thông báo số 43/CT-THNVDT ngày 08/1/2018
của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk về việc truy thu tiền thuê đất đã miễn sai đối tượng theo kết
luận của Kiểm toán Nhà nước thì từ năm 2003 2010 (05 năm) tiền thuê đất được tính
1.042.067 đ/ha; Thông báo số 802/TB-CT ngày 24/4/2018 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk;
Thông báo số 984/TB-CT ngày 07/5/2019 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk về việc nộp tiền
thuê đất, thuê mặt nước thì năm 2015 tiền thđất được tính 699.849đ/ha, từ năm 2016
đến năm 2017 tiền thuê đất được tính 1.786.408đ/ha/năm, từ năm 2018 đến năm 2019
tiền thuê đất được tính 1.786.748đ/ha/năm; Thông báo số 695/TB-CT ngày 23/3/2020
tiền thuê đất được tính 1.785.408đ/ha; Thông báo số 1252/TB-CT ngày 29/4/2021 tiền
thuê đất được tính 1.785.408đ/ha; Thông báo số 1123/TB-CT ngày 29/4/2022 tiền thuê
đất được tính 1.785.408đ/ha; Thông báo số 2447/TB-CT ngày 28/4/2023 tiền thuê đất
được tính 1.785.408đ/ha. Thì dựa vào diện tích nhận khoán diện tích đất bờ lô và c
Thông báo thuế thì ông Trịnh phải có nghĩa vụ nộp tiền thuê đất. Nên việc Tòa án cấp
thẩm buộc ông Tr phải nộp tiền thuê đất cho Công ty phần 49% với số tiền
7.414.570 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.3] Theo quy định tại Điều 2, Điều 3 của hợp đồng khoán gọn nêu: Khi
vào vụ tưới nước cho phê, Công ty mở nước cho bên B tưới với diện tích tưới
mương. Diện tích tưới mương Công ty sẽ thu tiền khấu hao hồ đập kênh mương theo
đơn giá quy định tại hội nghị người lao động hằng nămĐối với diện tích tưới
nước trên hệ thống hồ đập, kênh mương của Công ty thì phải nộp tiền khấu hao hồ
đập kênh mương cho bên A theo đơn giá quy định tại hội nghị người lao động hằng
năm” và nội dung thỏa thuận trong phương án khoán gọn thì ông Nguyễn Phương Tr
phải thanh toán tiền khấu hao kênh mương, hồ đập cho công ty. Do chưa thanh toán
nên căn cứ yêu cầu khởi kiện và nội dung thay đổi yêu cầu khởi kiện Tòa án sơ thẩm
đã tuyên buộc ông Nguyễn Phương Tr phải thanh toán cho cho Công ty tiền khấu hao
kênh mương, hồ đập từ năm 2018 đến năm 2020 là: 500.000đồng/ha x 8.250 m
2
x 03
năm = 1.237.500 đồng là phù hợp.
8
[2.4] Theo biên bản kiểmvườn cây được lập vào ngày 06/8/2008, có chữ ký
của ông Tr thể hiện trên lô cà phê nhận khoán của ông Tr có 118 cây muồng đen của
Công ty. Do ông Tr t ý cắt hđối với 29 y muồng đen trên diện tích đất nhận khoán
vi phạm hợp đồng đã kết nên việc Công ty yêu cầu ông Tr phải bồi thường cho
Công ty cổ phần T 51% giá trị y muồng đen là n cứ. Ông Tr cho rằng oàn bộ số
cây muồng đen nêu trên là do ông Tr trồng chăm sóc, sau đó bị mất trộm, không
phải do bđơn chặt hạ nhưng không chứng cứ chứng minh. Việc Công ty khởi kiện
yêu cầu ông Nguyễn Phương Tr phải thanh toán 51% giá trị 29 cây muồng theo kết
quả định giá của Hội đồng định giá ngày 23/8/2024
giá: 12,84m
3
x 4.620.000đ/m
3
=
59.320.800 đồng. Chia theo tỷ lệ 51%-49%, buộc ông Tr phải bồi thường cho Công ty
phần 51% giá trị là: 30.253.608 đồng có cơ sở.
[2.5] Việc ông Tr không đóng sản lượng cho Công ty; không nộp tiền thuê đất
phần 49%; không nộp tiền chi phí khấu hao kênh mương cho Công ty là vi phạm hợp
đồng khoán gọn đã kết, lỗi hoàn toàn thuộc về ông Tr; đồng thời, theo Hợp đồng
khoán gọn thời hạn giao khoán 10 năm, nh từ ngày kết hợp đồng (ngày
27/8/2011). Sau khi hết hạn hợp đồng ông Tr không tiếp tục ký kết hợp đồng giao
khoán chiếm dụng vườn cây là đã vi phạm quy định tại điểm f khoản 1 Điều 2 của
Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê số 1233/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa
ông Nguyễn Phương Tr với Công ty TNHH MTV phê T nên việc Công ty khởi
kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng, buộc ông Nguyễn Phương Tr phải trả lại cho Công
ty cổ phần T diện tích đất 8.250 m
2
và diện ch b1.198 m
2
, thửa đất số 86, tờ bản
đồ số 20, thuộc đội Nam Thắng 3, địa chỉ: xã H, huyện K,tỉnh Đắk Lắk có căn cứ
nên cần chấp nhận.
Đối với việc giải quyết hậu quả khi chấm dứt hợp đồng giao khoán:
Trong hợp đồng hai n không thỏa thuận về mức độ khấu hao tài sản nên khi
chấm dứt hợp đồng giao khoán, Công ty nghĩa vụ thanh toán lại phần 49% giá trị
vườn cây cà phê cho ông Tr. Theo kết quả định giái sản ngày 23/8/2024 thì 832 cây
trồng năm 1994 có g 187.446.200 đồng. Công ty cổ phần T phải thanh toán cho ông
Tr 49% giá trị vườn cây phê, cụ thể: 187.446.200 đồng x 49% = 91.848.638 đồng.
Ngoài ra, Công ty không cho phép ông Tr trồng xen các loại cây khác tạo
lập vật kiến trúc trên đất. Tại thời điểm hợp đồng hai bên hoàn toàn tự nguyện, khi
hợp đồng ông Tr đủ năng lực hành vi dân sự, hợp đồng được kết đúng quy
định của pháp luật nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng ông Tr đã cố ý trồng các loại cây trồng khác tạo lập vật kiến trúc
không đúng thảo thuận trong hợp đồng đã lỗi hoàn toàn của ông Tr. Công ty
không đồng ý nhận lại những tài sản này. Do vậy, cần buộc ông Tr phải chặt bỏ hoặc
tháo dỡ, di dời các loại cây trồng và vật kiến trúc gồm 38 cây Tiêu trồng năm 2018;
9
40 cây Sầu riêng trồng năm 2018; 20 cây Dổi trồng năm 2019; 360m dây Kẽm gai;
30 trụ bê tông cao 1,6m do ông Tr cố ý tạo lập không đúng như hợp đồng đã ký.
Về cách pháp nhân của Công ty, việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
Công ty TNHH MTV phê T sang Công ty cổ phần T đã được thực hiện được
Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng lý doanh
nghiệp Công ty cổ phần đăng thay đổi lần thứ 5 ngày 09/10/2019, hiện nay chưa
bị cơ quan có thẩm quyền nào hủy bỏ tư cách pháp nhân. Do vậy, Công ty cổ phần T
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự đối với hợp đồng nhận khoán vườn cây của
ông Tr.
Do đó, yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Phương Tr không có căn cứ
để chấp nhận, cần giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm là phù hợp.
[3]. V án p phúc thẩm: Ông Nguyễn Phương Tr phải chịu án p phúc thẩm theo
quy định của pp lut.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Phương Tr; giữ nguyên
Quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số: 71/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của Tòa
án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
- Căn cứ Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều
244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 388, 390, 392, khoản 1, 3, 7, 8 Điều 409, 412, 414, 501, 502,
503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự
năm 2015;
- Áp dụng Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005
của Chính phủ;
- Áp dụng Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn;
- Áp dụng Luật đất đai năm 2003;
- Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần T.
10
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải trả cho Công ty cổ phần T 11.537 kg (Mười
một ngàn năm trăm ba bảy kilogram) phê quả tươi còn nợ của 06 niên vụ 2018
2019; 2019 2020; 2020 - 2021; 2021 2022; 2022 2023; 2023 2024.
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải nộp tiền truy thu tiền thuê đất các năm
2006-2010; 2015-2017; tiền thuê đất 06 năm t2018-2023 cho Công ty cổ phần T,
phần 49% 7.414.570 đồng (Bảy triệu bốn trăm mười bốn ngàn năm trăm bảy mươi
đồng).
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải trả cho Công ty cổ phần T tiền khấu hao
kênh mương, hồ đập từ năm 2018-2020 1.237.500 đồng (Một triệu hai trăm ba
mươi bảy ngàn năm trăm đồng).
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải bồi thường cho Công ty cổ phần T 51%
giá trị 29 cây muồng đen, trồng năm 1994 bị cắt hạ là: 30.253.608 đồng (Ba mươi
triệu hai trăm năm ba ngàn sáu trăm lẻ tám đồng).
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số
1233/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV cà pT (nay là Công
ty cổ phần T) và ông Nguyễn Phương Tr.
Ông Nguyễn Phương Tr nghĩa vụ trả lại cho Công ty cổ phần T diện tích đất
8.250 m
2
và diện tích bờ lô 1.198 m
2
, thửa đất số 86, tờ bản đồ số 20, thuộc đội Nam
Thắng 3, địa chỉ: H, huyện K,tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do
UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty cổ phần T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ
cận: Phía Đông giáp thửa số 87, TBĐ 20, người nhận khoán ông Trần Văn N; Phía
Tây giáp thửa số 85, TBĐ 20, người nhận khoán ông Chính H; Phía Nam giáp
thửa số 19, TBĐ 21, người nhận khoán Nguyễn Thị Minh T; Phía Bắc giáp thửa
75, TBĐ 20, người nhận khoán ông Trần Văn V và tài sản trên đất bao gồm: 832 cây
cà phê vối trồng năm 1994.
- Buộc ông Nguyễn Phương Tr phải tự di dời, tháo dỡ, nhổ bỏ tài sản trên đất
trước khi trả lại đất cho Công ty cổ phần T đối với: 38 cây Tiêu trồng năm 2018; 40
cây Sầu riêng trồng năm 2018; 20 cây Dổi trồng năm 2019; 360m dây Kẽm gai; 30
trụ bê tông cao 1,6m.
- Buộc Công ty cổ phần T phải thanh toán cho ông Nguyễn Phương Tr 49% giá
trị vườn cây cà phê là 91.848.638 đồng (Chín mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi tám
ngàn sáu trăm ba mươi tám đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều
468 Bộ luật dân sự năm 2015.
11
2. Đình chỉ xét xử một phầnu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc ông
Nguyễn Phương Tr phải bồi thường cho Công ty cổ phần T 49% giá tr của 29 cây
muồng đen trồng năm 1994 bị cắt hạ là 29.067.192 đồng.
3. Về chi phí tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Phương Tr phải chịu 4.800.000 đồng
tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản. Nguyên đơn Công ty cổ
phần T được nhận lại số tiền 4.800.000 đồng (Bốn triệu tám trăm nghìn đồng) sau khi
thu được của ông Nguyễn Phương Tr.
4. Về án phí:
* Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bị đơn ông Nguyễn Phương Tr phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự không
có giá ngạch và 17.520.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch.
- Công ty cổ phần T phải chịu 4.592.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền
5.748.000 đồng tạm ứng án phí thẩm Công ty đã nộp theo biên lai thu số
AA/2022/003607 ngày 04/12/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyên Krông Pắc,
tỉnh Đắk Lắk. Công ty cổ phần T được nhận lại 1.156.000 đồng.
* Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Phương Tr phải chịu 300.000
đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm ông Nguyễn Phương Tr đã nộp theo biên lai thu s
AA/2023/0006085 ngày 10/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân s thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pp luật kể từ ny tun án.
Nơi nhận TM/HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Tối Cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; (Đã ký)
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện K;
- THADS huyện K;
- Đương sự;
- Lưu.
Nguyễn Thị Nhung
Tải về
Bản án số 180/2025/DS-PT Bản án số 180/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 180/2025/DS-PT Bản án số 180/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất