Bản án số 130/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 130/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 130/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 130/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 130/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 130/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nông trường cao su P, trực thuộc Công ty cổ phần C4 khởi kiện buộc những người thuộc hàng thừa kế của ông Nguyễn T trả lại diện tích đất giao khoán trồng cà phê 2,77 ha của hợp đồng 122/HĐGK ngày 10/10/2007 thuộc thửa số 7, tờ bản đồ số 55, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AM 204441 ngày 19/08/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ đã cấp cho nông trường P. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 130/2025/DS-PT
Ngày 08 - 04 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng thuê khoàn tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Đinh Thị Tuyết
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Sỹ Thành
Ông Nguyễn Thị My My
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Ái Vân - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Bà Trương Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 10/2025/TLPT-DS ngày
06/01/2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản”.Do Bản án dân
sự sơ thẩm số: 86/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư
M’Gar bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 47/2025/QĐ-PT ngày
11 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần C4; Địa chỉ: Số C N, P. T, TP ., tỉnh Đắk
Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Ngọc V, chức vụ: phó giám đốc -
Chi nhánh N5 (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn T (đã chết).
- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn T: Bà Nguyễn Thị
Tường V1, bà Nguyễn Thị Hòa N, ông Nguyễn Tất H, bà Trần Thị T1, bà
Nguyễn Thị Quế C - Người đại diện là ông Nguyễn Tất H; Địa chỉ: thôn P, xã
E, TP ., tỉnh Đắk Lắk(có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Ngọc T2 và bà Trần Thị Luyến Á; Địa chỉ: Thôn H, xã
H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk(có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trần Thị Luyến Á: Luật
sư Vũ Trọng T3 - Văn phòng L3 - Đoàn luật sư tỉnh Đ; Địa chỉ: số H G, tổ dân
phố F, P. T, TP ., tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
2. Ông Võ Văn C1 và bà Lê Thị Thu T4; Địa chỉ: Thôn S, xã C, Tx B,
tỉnh Đắk Lắk(có mặt).

2
3. Ông Lê Văn L và bà Lê Thị Mỹ L1; Địa chỉ: Thôn S, xã C, Tx B, tỉnh
Đắk Lắk(có mặt).
Người kháng cáo: người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn
ông Nguyễn Tất H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C1,
bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện của nguyên đơn Công ty C4 trình bày:
Nông trường cao su N5 được thành lập theo quyết định số 278/QĐ-UB ngày
14/06/1978 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ là đơn vi phụ thuộc của Công ty cổ phần
C4. Ngày 15/08/1978 Ủy ban nhân dân tỉnh Đ ban hành quyết định số 561/QĐ – UB
giao cho Nông trường cao su N5 diện tích 3.350 ha để trồng cao su.
Ngày 27/3/1990, ông Nguyễn Thủ C2 đơn xin hợp đồng 20 ha đất đồi để trồng
cây; sau khi được sự đồng ý của Nông trường, năm 1993 ông T đã tiến hành trồng
2,48 ha cà phê. Năm 1994 ông Nguyễn Thủ C2 đơn xin hợp đồng trồng cao su (theo
chương trình 327 của Chính Phủ); Ngày 15/4/1994 Nông trường P ban hành quyết
định số: số 63/QĐ - GQXDĐ giao quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thủ diện T5
9,5 ha (bao gồm cả diện tích ông T đã trồng cà phê trước đây).
Ngày 14/6/1994, Nông trường cao su N5 và ông Nguyễn Thủ K hợp đồng kinh
tế số: 11/HĐ-KT về việc vay vốn dài hạn trồng và chăm sóc cao su, diện tích 07ha.
Do việc chăm sóc cây cao su không hiệu quả, ngày 17/7/2004 Nông trường cao su
N5 và ông Nguyễn Thủ thống N1 lập Biên bản thanh lý hợp đồng kinh tế số: 11/HĐ-
KT ngày 01/6/1994.
Ngày 05/7/2004, Nông trường cao su N5 ban hành quyết định số: 104/QĐ -
NTPX về việc thu hồi diện tích 99.774m
2
(thửa đất số 223 = 29.385m
2
, thửa số 224=
28.946 m
2
, thửa số 242= 41.443 m
2
, tờ bản đồ số 01, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số O 418221 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh C5 cho Nông trường cao su N5
ngày 18/4/2001). Tuy nhiên, xét thấy điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình ông T còn
khó khăn nên Công ty có công văn số: 362/CT- KTSX ngày 10/8/2004 cho phép gia
đình ông Nguyễn Thủ tiếp T6 phục hồi và chăm sóc diện tích 4,1 ha cà phê theo mô
hình giao khoán để có điều kiện trả nợ vốn vay đầu tư cho Công ty.
Ngày 14/9/2004, Nông trường cao su N5 và ông Nguyễn Thủ K hợp đồng giao khoán số 09/HĐGK, diện tích 41.443m2 đã
trồng cà phê từ năm 1993, thời hạn giáo khoán là 15 năm (từ ngày 01/01/1993 đến ngày 31/12/2007) cùng ngày 14/09/2004 Nông
trường cao su Phú X ký với ông Nguyễn Thủ hợp Đ giao khoán số 10/HĐGK diện tích 8.000m2 đã trồng cà phê từ năm 1997, hạn
giao khoán 10 năm, tổng diện tích là 49.443m2
Sau khi 02 hợp đồng giao khoán hết hạn, do chưa có nhu cầu sử dụng đất nên
ngày 10/10/2007 Nông trường cao su Phú X và ông Nguyễn Thủ tiếp T6 ký lại hợp
đồng giao khoán số 122/HĐGK diện tích 45.043m
2
, thời hạn giao khoán là 3 năm.
Đến năm 2016, Nông trường cao su N5 đã thu hồi diện tích 1,7 ha ông Nguyễn Thủ
Đ1 tái trồng cây cao su.
Hiện nay ông Nguyễn Thủ Đ2 sử dụng, canh tác 2,77 ha đất giao khoán của
Nông trường. Trong quá trình sử dụng đất giao khoán ông Nguyễn T đã tự ý sang
nhượng một phần diện tích cho các hộ dân khác mà chưa được sự đồng ý của nông
trường là vi phạm hợp đồng giao khoán. Hợp đồng giao khoán đất trồng cà phê giữa

3
Nông trường cao su N5 với ông Nguyễn Thủ H1 hạn từ năm 2010. Nhiều lần Nông
trường cao su Phú X đã yêu cầu ông T trả lại đất nhưng ông T vẫn không chấp hành.
Vì vậy. Nông trường cao su P đề nghị buộc những hàng thừa kế trả lại cho Chi
nhánh N5 diện tích đất giao khoán trồng cà phê 2,77 ha của hợp đồng 122/HĐGK
ngày 10/10/2007 thuộc thửa số 7, tờ bản đồ số 55, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất AM 204441 ngày 19/08/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ cấp cho nông trường
P.
* Đại diện cho người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông Nguyễn
Tất H trình bày:
Năm 1990, gia đình tôi có làm đơn trồng rừng để phủ xanh đất trống, đồi trọc
theo chương trình 327 với diện tích 20 ha, diện tích trồng cà phê là 04 ha.
Từ năm 1998 đến năm 1999 gia đình tôi có làm hợp đồng chuyển nhượng giá
trị vườn cây cà phê cho ông Nguyễn Ngọc T2 diện tích 6000m
2
, chuyển nhượng cho
gia đình ông Lê Văn L diện tích 7.000m
2
, chuyển nhượng cho gia đình ông Võ Văn
C1 diện tích hơn 4.000 m
2
. Nay Nông trường cao su Phú Xuân khởi kiện gia đình tôi
thì gia đình tôi không đồng ý mà đề nghị Nông trường cao su N5 trả lại diện tích đất
mà gia đình tôi đã thuê khoán về địa phương và gia đình tôi yêu cầu các hộ ông Võ
Văn C1, ông Nguyễn Ngọc T2 và ông Lê Văn L trả lại toàn bộ diện tích đất đã được
gia đình tôi chuyển nhượng.
Tôi xin rút một phần yêu cầu phản tố về việc bồi thường tiền thuê đất và bồi
thường về sản lượng cây cà phê đối với 03 hộ ông Nguyễn Ngọc T2, bà Trần Thị
Luyến Á; hộ ông Võ Văn C1 và hộ ông Lê Văn L
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Luyến Á có yêu
cầu độc lập trình bày:
Về nguồn gốc đất: Ngày 22/03/1999 ông Nguyễn Ngọc T2 (chồng của tôi) có
nhận sang nhượng một phần thửa đất của ông Nguyễn Thủ . Hai bên có lập “giấy
sang nhượng đất rẫy cà phê” tại Ủy ban nhân dân xã E với nội dung: Ông Nguyễn
Thủ C2 lô đất rẫy trồng cà phê tổng diện tích 38.000m
2
tại xã E, huyện C. Ông T có
nhu cầu sang nhượng một phần đất cho ông Nguyễn Ngọc T2, diện tích 6.000m
2
tại
xã E, huyện C. Về số tiền 02 bên tự thoả thuận thanh toán. Sau khi ký giấy sang
nhượng thì ông T đã bàn giao đất. Giấy sang nhượng có chữ ký và con dấu của Ủy
ban nhân dân xã E. Bên dưới có chữ ký và ghi rõ họ tên người sang nhượng là ông
Nguyễn T và người được sang nhượng ông Nguyễn Ngọc T2. Hai bên đã hoàn thành
nghĩa vụ nghĩa vụ của người chuyển nhượng và người nhận chuyển nhượng.
Sau khi nhận chuyển nhượng thì tôi và ông Nguyễn Ngọc T2 đã sử dụng ổn
định vào mục đích trồng cây lâu năm – trồng cây cà phê, bơ, cau, sầu riêng, tiêu trên
đất từ năm 1999 đến nay sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai. Không bị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sử phạt hành chính về lĩnh vực đất đai.Việc chuyển
nhượng giữa ông Nguyễn T và ông Nguyễn Ngọc T2 được Ủy ban nhân dân xã E
xác nhận là hoàn toàn đúng và phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên giữa vợ chồng tôi và ông Nguyễn Thủ
hoàn T7 hợp pháp, đủ cơ sở để toà án công nhận hiệu lực của giao dịch nêu trên.

4
Căn cứ Điểm b.3, Tiểu mục 2.3, Mục 2, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/08/2004 của Hộ đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao quy định về “Hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình”
nội dung như sau:
b.3) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện
được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã
làm nhà kiên cố… và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng.
- Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thủ đối V2 ông Nguyễn Ngọc T2
là vô lý tôi hoàn toàn không đồng ý:
Việc ông Nguyễn Thủ K hợp đồng với Công ty C4 thì vợ chồng tôi hoàn toàn
không biết. Căn cứ vào hồ sơ thụ lý của Toà án thì hợp đồng giữa ông T và Công ty
C4 được lập sau khi ông T đã chuyển nhượng đất cho gia đình tôi. Trong buổi làm
việc của ông Nguyễn Thủ V2 Công ty C4 không có sự tham dự của gia đình tôi và
các hộ khác là người nhận chuyển nhượng đất, canh tác và sử dụng đất, không có
biên bản làm việc giữa các hộ dân sống trên đất.
Khi ông T2 nhận sang nhượng quyền sử dụng đất thì ông T không nói về
nguồn gốc đất và không nói về việc sẽ bị Công ty C4 thu hồi như đã nêu trong đơn
khởi kiện của ông T. Ông Thủ nhận đất là của ông T nên gia đình tôi mới giao tiền
và nhận chuyển nhượng đất.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất O 418221 của Nông trường P được cấp
năm 2001 mà cơ quan có thẩm quyền không xem xét đến việc cấp giấy chứng nhận
đất cho gia đình tôi (theo giấy sang nhượng đất cà phê ngày 22/03/1999) đã nhận
chuyển nhượng diện tích trên từ ông T làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của gia
đình tôi.
Giao dịch sang nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T và ông Nguyền Ngọc T8
vào ngày 22/03/1999 là đúng quy định và được pháp luật bảo vệ cho gia đình tôi với
tư cách người thứ 3 ngay tình được quy định tại khoản 3, Điều 133 Bộ luật dân sự
2015. Nay tôi làm đơn này đề nghị Toà án giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất (giấy sang nhượng đất rẫy cà phê) lập ngày 22/03/1999
diện tích 6.000m
2
tại xã E, huyện C cho gia đình tôi – Trần Thị Luyến Á và ông
Nguyễn Ngọc Thành
Bác toàn bộ đơn khởi kiện của ông Nguyễn Thủ V3 việc yêu cầu ông Nguyễn
Ngọc T2 và bà Trần Thị Luyến Á phải trả lại diện tích 6.000m
2
và tài sản gắn liền
với đất và yêu cầu bồi thường số tiền là 30.720.000 đồng cho ông T.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Mỹ L1 có yêu cầu
độc lập trình bày:
Về nguồn gốc đất: Ngày 15/02/1998 vợ chồng tôi có nhận sang nhượng thửa
đất diện tích khoảng 7 sào (khoảng 7000 m
2
đất trồng cà phê tại vùng gò đồi Cư Bao
thuộc xã E huyện C tỉnh Đắk Lắk với giá 04 cây 3,5 chỉ vàng 97k của ông Nguyễn
Thủ . Vợ chồng tôi đã giao đủ số vàng cho ông T và nhận đất quản lý, sử dụng ổn

5
định từ đó đến nay hơn 20 năm. Việc sang nhượng đất rẫy được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã E – Y Mưih N2 ký đóng dấu xác nhận ngày 19/02/1998 (có phô tô kèm
theo). Sau khi nhận đất sử dụng chúng tôi tiếp tục trồng thêm cà phê, cây muồng
chắn gió trên đất này. Năm 2023 chúng tôi đã phá cà phê.
Về việc chuyển nhượng của gia đình tôi là hoàn toàn hợp pháp đúng quy định
của pháp luật. Kể từ khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên gia đình tôi
đã sử dụng ổn định liên tục từ đó đến nay không tranh chấp với ai, không bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính về lĩnh vực đất đai. Do đó, giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên giữa vợ chồng tôi và ông Nguyễn Thủ
hoàn T7 hợp pháp, đủ cơ sở để toà án công nhận hiệu lực của Giao dịch nêu trên.
Căn cứ Điểm b.3, Tiểu mục 2.3, Mục 2, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/08/2004 của Hộ đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao quy định về “Hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình”
nội dung như sau:
b.3) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện
được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã
làm nhà kiên cố… và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng.
Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, Toà án công
nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nhà ở và huỷ phần hợp
đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất
đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không đảm bảo mục đích
sử dụng cho cả hai bên giao ký kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán
cho nhau phần chênh lệch.
Vậy nên chúng tôi làm đơn yêu cầu độc lập đề nghị toà án giải quyết yêu cầu
độc lập của tôi theo quy định của pháp luật, bác đơn khởi kiện của nguyên đơn đối
với phần đất ông T đã bán cho chúng tôi; Công nhận Đơn xin sang nhượng đất rẫy
ngày 15/02/1998 giữa người sang nhượng là ông Nguyễn T và người được sang
nhượng là vợ chồng tôi, giúp chúng tôi bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C1 và bà Lê Thị
Thu T4 trình bày:
Gia đình có mua của ông Nguyễn Thủ diện T5 khoản 4049,2m
2
được chính
quyền địa phương xác nhận. Gia đình chúng tôi đã nhận đất và trả tiền đầy đủ. Gia
đình chúng tôi đã làm ổn định từ đó đến nay. Nay Nông trường cao su Phú X và ông
Nguyễn T yêu cầu gia đình tôi trả lại diện tích đất thì gia đình tôi không đồng ý. Gia
đình chúng tôi đề nghị Toà án buộc Nông trường cao su N5 và ông Nguyễn Thủ P
bồi thường cây trồng trên đất.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2024/DS-ST ngày 26/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

6
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 244; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng Điều Điều 131, 136, 404, 409, 418 Bộ luật dân sự 1995, Điều 501,
Điều 503, Điều 505, Điều 506, Điều 507, Điều 509, Điều 511 Bộ luật dân sự năm
2005;
- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần C4
Chấm dứt hợp đồng giao khoán sử dụng đất nông nghiệp trồng cà phê Hợp
đồng giao khoán số 122/HĐGK ngày 10/10/2007 giữa Nông trường cao su N5 và
ông Nguyễn Thủ .
Buộc người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Thủ L2 bà Nguyễn
Thị Tường V1, Bà Nguyễn Thị Hòa N, Nguyễn Tất H, Bà Trần Thị T1, Nguyễn Thị
Quế C và các hộ ông Nguyễn Ngọc T2, hộ ông Lê Văn L, hộ ông Võ Văn C1 phải
tháo dỡ di dời toàn bộ nhà, trụ bê tông, hàng rào kẽm gai và các công trình khác ra
khỏi và trả lại toàn bộ diện tích đất cho Nông trường cao su N5 thuộc thửa đất số 7,
tờ bản đồ số 55, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AM 204441 ngày 19/08/2008
của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ cấp cho Nông trường cao su N5.
Diện tích cụ thể phải trả lại cho Nông trường cao su Phú X gồm:
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Thủ T9 lại 10180,3m2
Hộ ông Nguyễn Ngọc T2 và bà Trần Thị Luyến Á trả lại 6832,5m2
Hộ ông Lê Văn L và bà Lê Thị Mỹ L1 trả lại 7411,3m
2
Hộ ông Võ Văn C3 và bà Lê Thị Thu T4 trả lại 4049,2m
2
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Nguyễn Thủ V3 việc
buộc Nông trường cao su N5 trả lại diện tích đất mà gia đình ông đã thuê khoán về
địa phương và gia đình ông yêu cầu các hộ ông Võ Văn C1 và hộ ông Nguyễn Ngọc
T2 và hộ ông Lê Văn L trả lại toàn bộ diện tích đất.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của bà Trần Thị Luyến Á về việc
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T và ông
Nguyễn Ngọc T2, bà Trần Thị Luyến Á lập ngày 22/03/1999 có diện tích 6.000m
2
tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của bà Lê Thị Mỹ L1 về việc công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T và ông Lê
Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 lập ngày 15/02/1998 có diện tích 7.000m
2
tọa lạc tại xã E,
huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
Đình chỉ yêu cầu độc lập của của ông Nguyễn Thủ V3 việc buộc bồi thường
tiền thuê đất và bồi thường về sản lượng cây cà phê đối với hộ ông Nguyễn Ngọc
T2, bà Nguyễn Thị Luyến Á1; hộ ông Võ Văn C1 và hộ ông Lê Văn L.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án
và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

7
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/9/2024 và ngày 01/10/2024, bị đơn ông
Nguyễn Tất H; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C1, bà Trần Thị
Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số: 86/2024/DS-ST
ngày 26 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty cổ phần
C4 vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, bị đơn ông Nguyễn Tất H; người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C1, bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ
L1 đều giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan
điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá, đại diện Viện kiểm sát cho rằng kháng
cáo của ông Nguyễn Tất H là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn và cũng là
người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn
ông Nguyễn T; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C1, bà Trần Thị
Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1 là có căn cứ chấp nhận một phần nên đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Tất H;
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C1, bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê
Thị Mỹ L1; Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu
chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Tất H; người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C1, bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ
L1 làm trong thời hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên được giải
quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Nội dung
[2.1]. Về nguồn gốc đất: Ngày 27/3/1990, ông Nguyễn Thủ công T10 tại
trạm y tế của N3 thường Phú X làm đơn xin hợp đồng 20 ha đất đồi để trồng cây phủ
xanh đồi trọc và được Nông T11 đồng ý cho ông T được hợp đồng đất, Năm 1991,
ông T xây dựng nhà và công trình phụ. Năm 1993, ông Thủ trồng 2,48 ha cà phê là
một phần diện tích đất trên .
Ngày 15/4/1994, Nông trường P ban hành Quyết định số 63/QĐ-GQXDĐ
giao quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Thủ N4 khoán vườn cây cao su
với diện tích giao là 9,5ha; thời gian 32 năm (bao gồm cả diện tích ông T đã trồng
cà phê 2,48 ha năm 1993). Qua đó xác định diện tích đất ông T đã làm nhà và trồng
cà phê trước khi được Nông trường P giao quyền sử dụng đất để trồng cây cao su.
Quá trình sử dụng đất, năm 1998, 1999 ông T đã tự ý phân thửa, chuyển
nhượng một phần diện tích cà phê cho 03 hộ dân gồm: hộ ông Nguyễn Ngọc T2

8
0,71ha; hộ ông Lê Văn L 0,72 ha và hộ ông Võ Văn C1 0,38 ha mà không có sự
đồng ý của Nông trường P và Công ty C4, đất còn lại là của ông Thủ trồng cà phê
0,96ha (BL 246-248).
Quyết định số 104/QĐ- NTPX Ngày 05/7/2004 của giám đốc Nông trường
thu hồi diện tích 99.774m² đất của hộ ông Nguyễn T - Hợp đồng liên kết trồng cao su
với Nông trường P, tờ bản đồ số 01, gồm các thửa 223, 224 và thửa 242 thuộc Giấy
CNQSD đất số 0418221 do UBND tỉnh Đ cấp cho Nông trường P ngày 18/4/2001.
Ngày 17/7/2004, ông Thủ G lại diện tích 07 ha đất cho Nông trường P để sản
xuất. Diện tích còn lại 4,1 ha cà phê Nông trường đã cho phép gia đình ông T tiếp tục
phục hồi và chăm sóc.
Ngày 14/9/2004, Nông trường P tiếp tục ký kết Hợp đồng giao khoán số
09/HĐGK với ông Nguyễn Thủ cụ T12 giao diện tích 41.443m², thời hạn giao khoán
15 năm (từ ngày 01/1/1993 đến ngày 31/12/2007). Và Hợp đồng giao khoán số
10/HĐGK, giao diện tích 8.000m² đã trồng cà phê từ năm 1997, thời hạn giao khoán
10 năm (từ ngày 01/01/1997 đến ngày 31/12/2006). Tổng diện tích là 49.443m².
Ngày 10/10/2007, Nông trường P và ông Nguyễn Thủ tiếp T6 ký lại Hợp
đồng giao khoán số 122/HĐGK với diện tích giao khoán là 45.043m² nói trên để
trồng cà phê. Thời hạn giao khoán 03 năm (từ ngày 10/10/2007 đến ngày 10/12/
2010). Hợp đồng giao khoán đất trồng cà phê giữa Nông trường với ông Nguyễn Thủ
H1 hạn từ năm 2010. Nông trường không gia hạn hợp đồng nhưng hàng năm vẫn
thông báo cho các hộ gia đình sử dụng đất nộp phí quản lý đất nông nghiệp.
Năm 2016, Nông trường P đã thu hồi diện tích đất khoảng 1,7ha của ông
Nguyễn Thủ Đ1 tái canh cao su. Diện tích đất cà phê còn lại 2,77ha ông T và các hộ
vẫn canh tác, sử dụng. Quá trình sử dụng đất các hộ gia đình ông T xây dựng thêm
nhà, xây dựng công trình phụ, nhổ cây cà phê già và trồng mới cây cà phê và một số
loại cây khác. Nông trường biết nhưng không có biện pháp ngăn chặn.
Qua đó, xác định diện tích 2,77 ha cà phê nói trên có nguồn gốc: do UBND
tỉnh Đ giao đất cho Nông trường cao su N5 thuê đất và trả tiền hàng năm theo Quyết
định số 561/QĐ-UB ngày 05/8/1978, Nông trường cao su N5 đã được UBND tỉnh Đ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM204441 ngày 19/8/2008.
[3]. Xét kháng cáo của ông Nguyễn Tất H người kế thừa quyền, nghĩa vụ của
bị đơn ông Nguyễn Thủ T13 rằng:
Ông Nguyễn Thủ N4 đất giao khoán từ Nông trường cao su P, không nhận đầu
tư của Nông trường và chỉ thực hiện việc nộp phí quản lý đất nộng nghiệp cho Nông
trường. Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc người
kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông T và những người cùng sử dụng trả lại đất cho
Nông trường và không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu Nông trường
cao su N5 trả lại diện tích đất mà gia đình ông T đã thuê khoán về địa phương là có
căn cứ.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Thủ già Y và ủy quyền cho
con trai tà Nguyễn Tất H tham gia tố tụng, hiện nay ông T đã chết, cấp sơ thẩm buộc
người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Thủ L2 các ông, bà Nguyễn Thị
Tường V1, Nguyễn Thị Hòa N, Nguyễn Tất H, Trần Thị T1, Nguyễn Thị Quế C và

9
các hộ ông Nguyễn Ngọc T2, hộ ông Lê Văn L, hộ ông Võ Văn C1 phải tháo dỡ di
dời toàn bộ nhà, trụ bê tông, hàng rào kẽm gai và các công trình khác và trả lại toàn
bộ diện tích đất cho Nông trường cao su N5 thuộc thửa đất số 7, tờ bản đồ số 55,
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AM 204441 ngày 19/08/2008 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Đ cấp cho Nông trường cao su N5 là không phù hợp bởi vì: Tài sản hình
thành trên đất có trước khi ông Nguyễn Thủ K hợp đồng với Nông trường cao su
N5, các hợp đồng sau là hợp đồng nối tiếp hợp đồng trước. Ông T chuyển nhượng
vườn cây cho các hộ gia đình ông Nguyễn Ngọc T2, hộ ông Lê Văn L, hộ ông Võ
Văn C1 từ năm 1998 – 1999. Sau khi nhận chuyển nhượng các hộ cải tạo vườn cây
và trồng thêm mới một số cây trồng khác để phù hợp thổ nhưỡng. Nông trường cao
su Phú X biết mà không ngăn chặn. Do vậy khi thu hồi đất thì nông trường phải trả
lại giá trị tài sản gia đình ông Nguyễn T và các hộ gia đình nhận chuyển nhượng
vườn cây đã tạo lập trên đất.
[3.2]. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Thủ V3 việc yêu cầu
các hộ ông Võ Văn C1, bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1 trả lại toàn bộ diện
tích đất cho hộ gia đình ông Nguyễn T:
Theo như phân tích trên diện tích 2,77 ha cà phê nằm trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AM204441 do UBND tỉnh Đ cấp ngày 19/8/2008 cho Nông
trường cao su N5. Hộ ông Nguyễn Thủ L2 hộ nhận khoán của Nông trường cao su
N5, tại các hợp đồng giao khoán giữa Nông trường P với ông Nguyễn Thủ T14 các
bên đã thỏa thuận “ Bên nhận khoán không được tự ý sang nhượng hợp đồng, chuyển
đổi mục đích sử dụng”, Qua đó, xác định việc ông T sang nhượng một phần đất cho
các hộ ông Võ Văn C1, hộ ông Nguyễn Ngọc T2, bà Trần Thị Luyến Á và hộ ông
Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 không được sự đồng ý của Nông trường là vi phạm hợp
đồng giao khoán. Hợp đồng vô hiệu. Vì vậy, bị đơn ông Nguyễn T yêu cầu các hộ
ông Võ Văn C1, ông Nguyễn Ngọc T2 và hộ ông Lê Văn L trả lại toàn bộ diện tích
đất là không có căn cứ để chấp nhận.
[3.3]. Đối với yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Trần Thị Luyến Á, ông Lê Văn L về việc đề nghị công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Thủ V2 hộ ông Nguyễn Ngọc T2, bà
Trần Thị Luyến Á và hộ ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 : Theo như phân tích trên
xác định 2,77 ha là một phần diện tích đất 20 ha đất ông Thủ nhận khoán của Nông
trường để trồng cây cà phê. Đến năm 1998, 1999 ông T chuyển nhượng vườn cà phê
cho các hộ ông T2, bà Á, hộ ông L bà L1 và hộ ông C1, bà T4. Sau khi nhận chuyển
nhượng vườn cà phê hàng năm các hộ đều thực hiện việc nộp tiền phí quản lý đất
nông nghiệp theo diện tích đất thực tế các hộ sử dụng cho Nông trường cao su N5.
Các hộ ông T2, bà Á, hộ ông L bà L1 và hộ ông C1, bà T4 đều biết đất nhận chuyển
nhượng là đất ông Nguyễn Thủ N4 khoán của Nông trường. Do vậy, hợp đồng
CNQSD đất giữa ông Nguyễn T và các hộ bà Trần Thị Luyến Á, ông Lê Văn L và
ông Võ Văn C1 là vô hiệu do vi phạm nội dung và hình thức trong giao dịch dân sự.
Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu Công nhận hợp đồng CNQSD đất giữa
ông Nguyễn Thủ V2 ông Nguyễn Ngọc T2, ông Võ Văn C1 và ông Lê Văn L.

10
[3.4]. Đối với nội dung kháng cáo của hộ ông Võ Văn C1, bà Lê Thị Thu T4
yêu cầu khi thu hồi đất Công ty C4 phải bồi thường giá trị cây trồng trên đất. Tuy
nhiên tại cấp sơ thẩm ông Võ Văn C1, bà Lê Thị Thu T4 không có đơn khởi kiện độc
lập tại cấp sơ thẩm nên yêu cầu kháng cáo của ông C1, bà T4 không được xem xét,
giải quyết. Ông C1, bà T4 được quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác khi có
yêu cầu là phù hợp.
[3.5]. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 16/5/2024
của Hội đồng định giá xác định: .
1. Các tài sản trên đất của gia đình ông Nguyễn Thủ G1 nhà cửa, công trình
phụ và các cây trồng trên đất có tổng giá trị 1.742.899.584 đồng.
2. Các tài sản trên đất của gia đình ông Nguyễn Ngọc T2, bà Trần Thị
Luyến Á là các cây trồng trên đất có tổng giá trị 487.198.200 đồng.
3. Các tài sản trên đất của gia đình ông Võ Văn C1, bà Lê Thị Thu T4 là
các cây trồng trên đất có tổng giá trị 396.441.800 đồng.
4.Các tài sản trên đất của gia đình ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 là các
cây trồng trên đất có tổng giá trị 5.546.000 đồng.
2. Về giá trị đất: Được tính theo giá thị trường tại thời điểm 140.000.000
đồng/ 1000m
2
Diện tích đất ông T 10.180,3m
2
có giá 1.425.242.000 đồng. Diện
tích đất ông Nguyễn Ngọc T2, bà Trần Thị Luyến Á là 6.832,5m
2
có giá
956.550.000 đồng. Diện tích đất ông Võ Văn C1, bà Lê Thị Thu T4 là 4049,2m
2
có
giá 566.888.000 đồng. Diện tích đất ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 là 7.411,3m
2
có giá 1.037.852.000 đồng.
Do vậy, khi thu hồi đất Công ty cổ phần C4, Nông trường Cao su P phải
thanh toán giá trị tài sản trên đất cụ thể là:
Thanh toán cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông
Nguyễn Thủ L2 1.742.899.584 đồng.
Thanh toán cho bà Trần Thị Luyến Á là 487.198.200 đồng.
Thanh toán ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 là 5.546.000 đồng.
Về giá trị đất: Diện tích đất do các hộ gia đình nhận khoán của Nông trường
Cao su P nên không được xem xét.
[3.6]. Xét kháng cáo của ông Nguyễn Tất H người đại diện theo ủy quyền của
những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông Nguyễn T cho rằng chi phí
đo đạc đối với toàn bộ các thửa đất số tiền 20.000.000 đồng ông Nguyễn Tất H đã
nộp đủ 20.000.000 đồng. Cấp sơ thẩm chỉ buộc gia đình bị đơn ông Nguyễn Thủ P
chịu toàn bộ chi phí là không đúng nên cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Cần xác định lại chi phí đo đạc theo tỷ lệ diện tích mỗi hộ gia đình đang sử dụng là
phù hợp.
[4]. Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy
có căn cứ để chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Tất H là người kế thừa
quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông Nguyễn T cũng là người đại diện theo ủy quyền
của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông Nguyễn T và những
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1 và
ông Võ Văn C1. Cần sửa bản án sơ thẩm Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 86/2024/DS-

11
ST ngày 26 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk
theo hướng phân tích trên là phù hợp.
[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa bản án nên cần tính lại án phí dân sự cho
phù hợp.
Công ty cổ phần C4 phải chịu số tiền án phí DSST đối với số tiền phải thanh
toán giá trị tài sản trên đất cho hộ gia đình ông Nguyễn T, Trần Thị Luyến Á và bà
Lê Thị Mỹ L1 là 2.235.643.784 đồng là : [72.000.000 đồng + (235643784 đồng x
2%)] =76.713.000 đồng.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ ông Nguyễn Thủ P chịu số tiền án phí
DSST 300.000 đồng
Bà Trần Thị Luyến Á phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm .
Bà Lê Thị Mỹ L1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm .
ông Võ Văn C1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm
[5]. Về chi phí tố tụng:
[5.1]. Chi phí đo đạc: Công ty cổ phần C4 đã chi phí số tiền 20.000.000 đồng đã
chi phí xong. Số tiền Chi phí đo đạc được tính theo tỷ lệ diện tích đất của mỗi hộ gia
đình đang sử dụng cụ thể: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Thủ P
chịu 7.150.000 đồng; Ông Võ Văn C1 và bà Lê Thị Thu T4 phải chịu 2.844.000
đồng; Ông Lê Văn L và bà Lê Thị Mỹ L1 phải chịu 5206.000 đồng và bà Trần Thị
Luyến Á phải chịu 4.800.000 đồng : Công ty cổ phần C4 được nhận lại số tiền chi phí
đo đạc sau khi thu được từ người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn T, các
hộ ông Võ Văn C1 và bà Lê Thị Thu T4; hộ ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 và bà
Trần Thị Luyến Á.
[5.2]. Chi phí thẩm định và định giá: Ông Nguyễn Thủ P chịu 12.000.000 đồng
chi phí thẩm định và định giá. Ông Nguyễn T đã nộp số tiền trên.
Bà Trần Thị Luyến Á phải chịu 5.000.000 đồng chi phí thẩm định và định giá.
Bà Trần Thị Luyến Á đã nộp số tiền trên.
[5.3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của ông Nguyễn Tất H
là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông Nguyễn T và cũng là người
đại diện cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông Nguyễn T
và kháng cáo của bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1, ông Võ Văn C1 là
những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được chấp nhận một phần nên ông
Nguyễn Tất H, bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1 và ông Võ Văn C1
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1].Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Tất H người kế thừa
quyền và nghĩa vụ của bị đơn ông Nguyễn Thủ V4 người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Trần Thị Luyến Á, bà Lê Thị Mỹ L1 và ông Võ Văn C1.

12
[2]. Điều luật áp dụng : Căn cứ Điều 131, 136, 404, 409, 418 Bộ luật dân
sự 1995, Điều 501, Điều 503, Điều 505, Điều 506, Điều 507, Điều 509, Điều 511 Bộ
luật dân sự năm 2005; Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.
[3].Tuyên xử:
[3.1].Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần C4,
Nông trường cao su P. Chấm dứt hợp đồng giao khoán sử dụng đất nông nghiệp
trồng cà phê số 122/HĐGK ngày 10/10/2007 giữa Nông trường cao su N5 và ông
Nguyễn Thủ . Buộc người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Thủ L2 bà
Nguyễn Thị Tường V1, Bà Nguyễn Thị Hòa N, Nguyễn Tất H, Bà Trần Thị T1,
Nguyễn Thị Quế C và buộc các hộ ông Nguyễn Ngọc T2,bà Trần Thị Luyến Á, hộ
ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 và hộ ông Võ Văn C1, bà Lê Thị Thu T4 trả lại
toàn bộ diện tích đất cho Nông trường cao su N5 thuộc thửa đất số 7, tờ bản đồ số
55, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AM 204441 ngày 19/08/2008 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Đ cấp cho Nông trường cao su N5. Diện tích cụ thể các hộ phải trả
cho Nông trường cao su Phú X gồm:
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Thủ T9 lại 10.180,3m2
Hộ ông Nguyễn Ngọc T2 và bà Trần Thị Luyến Á trả lại 6.832,5m2
Hộ ông Lê Văn L và bà Lê Thị Mỹ L1 trả lại 7.411,3m
2
Hộ ông Võ Văn C1 và bà Lê Thị Thu T4 trả lại 4.049,2m
2
[3.2].Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện phản tố của ông Nguyễn Thủ
V3 việc buộc Công ty cổ phần C4, Nông trường cao su P trả lại diện tích đất mà gia
đình ông đã thuê khoán về địa phương và gia đình ông yêu cầu các hộ ông Võ Văn
C1 và hộ ông Nguyễn Ngọc T2 và hộ ông Lê Văn L trả lại toàn bộ diện tích đất.
[3.3].Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của bà Trần Thị Luyến
Á về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
T và ông Nguyễn Ngọc T2, bà Trần Thị Luyến Á lập ngày 22/03/1999 có diện tích
6.000m
2
tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
[3.4].Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của bà Lê Thị Mỹ L1 về
việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn T và
ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 lập ngày 15/02/1998 có diện tích 7.000m
2
tọa lạc
tại xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
[3.5].Buộc Công ty cổ phần C4, Nông trường cao su P thanh toán giá trị nhà
cửa, công trình phụ và các cây trồng trên đất cho người kế thừa quyền và nghĩa vụ
của ông Nguyễn Thủ S tiền là 1.742.899.584 đồng (Một tỷ, bảy trăm bốn mươi hai
triệu, tám trăm chín mươi chín nghìn, năm trăm tám mươi tư đồng).
[3.6].Buộc Công ty cổ phần C4, Nông trường cao su P thanh toán giá trị các
cây trồng trên đất cho bà Trần Thị Luyến Á số tiền là 487.198.200 đồng (Bốn trăm
tám mươi bảy triệu, một trăm chín mươi tám nghìn, hai trăm đồng)
[3.7].Buộc Công ty cổ phần C4, Nông trường cao su P thanh toán giá trị tài
sản trên đất cho gia đình ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 giá trị 5.546.000 đồng
(Năm triệu, năm trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).

13
[3.8].Đình chỉ yêu cầu độc lập của của ông Nguyễn Thủ V3 việc buộc bồi
thường tiền thuê đất và bồi thường về sản lượng cây cà phê đối với hộ ông Nguyễn
Ngọc T2, bà Nguyễn Thị Luyến Á1; hộ ông Võ Văn C1 và hộ ông Lê Văn L.
[4] Về chi phí tố tụng:
[4.1]. Về chi phí đo đạc: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Thủ
P chịu 7.150.000 đồng; Ông Võ Văn C1 và bà Lê Thị Thu T4 phải chịu 2.844.000
đồng; Ông Lê Văn L và bà Lê Thị Mỹ L1 phải chịu 5206.000 đồng và bà Trần Thị
Luyến Á phải chịu 4.800.000 đồng. Công ty cổ phần C4 được nhận lại số tiền chi phí
đo đạc sau khi thu được từ người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn T và
các hộ ông Võ Văn C1 và bà Lê Thị Thu T4; hộ ông Lê Văn L, bà Lê Thị Mỹ L1 và
bà Trần Thị Luyến Á.
[4.2]. Chi phí thẩm định và định giá:
Ông Nguyễn Thủ P chịu 12.000.000 đồng chi phí thẩm định và định giá. Ông
Nguyễn T đã nộp số tiền trên và đã chi phí xong.
Bà Trần Thị Luyến Á phải chịu 5.000.000 đồng chi phí thẩm định và định giá.
Bà Trần Thị Luyến Á đã nộp số tiền trên và đã chi phí xong.
[5]. Về án phí DSST: Công ty cổ phần C4 phải chịu số tiền án phí DSST là
76.713.000 đồng.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ ông Nguyễn Thủ P chịu số tiền
300.000 đồng án phí DSST
Bà Trần Thị Luyến Á phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm .
Bà Lê Thị Mỹ L1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm .
ông Võ Văn C1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm
Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Tất H không phải chịu số tiền
300.000 án phí dân sự phúc thẩm. Được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án
phí mà ông H đã nộp theo Biênthu số AA/2023/0007931 ngày 01/10/2024 tại Chi cục
thihành án dân sự huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Ông Võ Văn C1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Ông C1, bà L1, bà Á
Được nhận lại số tiền đã nộp lần lượt theo các Biênthu số AA/2023/0007955,
AA/2023/0007956, AA/2023/ 0007953 cùng ngày 01/10/2024 tại Chi cục thihành án
dân sự huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
[4.3]. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Tất H không phải chịu số tiền 300.000 án phí dân sự phúc
thẩm. Được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà ông H đã nộp theo
Biênthu số AA/2023/0007931 ngày 01/10/2024 tại Chi cục thihành án dân sự huyện
C, tỉnh Đắk Lắk.
Ông Võ Văn C1, bà Lê Thị Mỹ L1, bà Trần Thị Luyến Á không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm. Ông C1, bà L1, bà Á Được nhận lại số tiền đã nộp lần lượt
theo các Biênthu số AA/2023/0007955, AA/2023/0007956, AA/2023/ 0007953 cùng
ngày 01/10/2024 tại Chi cục thihành án dân sự huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

14
Nơi nhận:
- TANDCC Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Cư M’Gar;
- Chi cục THADS huyện Cư M’Gar;
- Đương sự;
- Cổng thông tin điện tử TA;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Đinh Thị Tuyết

15
16
17
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm