Bản án số 15/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 15/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 15/2025/DS-PT ngày 07/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 15/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần yêu câu kháng cáo của bị đơn ông Phan Thanh T. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 36/2024/DS-ST ngày 10/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Bằng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Huờn và bà Lê Thị Thanh Huyền.
- Thư ký phiên toà: Ông Vũ Đức Anh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Bà Lương Thị Diệu Anh -
Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét x
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 363/2024/TLPT-DS, ngày 13/11/2024,
về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán yêu cầu bồi thường về tài sản”, do Bản
án dân sự thẩm số 36/2024/DS-ST, ngày 10 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, bị kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm số: 375/2024/QĐ-PT, ngày 25/11/2024, Quyết định hoản phiên tòa số
366/2024/-HPT ngày 12/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ng ty cổ phần cà phê T.
Địa chỉ: Km 17, Quốc lộ 26, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
thành viên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957; Có mặt
Địa chỉ: 65 T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Ông Phan Thanh T, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1984;mặt
Địa chỉ: Buôn K, xã Đ, huyện K1, tỉnh Đ1.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Phan Thanh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 15/2025/DS-PT
Ngày 07 - 01 2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng giao
khoán và yêu cầu bồi thường thiệt
hại về tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
* Theo đơn khởi kiện ngày 09/11/2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày 18/8/2023
quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T,
người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn ông Phạm Đình Bộ trình bày:
Vào ngày 10/11/2017 ông Phan Thanh T có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn
cây phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH một thành viên phê T
(Nay là Công ty cổ phần cà phê T).
Ngày 11/11/2017 giữa ông T Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây
phê cho hộ nông trường viên số 110/2017/HĐ-GK. Theo hợp đồng thì ông T nhận
khoán chăm sóc vườn cây phê Vối trồng năm 1994 của Công ty diện tích
6.000m
2
và diện tích bờ lô 871m
2
. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 15/1, tại thửa
60a+27a, tờ bản đồ số 14, địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá
vườn cây khi nhận khoán 23.605.234 đồng; Giá trị vườn cây còn lại 4.762.568 đồng.
Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao
khoán là 04 năm (từ ngày ký kết hợp đồng đến niên vụ 2020 -2021).
Mức giao khoán hằng năm ông T phải nộp về Công ty theo thoả thuận trong
Hợp đồng giao khoán. Cụ thể: Niên v2017-2018 nộp 1.706kg/niên vụ; Niên vụ
2018-2019 đến 2020-2021 nộp 1.502 kg/niên vụ. Việc hợp đồng trên là dựa vào
Bộ luật dân sự 2005; Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của chính phủ;
Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13/11/2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn; Quyết định số 1399/QĐ-UDND ngày 08/6/2011 của UBND tỉnh Đắk
Lắk; Biên bản Họp các sở ngành liên quan (biên bản Họp 11 s ngành ngày
20/1/2011); Nghị quyết hội nghị đại biểu người lao động ngày 26/3/2010; Biên bản
họp mrộng tham gia góp ý kiến phương án khoán gọn vườn cây phê cho hộ nông
trườn viên, trên cơ sở kế thừa và có sửa đổi “Phương án hợp đồng hợp tác đầu tư &
Phân chia sản phẩm” mà Công ty đã thực hiện từ năm 1998 đến năm 2010; Việc ký
kết hợp đồng giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, không lừa dối,
vì trước khi ký hợp đồng thì ông T đã có đơn xin nhận khoán vườn cây gửi Công ty,
sau đó hội đồng xét duyệt đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây phê cho hộ
nông trường viên cho từng nhân, đến Tổng giám đốc thay mặt Công ty hợp
đồng theo quy định của pháp luật. Việc kết này là theo chu kỳ kinh doanh của
vườn cây chứ không ký theo từng năm.
Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ phê 2017-2018 ông T đã
thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp
sản phẩm theo hợp đồng. Từ niên vụ thu hoạch phê 2018 2019 đến niên vụ 2022-
2023, ông T đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm phê quả tươi cho
Công ty các khoản nkhác theo đúng cam kết trong Hợp đồng. Ngoài ra theo
thông báo của cục thuế tỉnh tiền truy thu tiền thuê đất (2015 đến 2017); Tiền thuê đất
05 năm (2018, 2019, 2020, 2021, 2022) 3.604.257 đồng nhưng ông T chưa nộp
cho Công ty để Công ty trả cho Cục thuế. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông T
đã phá vườn cây của Công ty theo Biên bản vi phạm ngày 04/6/2021 nên Công ty đề
nghị ông bồi thường thiệt hại giá trị 51% của 224 cây cà phê trồng năm 1994.
những do trên, nguyên đơn làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết
những yêu cầu sau:
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số
3
110/2017/HĐ-GK. Buộc ông Phan Thanh T phải trả lại toàn bộ vườn cây cho Công
ty cổ phần phê T với diện tích 6.000m
2
diện tích bờ lộ 871m
2
. Địa điểm đất
giao khoán thuộc đội 15/1, tại thửa 69a+27a, tờ bản đồ số 14, địa chỉ thửa đất:
Hòa Đông, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSD đất số K 239519, do
UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty cổ phần phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa
đất có tứ cận: Phía Bắc giáp thửa 26a, tờ bản đồ số 14, người nhận khoán ông Đào
Quang T; Phía Nam giáp mương thủy lợi; Phía Đông giáp thửa 27, 69, tờ bản đồ số
14, người nhận khoán ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Văn Đ; Phía Tây giáp thổ
thôn 15.
- Buộc ông Phan Thanh T phải trả cho Công ty cổ phần phê T 7.510kg phê
quả tươi còn nợ của 05 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022;
2022-2023). Cụ thể mỗi niên vụ: 1.502kg cà phê quả tươi.
- Buộc ông Phan Thanh T phải nộp tiền thuê đất về công ty Phần 49% để công
ty nộp cho cục thuế tỉnh Đắk Lắk là 3.604.257 đồng.
- Buộc ông Phan Thanh T đền thiệt hại do hành vi chặt phá, thanh 51%
giá trị của 224 cây cà phê trồng năm 1994.
Theo kết quả định giá thì 224 Cây cà phê trồng năm 1994 có giá là 51.968.700
đồng (Năm mươi mốt triệu, chín trăm sáu mươi tám nghìn, bảy trăm đồng). Do đó,
tại phiên họp ngày hôm nay Công ty yêu cầu bị đơn phải bồi thường 51% giá trị 224
Cây phê trồng năm 1994 mà ông T tự ý chặt phá, thanh lý 51.968.700 đồng x
51% = 26.504.037 đồng. Ngoài ra, Công ty không có yêu cầu gì khác.
Đối với bị đơn ông Phan Thanh T: Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ
thẩm, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia tố
tụng nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.
Tại Bản án dân sự thẩm số 36/2024/DS-ST, ngày 10 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 271 Điều 273 của Bộ
luật tố tụng dân sự; Các Điều 385, 386, 389, Điều 404, 410, 483, 484, 485, 488 của
Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP
ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11
năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003; Điều
26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội 14.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T.
1.1. Buộc ông Phan Thanh T phải trả cho Công ty cổ phần phê T sản lượng
phê quả tươi còn nợ của 05 niên v(từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2022-2023)
là 7.510kg.
1.2. Buộc ông Phan Thanh T phải nộp tiền thuê đất phần 49% về Công ty (truy
thu năm 2015 đến 2017) tiền thuê đất 05 năm (từ năm 2018 đến năm 2022)
3.604.257 đồng (Ba triệu, sáu trăm lẻ bốn nghìn, hai trăm năm mươi bảy đồng).
4
1.3. Buộc ông Phan Thanh T phải bồi thường cho Công ty cổ phần phê T
51% trị giá 224 cây cà phê trồng năm 1994 bị cắt bỏ là 26.504.037 đồng (Hai mươi
sáu triệu, năm trăm lẻ bốn nghìn, không trăm ba mươi bảy đồng).
1.4. Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên
số 110/2017/HĐ-GK ngày 11/11/2017 giữa Công ty TNHH MTV phê T ông
Phan Thanh T.
Ông Phan Thanh T nghĩa vụ trả lại diện tích đất đã nhận khoán 6.000m
2
871m
2
diện ch bờ lô, tại thửa đất số 69a+27a, tờ bản đồ số 14, thuộc đội 15/1;
địa chỉ thửa đất: H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Thửa đất tứ cận: Phía Bắc giáp
thửa 26a, tờ bản đồ số 14, người nhận khoán ông Đào Quang T; Phía Nam giáp
mương thủy lợi; Phía Đông giáp thửa 27, 69, tờ bản đồ số 14, người nhận khoán ông
Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Văn Đ; Phía Tây giáp thổ cư thôn 15 và tài sản trên đất
bao gồm: 471 Cây cà phê vối (349 Cây trồng năm 1994, 01 cây trồng năm 2019, 10
Cây trồng năm 2020, 59 Cây trồng năm 2021, 22 cây trồng năm 2022, 30 cây trồng
m 2023); 49 cây Muồng đen trồng m 2015; 66 Cây Tiêu trồng bám trên cây
muồng (27 cây trồng năm 2021, 39 cây trồng năm 2022).
- Buộc Công ty cổ phần phê T phải nghĩa vụ thanh toán giá trị vườn cây
cho ông Phan Thanh T số tiền 51.388.212 đồng (Năm mươi mt triệu, ba trăm tám
mươi tám nghìn, hai trăm mười hai đồng).
- Buộc ông Phan Thanh T phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các loại cây trồng
và các vật kiến trúc đã trồng và tạo dựng trên đất không đúng theo thỏa thuận trong
hợp đồng đã ký kết, bao gồm: 131 Cây Sầu riêng ghép (30 Cây trồng năm 2018, 14
cây trồng năm 2019, 66 cây trồng năm 2022, 16 cây trồng năm 2023); 94 Cây cau
(72 cây trồng năm 2020, 17 cây trồng năm 2021, 05 cây trồng năm 2022); 208 Cây
nhãn (86 cây trồng năm 2021, 122 cây trồng năm 2022); 54 Cây Tiêu trồng năm 2023
bám trên cây gòn; 02 Cây mít ghép trồng năm 2021; 05 Cây ghép trồng năm
2021; 04 trụ tông (10cmx10cmx1,8m); 12m ới B40 cao 1,5m; 20m dây kẽm
gai; 02 cánh cửa sắt, bọc lưới B40 cao 1,6m, rộng 1,5m/1cánh. Công ty cphần
phê T không nghĩa vụ phải thanh toán lại số tiền giá trị các loại cây trồng, vật kiến
trúc nêu trên cho ông T.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định lãi suất trong quá trình thi hành
án, án phí và tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/10/2024, bị đơn ông Phan Thanh T kháng cáo
toàn bộ bản án thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người đại
diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa trình bày ý
quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử, Thẩm phán, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự;
5
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ
luật tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng o của bị đơn ông Phan Thanh T,
sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số 36/2024/DS-ST ngày 10/9/2024 của Toà án nhân dân
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk về nội dung nộp tiền thuê đất và tài sản trên đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ,
lời trình bày của đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định
như sau:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của bị đơn trong hạn luật định, đã nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Theo Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê cho hộ nông trường viên số
110/2017/HĐ-GK ngày 11/11/2017 giữa bên giao khoán Công ty TNHH MTV
phê T và bên nhận khoán ông Phan Thanh T. Đối chiếu theo hợp đồng thì ông T
nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1994 của Công ty có diện tích
6.000m
2
và diện tích bờ lô 871m
2
. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 15/1, tại thửa
60a+27a, tờ bản đồ số 14, địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá
vườn cây khi nhận khoán 23.605.234 đồng; Giá trị vườn cây còn lại 4.762.568 đồng.
Phần giá trị vườn cây trên đất ng ty p 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao
khoán 04 năm (từ ngày kết hợp đồng đến niên vụ 2020 -2021). Đến ngày
09/10/2019 thì Công ty TNHH MTV phê T chuyển đổi loại hình Doanh nghiệp
thành Công ty cổ phần cà phê T theo Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp công
ty cổ phần do sở kế hoạch đầu tư tỉnh Đắk Lắk cấp (Bút lục 47).
[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc buộc bị đơn ông Phan Thanh T phải trả cho Công ty cổ phần cà
phê Thắng Lợi sản lượng phê quả tươi (từ niên vụ 2018 đến niên vụ 2023)
7.510kg. Hội đồng xét xử phúc thẩm, xét thấy:
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê số
110/2017/HĐ-GK ngày 11/11/2017, các bên có thỏa thuận nội dung: “Nghĩa vụ của
bên B (ông T) thực hiện nộp sản lượng cho bên A theo quy định”. Tniên vụ năm
(2018 - đến niên vụ năm 2023), bị đơn ông T đã không thực hiện đầy đnghĩa vụ
nộp sản lượng cho Công ty là vi phạm nghĩa vụ của bên nhận khoán theo hợp đồng
đã thỏa thuận. Do đó, xét yêu cầu khởi kiện của Công ty về việc buộc ông T phải trả
7.510kg phê quả tươi còn nợ của 05 niên vụ trên có n cứ, nên không căn
cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông T về yêu cầu này.
[2.3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc buộc bị đơn ông Phan Thanh T phải nộp tiền thuê đất phần 49%
về Công ty (truy thu năm 2015 đến 2017) và tiền thuê đất 05 năm (từ năm 2018 đến
năm 2022) với số tiền là 3.604.257 đồng, nhận thấy:
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn, xác định nghĩa vụ của
bên B nội dung: Bên B có nghĩa vụ nộp tiền thuê đất, thuế đất nông nghiệp cho
6
Nhà nước, theo tỷ lệ 51 49%, phần bên B chịu 49% nộp vào tháng 11 trong năm
thông qua bên A”. Đối chiếu các Thông báo nộp thuế từ năm 2017 đến Thông báo số
1252 ngày 29/4/2021 về tiền thuê đất của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk tnăm 2021 tiền
thuê đất được tính 1.785.408đ/ha /năm. Đối chiếu thời điểm xác lập Hợp đồng khoán
gọn vườn cây phê số 110/2017/HĐ-GK vào ngày 11/11/2017, do ông T chưa
thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất từ năm 2018 đến năm 2022, nên Tòa án cấp sơ
thẩm chấp nhận khoản tiền này là có căn cứ. Tuy nhiên tính về thời gian xác lập hợp
đồng thì khoản truy thu tiền thuê đất đối với ông T từ năm 2015-2017 nguyên
đơn yêu cầu không phù hợp. Bởi thời gian (2015-2017), bị đơn chưa ký hợp đồng
với nguyên đơn. Do vậy Tòa án cấp thẩm buộc ông T nghĩa vụ phải nộp cả
phần tiền thuê đất trên không phù hợp. Do đó, cần chấp nhận một phần yêu cầu
kháng cáo này của bị đơn, sửa án sơ thẩm, theo hướng. Buộc ông T phải thanh toán
về khoản tiền thuê đất tnăm 2018-2022 cho nguyên đơn với mức nộp 49% tương
ứng với số tiền 3.002.682 đồng, không chấp nhận đối với khoản tiền 601.575 đồng
truy thu năm 2015 đến 2017.
[2.4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc buộc bị đơn ông Phan Thanh T phải bồi thường thiệt hại do hành
vi tự ý chặt nhổ 224 Cây cà phê vi trồng năm 1994 phần 51%, nhận thấy:
Căn cứ Biên bản vi phạm tự ý nhổ thanh cây phê ngày 04/6/2021 xác
nhận của Công an xã Hòa Đông thì ông T đã tự ý cắt nhổ 224 cây cà phê trồng năm
1994 không được sự cho đồng ý của Công ty. Theo biên bản định giá cuả Hội đồng
định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk, xác định 224 cây phê
trồng năm 1994 có giá 51.968.700 đồng. Theo Điều 1 của Hợp đồng khoán gọn xác
định:“Phần gtrị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%”. Đối với
số cây phê trên là năm trong Hợp đồng khoán gọn đã bị ông T tự ý chặt nhổ không
được sự cho phép của Công ty, do đó cấp thẩm buộc ông Phan Thanh T phải hoàn
trả lại 51% giá trị 224 cây cà phê trồng năm 1994 cho nguyên đơn tương ứng với số
tiền 26.504.037 đồng là phù hợp. Nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng
cáo này của bị đơn ông T.
[2.5] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc buộc bị đơn ông Phan Thanh T phải chấp dứt hợp đồng khoán
gọn vườn cây số 110/2017/HĐ-GK ngày 11/11/2017 và trả lại vườn cây nhận khoán
theo hợp đồng, nhận thấy:
Theo thỏa thuận tại khoản 5 Điều 6 của Hợp đồng giao khoán quy định về điều
khoản cam kết chung thì Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên B không hoàn
thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm phê theo định mức hàng năm, thì bên A quyền
áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ đơn phương chấm dứt hợp đồng
giao khoán, thu hồi vườn cây cà phê giao khoán, tiến hành giao cho người khác hợp
đồng”. Xét quá trình thực hiện hợp đồng ông T đã vi phạm hợp đồng trong việc giao
nộp sản phẩm từ niên vụ 2018 đến năm 2023, vi phạm việc trả tiền thuê đất hàng
năm đã vi phạm Hợp đồng khoán gọn đã ký kết. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên chấm dứt hợp đồng khoán gọn vườn
cây số 110/2017/HĐ-GK ngày 11/11/2017 giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay
Công ty cổ phần phê T) ông Phan Thanh T căn cứ, nên không căn
7
cứ chấp nhận nội dung kháng cáo này của bị đơn ông T.
Về hậu quả khi chấm dứt Hp đồng khoán gọn vườn cây số 110/2017/HĐ-GK
ngày 11/11/2017 giữa Công ty TNHH MTV phê T (nay Công ty cổ phần phê
T) ông Phan Thanh T: Đối với trị giá 471 Cây cà phê vối còn trên đất nhận khoán
theo hợp đồng là 89.486.800 đồng. Theo quy định tại Điều 1 của Hợp đồng được ký
kết giữa các bên thì “Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp
49%”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định khi chấm dứt hợp đồng thì Công ty phải
có nghĩa vụ thanh toán 49% giá trị vườn cây cà phê còn trên lô cho ông T tương ứng
với số tiền 43.848.532 đồng là có căn cứ chấp nhận.
[2.6] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Phan Thanh T về yêu cầu phải tr
lại trị giá vườn cây và các tài sản trên diện tích đất ông nhận khoán, nhận thấy:
Trong thời gian thực hiện hợp đồng bị đơn ông T đã trồng, tạo dựng, bao gồm:
49 cây Muồng đen trồng năm 2015giá 3.831.800 đồng; 131 Cây Sầu riêng ghép
(30 Cây trồng năm 2018, 14 cây trồng năm 2019, 66 cây trồng năm 2022, 16 cây
trồng năm 2023) giá 92.804.800 đồng; 94 Cây cau (72 cây trồng năm 2020, 17
cây trồng năm 2021, 05 cây trồng năm 2022) giá 4.034.760 đồng; 208 Cây nhãn
(86 cây trồng năm 2021, 122 cây trồng m 2022) có giá 45.351.600 đồng; 66 Cây
Tiêu trồng bám trên cây muồng (27 cây trồng năm 2021, 39 cây trồng năm 2022)
giá 3.707.880 đồng; 54 Cây Tiêu trồng năm 2023 bám trên cây gòn có giá 1.441.800
đồng; 02 Cây mít ghép trồng năm 2021 có giá 132.000 đồng; 05 Cây Bơ ghép trồng
năm 2021 có giá 1.098.000 đồng; 04 trụ bê tông (10cmx10cmx1,8m) có giá 420.000
đồng; 12m Lưới B40 cao 1,5mgiá 588.000 đồng; 20m dây kẽm gai có giá 41.666
đồng; 02 cánh cửa sắt, bọc lưới B40 cao 1,6m, rộng 1,5m/1cánh g1.100.000
đồng.
Đối chiếu tại Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê được quy định tại Điểm b
khoản 2 Điều 3 Hợp đồng quy định “...Trong phê chỉ y phê với cây
muồng đen, ngoài bờ được trồng xen tiêu”. Ngoài ra, tại Nghị Quyết 04/NQ-
HĐTV ngày 01/6/2017 Thông báo số 42/TB-CT ngày 09/6/2017 của ng ty
TNHH MTV Cà phê T thể hiện việc cho phép người nhận khoán trồng Cây tiêu phụ
bám trên cây muồng đen tròn và bờ lô cà phê.
Do đó, tài sản trên nhận khoán gồm: 49 cây Muồng đen trồng năm 2015
giá 3.831.800 đồng; 66 Cây Tiêu trồng bám trên cây muồng (27 cây trồng năm 2021,
39 cây trồng năm 2022) giá 3.707.880 đồng đây các loại tài sản ông Phan Thanh
T trồng đúng thỏa thuận trong hợp đồng nên được chấp nhận. Khi chấm dứt hợp đồng
giao khoán, ông T nghĩa vụ trả phần diện tích đất đã nhận khoán, thì Công ty phải
nghĩa vthanh toán lại cho ông T trị giá các tài sản trên 3.831.800 đồng +
3.707.880 đồng = 7.539.680 đồng là phù hợp.
Đối với các tài sản gồm: 131 Cây Sầu riêng ghép (30 Cây trồng năm 2018, 14
cây trồng năm 2019, 66 cây trồng năm 2022, 16 cây trồng năm 2023). Mặc dù, tại
thời điểm giao kết hợp đồng khoán gọn Công ty không cho phép hộ nhận khoán trồng
xen cây sầu riêng. Tuy nhiên, ngày 08/6/2018, Công ty ban hành Nghị quyết số
09/NQ-HĐTV về việc thống nhất cho triển khai trồng xen cây sầu riêng trong lô
phê khoán gọn (bút lục 62). Cùng ngày 08/6/2018, Công ty ban hành Quy trình số
01/QT-CT về trồng sen cây sầu riêng trong vườn cà phê khoán gọn gửi đến các đơn
8
vị sản xuất trồng trọt các hộ nhận khoán (bút lục 64) Quyết định số 273/QĐ-
TT-CCN ngày 03/7/2013 của Cục trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn về việc ban hành quy trình tái canh cây cà phê, áp dụng cho vườn cà phê
vối thể trồng xen cây phê trong lô thay cây che bóng lâu dài trong vườn cà phê.
Như vậy, đối với cây sầu riêng mà ông T trồng trên diện tích nhận khoán như trên là
phù hợp với Nghị quyết, Thông báo Quy trình của Công ty ban hành, do đó khi
chấm dứt hợp đồng thì cần buộc Công ty phải thanh toán lại giá trị 131 Cây Sầu riêng
ghép tương ứng với giá trị định giá 92.804.800 đồng (giá trị trên Hội đồng định
giá tài sản đã căn cứ mật độ trồng đ khấu trừ giá trị tương ứng là phù hợp) cho ông
T mới đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị đơn. Tuy bị đơn không có yêu cầu phản tố
trong vụ án, nhưng phía công ty có yêu cầu chấm dứt hợp đồng giao khoán nên Hội
đồng xét xphúc thẩm xét thấy cần giải quyết triệt để hậu quả khi chấm dứt hợp
đồng giao khoán giữa các bên theo quy định của pháp luật mới đảm bảo quyền lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
Đối với các loại tài sản gồm cây trồng kiến trúc trên đất gồm: 94 Cây cau (72
cây trồng năm 2020, 17 cây trồng năm 2021, 05 cây trồng năm 2022); 208 Cây nhãn
(86 cây trồng năm 2021, 122 cây trồng năm 2022); 54 Cây Tiêu trồng năm 2023 bám
trên cây gòn; 02 Cây mít ghép trồng năm 2021; 05 Cây Bơ ghép trồng năm 2021; 04
trụ bê tông; 12m Lưới B40 cao 1,5m có giá 588.000 đồng; 20m dây kẽm gai có giá;
02 cánh cửa sắt, bọc lưới B40 cao 1,6m, rộng 1,5m/1cánh do ông T trồng, tạo dựng
không đúng thỏa thuận trong hợp đồng, Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông T phải chặt bỏ
hoặc tháo dỡ, di dời, ng ty không nghĩa vụ thanh toán lại cho ông T trị giá số
tài sản này là có căn cứ.
[3] Về xác định nghĩa vụ thanh toán của các bên khi chấm dứt hợp đồng khoán
gọn vườn cây: Theo nhận định tại mục [2.1] đến [2.6] xác định nghĩa vụ các bên cụ
thể như sau: Ông Phan Thanh T có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty cổ phần cà phê
T 7.510 kg phê quả tươi và tổng số tiền 3.002.682 đồng (Tiền thuê đất từ năm
2018-2022) + 26.504.037 (tiền bồi thường thiệt hại do hành vi tự ý chặt nhổ 224 Cây
cà phê vi trồng năm 1994) tổng cộng: 29.506.719 đồng.
Công ty cổ phần phê T nghĩa vụ thanh toán cho ông Phan Thanh T tổng
số tiền: 43.848.532 đồng (giá trị 49% vườn phê còn lại) + 7.539.680 (giá trị cây
muồng đen cây tiêu sống bám trên trụ muồng) + 92.804.800 đồng (giá trị sầu riêng
ghép trồng xen trên đất). Tổng cộng: 144.192.832 đồng.
Khấu trừ nghĩa vụ thanh toán của các bên, ông Phan Thanh T còn phải thanh
toán cho Công ty cổ phần cà phê T 7.510 kg cà phê quả tươi. Công ty cổ phần phê
T có nghĩa vụ thanh toán cho ông Phan Thanh T số tiền 114.686.113 đồng.
Từ những phân tích nhận định nêu trên, cần chấp nhận một phần yêu cầu
kháng cáo của bị đơn ông Phan Thanh T. Sửa bản án dân sự thẩm số 36/2024/DS-
ST ngày 10/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá tài
sản 11.450.000 đồng, số tiền này nguyên đơn đã nộp. Do yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn được chấp nhận một phần nên nguyên đơn, bị đơn mỗi bên phải chịu ½
của số tiền 11.450.000 đồng. Hoàn tr lại cho nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T
số tiền 5.725.000 đồng sau khi thu đươc từ bị đơn ông Phan Thanh T.
9
[5] Về án phí:
[5.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa án sơ thẩm, nên cần xác định lại án phí dân
sự sơ thẩm như sau:
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên bị đơn
ông Phan Thanh T phải chịu 600.000 đồng án phí dân sự không giá ngạch và phải
chịu án phí có giá ngạch đối với các yêu cầu của nguyên đơn được tòa án chấp nhận
gồm: 7.510kg cà phê quả tươi tương ứng (Giá cà phê tại thời điểm xét xử sơ thẩm là
(118.000đồng/kg : 4,55kg) x 7.510kg) 194.764.835 đồng + 3.002.682 đồng (Tiền
thuê đất từ năm 2018-2022) + 26.504.037 đồng (tiền bồi thường thiệt hại do hành vi
tự ý chặt nhổ 224 Cây cà phê vi trồng năm 1994). Tổng cộng: 224.271.554 đồng x
5% = 11.213.577 đồng.
- Nguyên đơn Công ty cổ phần phê T phải chịu án phí có giá ngạch đối với
nghĩa vụ thanh toán cho ông Phan Thanh T các khoản không được chấp nhận gồm:
43.848.532 đồng (giá trị 49% vườn phê còn lại) + 7.539.680 đồng (giá trị cây
muồng đen cây tiêu sống bám trên trụ muồng) + 92.804.800 đồng (giá trị sầu riêng
ghép trồng xen trên đất) + 601.575 đồng (tiền thuê đất truy thu năm 2015-2017 không
được chấp nhận). Tổng cộng: 144.794.578 đồng x 5% = 7.239.729 đồng. Được khấu
trừ vào số tiền 2.070.000 đồng (Hai triệu, không trăm bảy mươi nghìn đồng) tạm ứng
án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0016671 ngày 28/11/2022 830.000
đồng (tám trăm ba mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số
AA/2022/0003274 ngày 18/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc.
Sau khi khấu trừ, Công ty cổ phần cà phê T còn phải nộp 4.339.729 đồng án phí dân
sự sơ thẩm có giá ngạch.
[5.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên
ông Phan Thanh T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Số tiền 300.000 đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2023/0006107 ngày 14/10/2024 tại Chi
cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc được dùng để khấu trừ vào số tiền án phí
dân sự sơ thẩm ông T còn phải nộp.
[6] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Phan Thanh T. Sửa bản
án dân sự thẩm số 36/2024/DS-ST ngày 10/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Căn c các Điều 385, 386, 389, Điều 404, 410, 483, 484, 485, 488 của Bộ luật
dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày
08/11/2005 của Chính phủ; Thông số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm
2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003.
Áp dụng Điều 26, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
10
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà
phê T.
[1.1] Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây phê số 110/2017/HĐ-GK
ngày 11/11/2017 giữa ng ty TNHH MTVphê T (nay Công ty cổ phần phê
T) ông Phan Thanh T.
[1.2] Buộc bị đơn ông Phan Thanh T nghĩa vụ trả lại diện tích đất đã nhận
khoán là 6.000m
2
và 871m
2
diện tích bờ lô, tại thửa đất số 69a+27a, tờ bản đồ số 14,
thuộc đội 15/1; địa chỉ thửa đất: Hòa Đông, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Thửa
đất tứ cận: Phía Bắc giáp thửa 26a, tbản đồ số 14, người nhận khoán ông Đào
Quang T; Phía Nam giáp ơng thủy lợi; Phía Đông giáp thửa 27, 69, tờ bản đồ số
14, người nhận khoán ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Văn Đ; Phía Tây giáp thổ cư
thôn 15 và tài sản trên đất theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/7/2023,
bao gồm: 471 Cây cà phê vối (349 Cây trồng năm 1994, 01 cây trồng năm 2019, 10
Cây trồng năm 2020, 59 Cây trồng năm 2021, 22 cây trồng năm 2022, 30 cây trồng
năm 2023); 49 cây Muồng đen trồng năm 2015; 66 Cây tiêu trồng bám trên cây
muồng (27 cây trồng năm 2021, 39 cây trồng năm 2022); 131 Cây Sầu riêng ghép
(30 Cây trồng năm 2018, 14 cây trồng năm 2019, 66 cây trồng năm 2022, 16 cây
trồng năm 2023).
[1.3] Buộc bị đơn ông Phan Thanh T phải tự tháo dỡ, di dời hoặc chặt bỏ các
loại cây trồng các vật kiến trúc đã trồng tạo dựng trên đất không đúng theo thỏa
thuận trong hợp đồng đã kết, bao gồm: 94 Cây cau (72 cây trồng năm 2020, 17
cây trồng năm 2021, 05 cây trồng năm 2022); 208 Cây nhãn (86 cây trồng năm 2021,
122 cây trồng năm 2022); 54 Cây Tiêu trồng năm 2023 bám trên cây gòn; 02 Cây
mít ghép trồng năm 2021; 05 Cây bơ ghép trồng năm 2021; 04 trụ bê tông
(10cmx10cmx1,8m); 12m Lưới B40 cao 1,5m; 20m dây kẽm gai; 02 cánh cửa sắt,
bọc lưới B40 cao 1,6m, rộng 1,5m/1cánh. Công ty cổ phần cà phê T không có nghĩa
vụ phải thanh toán lại số tiền giá trị các loại cây trồng, vật kiến trúc nêu trên cho ông
T.
[1.4] Buộc bị đơn ông Phan Thanh T phải thanh toán cho nguyên đơn Công ty
cổ phần cà phê T 7.510 kg cà phê quả tươi.
[1.5] Buộc nguyên đơn Công ty cổ phần phê T phải thanh toán cho bị đơn
ông Phan Thanh T tổng số tiền 114.686.113 đồng.
[2] Về chi phí tố tụng: Hoàn tr lại cho nguyên đơn Công ty cổ phần phê T
số tiền 5.725.000 đồng sau khi thu đươc từ bị đơn ông Phan Thanh T.
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
[3] Về án phí:
11
[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Phan Thanh T phải chịu 600.000 đồng
án phí dân sự không giá ngạch và 11.213.577 đồng án phí giá ngạch đối với các
yêu cầu của nguyên đơn được tòa án chấp nhận.
Nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T phải chịu 7.239.729 đồng án phí dân sự
thẩm giá ngạch. Được khấu trừ vào số tiền 2.070.000 đồng (Hai triệu, không
trăm bảy mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số
AA/2021/0016671 ngày 28/11/2022 830.000 đồng (tám trăm ba mươi nghìn đồng)
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0003274 ngày 18/8/2023 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Sau khi khấu trừ, Công ty cổ phần cà
phê T còn phải nộp 4.339.729 đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
[3.2] Án phí dân sphúc thẩm: Bị đơn ông Phan Thanh T không phải chịu án
phí dân sphúc thẩm. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
AA/2023/0006107 ngày 14/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc
được dùng để khấu trừ vào số tiền án phí dân sự sơ thẩm ông T n phải nộp.
[4]. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS huyện Krông Pắc;
- Đương sự;
- Cổng thông tin điện tử TA;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Bằng
12
Tải về
Bản án số 15/2025/DS-PT Bản án số 15/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 15/2025/DS-PT Bản án số 15/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất