Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 06/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Phúc
Số hiệu: 06/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn N, bà Lê Thị T1 phải trả ông V số tiền 65.000.000 đồng (sáu mươi lăm triệu đồng) không lãi suất.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 06/2025/DS - PT
Ngày 21 - 01 - 2025
“Tranh chấp nghĩa vụ trả tiền
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Vũ Văn Mạnh
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thị Thúy Mai
Ông Hoàng Văn Sỹ.
- Thư phiên toà: Ông Đường Thái Sơn - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên tòa:
Ông Phùng Ngọc Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
xét xử phúc thẩm công khai ván dân sự thụ số 123/2024/TLPT-DS ngày 06
tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp nghĩa vụ trả tiền”.
Do bản án dân sự thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2025/QĐ-PT ngày 02 tháng 01
năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1967; Trú tại: Thôn X,
T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn V anh Nguyễn
Quang T, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh
Phúc (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1968 Thị T1, sinh năm
1972; Cùng trú tại: Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm
1968; địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị T2 anh Nguyễn
Quang T, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh
Phúc (có mặt).
Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn N.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 29 tháng 12 năm 2023 và trong quá trình tố tụng
tại Tòa án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn V người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn trình bày:
Ông V làm nghề kinh doanh thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm quen
biết với vợ chồng ông Nguyễn Văn N Thị T1 làm chăn nuôi lợn cá.
Từ ngày 05/10/2016, vợ chồng ông N mua cám của ông V, hai bên thỏa thuận
bằng lời nói tiền cám sẽ thanh toán toàn bộ vào thời điểm ngay sau khi vợ chồng
ông N bán mỗi lứa lợn, cá. Do ông N, T1 đã bán nhiều lứa lợn, nhưng
không thanh toán tiền; ông V nhiều lần yêu cầu trả tiền nợ thì ông N, T1 đều
khất nên ông V không bán cám cho vợ chồng ông N nữa. Tính đến ngày
14/02/2018, ông N, bà T1 n nợ ông V 145.000.000đồng.
Do ông V xe ô tải nên ngày 17/11/2018, ông N thuê ông V chở cám
cá, giá trị chuyến cám = 80.000.000đ (cả tiền cám và tiền công chuyên chở). Khi
chở thuê cám, ông V gọi điện yêu cầu trả tiền nợ thì ông N ông V trao đổi
thỏa thuận ông V lấy toàn bộ số cám trên chuyến xe chở thuê, khấu trừ cho ông
N 80.000.000đ tiền nợ (bằng giá trị chuyến xe cám). Sau khi khấu trừ, vợ chồng
ông N còn nợ ông V 65.000.000đ (sáu mươi lăm triệu đồng). Từ năm 2019 đến
đầu năm 2024, ông V nhiều lần đến nhà ông N, T1 để yêu cầu trả nợ nhưng
ông N, T1 không trả hứa hẹn, hết đến ngày khác nhưng không trả. Do
vậy, ông V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn N, bà Lê
Thị T1 phải trả ông V số tiền 65.000.000 đồng (sáu mươi lăm triệu đồng) không
lãi suất.
Việc ông N, T1 trình bày giữa ông V với ông N gọi điện thỏa thuận
ông V lấy chuyến hàng chcám trị g80.000.000đ để trừ toàn bộ số nợ
145.000.000đ không chính xác. Tại phiên tòa, ông V người đại diện theo
ủy quyền không yêu cầu vợ chồng ông N phải trả tiền lãi chậm trả của số tiền vợ
chồng ông N chưa thanh toán.
Bị đơn ông Nguyễn Văn N, bà Lê Thị T1 trình bày:
Từ năm 2016 đến năm 2018 ông, bà mua thức ăn chăn nuôi lợn, của
ông V. Hai bên thỏa thuận, sau mỗi lứa lợn, sẽ trả tiền cám. Tính đến ngày
14/02/2018, ông còn nợ ông V 145.000.000đồng. chăn nuôi thua lỗ nên
ông, bà đã thống nhất với ông V cho ông bà trả nợ dần.
Ngày 17/11/2018, ông V chở thuê cho ông một xe cám cá, trị giá
80.000.000đồng. Ông N ông V gọi điện với nhau, nội dung ông V lấy xe
hàng đó và trừ toàn bộ số tiền còn nợ 145.000.000đồng. Nay ông V yêu cầu ông
3
trả số tiền nợ 65.000.000đồng, ông không đồng ý. Ông xác định không
còn nợ ông V nữa.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T2 người đại
diện theo ủy quyền của bà T2 trình bày:
(Tưởng) vợ ông V; gia đình với gia đình ông Nguyễn Văn N,
Thị T1 quen biết qua việc bán cám cho nhau. Mọi giao dịch bán cám, chở
cám cho khách do ông V thực hiện nên T2 không biết cụ thể việc thỏa thuận
mua bán cám giữa ông V với vợ chồng ông N. Do vậy đề nghị Tòa án giải quyết
theo quan điểm của ông V.
Với nội dung bản án như trên tại bản án dân sự thẩm số 15/2024/DS-
ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc đã
quyết định: Căn cứ Điều 440 Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 37 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Q, xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn V.
Buộc ông Nguyễn Văn N, Thị T1 nghĩa vtrả ông Nguyễn Văn
V 65.000.000đ (Sáu mươi lăm triệu đồng) không lãi suất.
Ngoài ra còn quyết định về án phí, quyền yêu cầu thi hành án quyền
kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 01/10/2024, ông Nguyễn Văn N kháng cáo với do đã thỏa thuận
trừ hết tiền chuyến cám cho khoản nợ, đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc: Đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Văn N. Đề nghị căn cứ vào khoản 1 Điều 308 giữ nguyên bản án dân sự
thẩm s15/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân huyện
Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
Ông N, T1 không chứng cứ, tài liệu nào mới nhưng cho rằng đã
thỏa thuận qua điện thoại với ông V trừ toàn bộ xe cám trị giá 80.000.000đ cho
toàn bộ số tiền còn nợ của ông V 145.000.000đ nên không đồng ý trả ntheo
yêu cầu của ông V.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn N làm trong hạn luật
4
định hợp lệ được chấp nhận.
[2] Về nội dung vụ án:
Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn, người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện theo ủy quyền của người
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều xác định:
Từ năm 2016 đến năm 2018, ông Nguyễn Văn V bán thức ăn chăn nuôi
lợn, cho ông Nguyễn Văn N, Thị T1. Hai bên thỏa thuận, sau mỗi lứa
thu hoạch lợn, thì vợ chồng ông N sẽ trả tiền cám cho ông V. Tính đến ngày
14/02/2018, vợ chồng ông Nguyễn Văn N, Thị T1 còn nợ ông Nguyễn
Văn V 145.000.000đồng tiền cám. Ngày 17/11/2018, vợ chồng ông N thuê ông
V chở một xe ôtô cám chăn nuôi trị giá 80.000.000đồng nhưng ông V không
chở cho vợ chồng ông N mà ông V sẽ lấy trừ vào tiền nợ.
Theo ông V, T2 thì ông N ông V thỏa thuận ông V lấy toàn bộ số
cám trên và khấu trừ cho ông N, T1 80.000.000đ tiền nợ (bằng giá trị chuyến
xe cám). Vợ chồng ông N, T1 còn nợ ông V 65.000.000đ. vậy, ông V đề
nghị Tòa án giải quyết buộc ông N, T1 phải hoàn trả khoản tiền còn nợ,
không yêu cầu tính lãi suất của số tiền chậm thanh toán.
Phía ông N, T1 cho rằng giữa ông N ông V đã gọi điện thỏa thuận
với nhau, nội dung là ông V lấy xe hàng chở thuê 80.000.000đ và sẽ trừ hết toàn
bộ số tiền ông, còn nợ ông V (145.000.000đ). Do vậy, ông, không còn nợ
ông V bất cứ khoản tiền nào nữa.
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn N về việc đề nghị hủy án thẩm vì
ông và T1 không còn nợ ông V nữa, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các đương
sự chỉ tranh chấp về việc ông V chở cho ông N chuyến m (nhưng không
chuyển cho ông N ông V nhận) để trừ đi đúng giá trị của chuyến cám
80.000.000đ hay trừ đi toàn bộ số tiền mà ông N, T1 còn nợ ông V
145.000.000đ. Nhận thấy: Khi thỏa thuận đổi hàng trừ nợ giữa giá trị của xe
hàng với số tiền thực nông V, thì giữa ông N ông V khai chỉ gọi điện thoại
cho nhau, không ghi âm, ghi hình; không người chứng kiến, không lập biên
bản. Ông N, T1 không đưa ra được bất cứ chứng cứ, giấy tờ, tài liệu chứng
minh nào thể hiện việc ông V đồng ý với thỏa thuận đổi hòa (cho giá trị của
chuyến cám trị giá 80.000.000đ trừ đi hết cho số tiền còn nợ ông V
145.000.000đ) như ông N bà, T1 khai.
Giá trị của xe hàng ông Nguyễn Văn V trở thuê cho vợ chồng ông N
không tương xứng với số tiền vợ chồng ông N còn nợ ông V (Số tiền còn nợ cao
hơn trị giá 01 xe ô cám). Sau khi đối trừ số tiền nợ 145.000.000đ và giá trị xe
cám 80.000.000đ thì vợ chồng ông N vẫn còn nợ ông V 65.000.000đ, nên ông V
5
yêu cầu ông N, bà T1 trả là đúng.
Tòa án cấp thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
căn cứ đúng pháp luật. Kháng cáo của ông Nguyễn Văn N không
cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông V không yêu cầu lãi suất, không yêu cầu tính lãi suất của số tiền
chậm thanh toán từ khi nợ đến khi xét xnên Hội đồng xét xử sơ thẩm không
xem xét, giải quyết căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp thẩm không áp dụng
Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sđể buộc ông N, T1 phải chịu lãi suất của
số tiền chậm trả kể từ ngày ông V làm đơn thi hành án đến ngày ông N, bà T1
thanh toán xong số tiền phải trả là chưa phù hợp. Cấp phúc thẩm cần điều chỉnh
lại cách tuyên cho phù hợp và cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[3] Về án phí: Do kháng cáo của ông N không được chấp nhận nên phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định khoản 1 Điều 29 Nghị quyết:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tại phiên
tòa là có căn cứ, được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn N. Giữ nguyên bản án
dân sự thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của a án nhân
huyện Y.
2. Căn cứ các Điều 357, Điều 468 Điều 440 Bộ luật dân sự; Điều 147
Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 37 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết số
326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Q,
xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn V.
Buộc ông Nguyễn Văn N, Thị T1 phải trả ông Nguyễn Văn V số
tiền còn chưa thanh toán là 65.000.000đ (Sáu mươi lăm triệu đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, số tiền nêu
trên người phải thi hành án không trả được, thì còn phải trả tiền lãi đối với số
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả
các bên có quyền thỏa thuận theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự. Nếu
các bên không thỏa thuận được thì người phải thi hành án phải chịu lãi suất
6
chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chậm trả.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn N, Thị T1 phải chịu 3.250.00(Ba triệu hai
trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Văn V không phải chịu án phí dân sự thẩm, phúc thẩm.
Hoàn trả ông Nguyễn Văn V số tiền tạm ứng án phí thẩm 1.900.000đ (Một
triệu chín trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên lai thu số 0003234 ngày 15/4/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Lạc.
- Ông Nguyễn Văn N phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được
trừ vào số 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại biên lai thu số
0003429 ngày 11/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Lạc. Xác
nhận ông Nguyễn Văn N đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Yên Lạc;
- Chi cục THADS huyện Yên Lạc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Vũ Văn Mạnh
Tải về
Bản án số 06/2025/DS-PT Bản án số 06/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 06/2025/DS-PT Bản án số 06/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất