Bản án số 25/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 25/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 25/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 25/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 25/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 25/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông S cho rằng mình cho ông T vay tiền chứ không góp vốn làm ăn nên kiện đòi tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Văn An
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thụy Vũ
Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Văn Cường - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: ông Trần Đăng Ry - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
889/2024/TLPT- DS ngày 15 tháng 11 năm 2024 về việc: “tranh chấp về giao
dịch dân sự, hợp đồng dân sự”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 561/2024/DS-ST
ngày 22 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3609/2024/QĐ-PT, ngày 18 tháng
12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Thai Hang S, sinh năm 1955. Địa chỉ: G Lawre cer . M,
New Zealand.
Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn: bà Trần Thị M, sinh năm 1965.
Địa chỉ: 1 T, phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị đơn: ông Thái Trung T, sinh năm 1976. Địa chỉ: 1 M, Phường I, Quận
F, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH MTV S1. Địa
chỉ: 2 A, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật của công ty S1: ông Thái Trung T, sinh năm 1976.
Địa chỉ: 1 M, Phường I, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
Bản án số: 25/2025/DS-PT
Ngày: 14-01-2025
“V/v tranh chấp về giao dịch dân sự,
hợp đồng dân sự”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
- Người kháng cáo: bị đơn ông Thái Trung T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Đại diện nguyên đơn trình bày: ông Thai Hang S có cho ông T1 Trung
Tính vay số tiền là 48.000 USD tương đương với 960.000.000 đồng, hai bên có
lập biên nhận nhận tiền và các phiếu chi số 01 ngày 03/12/2010 và phiếu chi số
003 ngày 29/12/2010. Biên nhận tiền không có thỏa thuận về thời gian ông T phải
trả tiền lại cho ông Thai Hang S. Ông Thai Hang S có nhiều lần trực tiếp gặp ông
T yêu cầu ông T trả số tiền trên nhưng ông T không trả. Nay nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu ông T1 Trung Tính trả số tiền là 48.000 USD quy ra tiền đồng Việt
Nam.
* Đại diện ủy quyền của bị đơn trình bày: bị đơn có nhận của nguyên đơn
số tiền 2.000 USD vào ngày 02/11/2010, 10.000 USD vào ngày 11/11/2010,
10.000 USD vào ngày 19/10/2010, 15.000 USD vào ngày 25/10/2010 theo biên
nhận nhận tiền và 8.000 USD theo phiếu chi số 01 ngày 03/12/2010, 3.000 USD
theo phiếu chi số 003 ngày 29/12/2010 tổng cộng là 48.000 USD. Căn cứ vào sổ
thu chi của công ty TNHH một thành viên S2-TM Nguyên Thuận, phía bị đơn
khẳng định số tiền này là ông Thai Hang S đã góp vốn đầu tư vào công ty và đã
điều hành mọi hoạt động thu chi của công ty T2 khoảng thời gian từ tháng 02/2010
đến tháng 12/2010 cho nên số tiền 48.000 USD không phải là số tiền vay mà là
số tiền ông Thai Hang S hùn để hợp tác với công ty S1 của bị đơn để làm ăn. Ông
Thái Trung T chỉ đại diện cho công ty S1 nhận tiền nên nếu nguyên đơn khởi kiện
cá nhân ông T thì bị đơn không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 531/2014/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2014
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.
Buộc ông Thái Trung T trả cho ông Thai Hang S số tiền 1.013.760.000
đồng một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí, thi hành án và quyền
kháng cáo theo luật định.
Ngày 03/6/2014, ông Thái Trung T kháng cáo toàn bộ án sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 191/2016/DS-PT ngày 24/8/2016 Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên hủy bản án dân sự sơ thẩm
số 531/2014/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2014 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Ngày 08 tháng 3 năm 2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ
lý vụ án số 274/2017/TLST–DS về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
3
* Đại diện của nguyên đơn trình bày: nguyên đơn ông Thai Hang S có cho
bị đơn ông Thái Trung T vay nhiều lần tổng cộng là 48.000 USD cụ thể: 2.000
USD vào ngày 02/11/2010, 10.000 USD vào ngày 11/11/2010, 10.000 USD vào
ngày 19/10/2010, 15.000 USD vào ngày 25/10/2010 theo các biên nhận nhận tiền
và 8.000 USD theo phiếu chi số 01 ngày 03/12/2010, 3.000 USD theo phiếu chi
số 003 ngày 29/12/2010. Nguyên đơn và bị đơn không lập hợp đồng vay tiền mà
bị đơn chỉ lập biên nhận và phiếu thu để giao nhận tiền. Nay nguyên đơn yêu cầu
bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền đồng Việt nam tương đương với 48.000 USD
tại thời điểm xét xử. Khi hỏi vay tiền bị đơn có đưa cho nguyên đơn hàng và hợp
đồng hùn vốn của công ty S1 với một công ty khác làm tin để vay tiền chứ không
phải hợp đồng giữa nguyên đơn và công ty S1. Vì vậy, tại các biên nhận nhận tiền
mới có nội dung căn cứ hợp đồng hợp tác đầu tư sản xuất quần áo lót với công ty
S1. Nguyên đơn khẳng định giữa nguyên đơn và công ty S1 hoàn toàn không có
hợp đồng hợp tác đầu tư hay góp vốn nào cũng không có việc nguyên đơn đưa
tiền cho bị đơn để góp vốn đầu tư với công ty S1. Các giấy chứng nhận góp vốn
và quyết định về việc bổ nhiệm ông Thai Hang S làm phó giám đốc của công ty
S1 là do bị đơn tự tạo lập ra, hoàn toàn không có thật. Nguyên đơn hoàn toàn
không biết và không nhận được các văn bản này nên không có việc nguyên đơn
tham gia điều hành hoạt động của công ty S1. Các kết luận giám định của T3 đã
xác định các chữ ký tại sổ thu chi của công ty S1 do bị đơn cung cấp không phải
là chữ ký của nguyên đơn; điều này khẳng định nguyên đơn không góp vốn và
không điều hành hoạt động của công ty S1 như bị đơn trình bày. Trước khi khởi
kiện tại tòa, ông S đã có nhờ cơ quan công an giải quyết số nợ giữa ông S và ông
T nhưng hai bên không tìm được tiếng nói chung. Ông Thai Hang S ở nước ngoài,
phương tiện đi lại khó khăn và bận công việc nên không thể về trực tiếp giải quyết
vụ án. Ông Thai Hang S đã ủy quyền cho bà M tham gia tố tụng, đã thông báo
cho bà M biết toàn bộ nội dung, tình tiết của vụ việc. Bà M được đại diện ông S
trình bày ý kiến, trả lời, đối đáp mọi vấn đề do bị đơn nêu ra liên quan đến việc
giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn. Nguyên đơn có thiện chí hòa
giải nhưng bị đơn không có thiện chí hòa giải nên đề nghị Hội đồng xét xử giải
quyết buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền đồng Việt nam tương đương với
48.000 USD tại thời điểm xét xử.
* Bị đơn ông Thái Trung T đồng thời là đại diện theo pháp luật của công ty
TNHH MTV S1 trình bày: bị đơn có đơn yêu cầu hủy ủy quyền với ông Vũ Duyên
H, bị đơn sẽ trực tiếp tham gia tố tụng, bị đơn cũng thông báo bị đơn không nhờ
luật sư Trần Văn C bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn. Công ty S1 do
ông Thái Trung T là người đại diện theo pháp luật của công ty sẽ tham gia trực
tiếp. Bị đơn xác nhận có nhận của nguyên đơn ông Thai Hang S số tiền tổng cộng
là 48.000 USD cụ thể: 2.000 USD vào ngày 02/11/2010,10.000 USD vào ngày
11/11/2010, 10.000 USD vào ngày 19/10/2010, 15.000 USD vào ngày 25/10/2010
theo các biên nhận nhận tiền và 8.000 USD theo phiếu chi số 01 ngày 03/12/2010,
3.000 USD theo phiếu chi số 003 ngày 29/12/2010. Bị đơn xác nhận các chữ viết
và chữ ký tại các biên nhận nhận tiền và phiếu chi do nguyên đơn nộp là của bị
4
đơn. Tuy nhiên, các khoản tiền này là ông S góp vốn vào công ty S1, bị đơn đại
diện công ty S1 ký nhận tiền, tại các biên nhận và phiếu thu chỉ có chữ ký của bị
đơn không đóng dấu công ty vì nguyên đơn yêu cầu không đóng dấu tại các chứng
từ này. Nguyên đơn và bị đơn cũng như công ty S1 không cùng ký hợp đồng góp
vốn nào mà chỉ nói miệng vì lúc đó mới là giai đoạn đầu của việc thành lập công
ty nên nguyên đơn giao tiền cho bị đơn với tư cách đại diện công ty S1 để mua
trang thiết bị và ký xác nhận các khoản chi vào sổ thu chi của công ty. Giữa
nguyên đơn, bị đơn và công ty S1 không xác định tỷ lệ góp vốn, quyền lợi và trách
nhiệm của bên góp vốn là nguyên đơn đối với doanh thu và thiệt hại của công ty
nếu có. Công ty S1 cũng chưa từng chi bất cứ khoản lợi nhuận nào cho nguyên
đơn. Tại các biên nhận tiền có lúc ông T ghi ông Thái Trung T – Chủ tịch HĐQT
của công ty S1, có lúc ghi là Đổng sự của công ty S1 là do nhầm lẫn. Chức danh
của ông T1 Trung Tính là giám đốc của công ty TNHH MTV S1. Công Ty S1 có
ban hành các giấy chứng nhận góp vốn xác nhận ông Thai Hang S có góp vốn vào
công ty và quyết định về việc bổ nhiệm Phó giám đốc điều hành công ty, có giao
các văn bản này cho ông S nhưng không có chứng cứ chứng minh là đã giao cho
ông S. Công ty S1 không gửi các văn bản này cho Sở Kế hoạch đầu tư và không
đăng ký thay đổi bổ sung thành viên công ty. Ngoài sổ thu chi của công ty S1 mà
bị đơn đã nộp, bị đơn không có chứng cứ nào khác chứng minh nguồn tiền mà
ông S giao cho bị đơn được dùng vào hoạt động của công ty và nguyên đơn tham
gia điều hành hoạt động của công ty S1. Bị đơn yêu cầu triệu tập ông S về đối
chất với bị đơn để hòa giải. Bị đơn không đồng ý trả tiền cho nguyên đơn theo
yêu cầu của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 561/2024/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn ông Thai Hang S.
Buộc ông Thái Trung T trả cho ông Thai Hang S số tiền 1.186.560.000
đồng. Thi hành tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền
kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/9/2024, bị đơn ông Thái Trung T có đơn
kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm;
Trong phần tranh luận:
Ông Thái Trung T giữ nguyên kháng cáo và trình bày: khi ông S tới thì có
người đi cùng nên tôi muốn nhờ người này đứng ra làm chứng cho việc góp vốn
của ông S. Việc ông S cho rằng chỉ là cho tôi vay là không đúng. Đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Bà Trần Thị M trình bày: Phía nguyên đơn xin giữ nguyên quan điểm như
đã trình bày xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
5
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã tiến
hành đúng quy định của pháp luật; tại phiên tòa người tham gia tố tụng chấp hành
đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Tại phiên tòa, bị đơn có kháng cáo nhưng không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu của mình
nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình
bày của các đương sự, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát và căn cứ vào kết quả
tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Thái Trung T thực hiện đúng theo quy
định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Thai Hang S vắng mặt đã có người đại
diện theo ủy quyền bà Trần Thị M nên căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự,
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự nêu trên.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm xác định trình tự, thẩm quyền, tư cách tham gia tố
tụng của các đương sự trong vụ án là phù hợp theo các quy định của bộ luật tố
tụng dân sự.
[4] Xét kháng cáo của bị đơn ông Thái Trung T:
[4.1] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn ông Thái
Trung T thừa nhận có nhận của ông Thai Hang S số tiền 48.000 USD. Tuy nhiên,
bị đơn cho rằng số tiền 48.000 USD mà ông đã nhận của ông Thai Hang S không
phải là số tiền vay mà là số tiền ông Thai Hang S góp vốn hợp tác làm ăn với
Công ty TNHH MTV S1, không phải là cá nhân ông T nhận nên không đồng ý
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4.2] Căn cứ vào kết luận giám định số 2204/C54-P5 ngày 16/9/2013 của
T3 – Tổng cục cảnh sát P kết luận chữ viết bằng chữ Trung Quốc trên biên nhận
và chữ ký của ông Thai Hang S trên sổ thu chi của công ty S1 do phía bị đơn cung
cấp là không phải cùng một người viết ra. Ngoài sổ thu chi của công ty S1 mà bị
đơn đã cung cấp, bị đơn không giao nộp được chứng cứ nào khác chứng minh
nguồn tiền mà ông S giao cho bị đơn được dùng vào hoạt động của công ty và
nguyên đơn tham gia điều hành hoạt động của công ty S1. Nguyên đơn xác định
khoản tiền nguyên đơn giao cho ông T1 Trung Tính là khoản tiền vay của cá nhân
ông T, không thừa nhận có việc góp vốn vào công ty S1. Bị đơn không đưa ra
được chứng cứ chứng minh có hợp đồng góp vốn giữa Công ty S1 và ông Thai
6
Hang S nên không có cơ sở xác định số tiền ông Thai Hang S giao cho ông T1
Trung Tính là tiền ông Thai Hang S góp vốn và điều hành hoạt động Công ty
Nguyên Thuận như trình bày của ông T.
Mặt khác, bị đơn có cung cấp các giấy chứng nhận góp vốn xác nhận ông
Thai Hang S có góp vốn vào công ty và quyết định về việc bổ nhiệm Phó giám
đốc điều hành Công ty S1 do công ty S1 ban hành nhưng bị đơn không chứng
minh được đã giao các văn bản này cho nguyên đơn để nguyên đơn thực hiện
quyền hạn và trách nhiệm của mình. Các văn bản trên chỉ có một mình ông T ký
và đóng dấu, không có xác nhận của ông S; bị đơn ông T cũng xác nhận không
gửi các văn bản này cho Sở kế hoạch đầu tư và không đăng ký thay đổi bổ sung
thành viên công ty nên không có căn cứ xác định nguyên đơn có góp vốn vào công
ty S1 và tham gia điều hành hoạt động của công ty như bị đơn và đại diện của
công ty S1 trình bày.
[4.3] Căn cứ biên nhận nhận tiền và các phiếu chi do nguyên đơn cung cấp
thì tại các biên nhận nhận tiền và phiếu chi tiền đều do cá nhân ông T1 Trung Tính
ký tên, không có con dấu của Công ty S1. Hơn nữa, tại các biên nhận này thể hiện
lúc thì ông T ký nhận với tư cách ông T là Đ sự trưởng của công ty S1, lúc lại ký
nhận với tư cách là Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty S1. Trong khi theo
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH MTV S1 do Sở kế
hoạch và Đầu tư thành phố H cấp lần đầu ngày 12/6/2009 thì Công ty TNHH
MTV S1 tên chủ sở hữu: Thái Trung T, chức danh: Giám đốc nên việc bị đơn cho
rằng ông T đại diện cho Công ty S1 nhận số tiền 48.000 USD là không có cơ sở.
[5] Xét thấy, ông Thái Trung T thừa nhận có nhận tiền của ông Thai Hang
S nhưng cho rằng đây là tiền do ông Thai Hang S góp vốn làm ăn với Công ty chứ
không phải do ông T vay mượn. Tuy nhiên, như nhận định trên thì thấy rằng việc
ông T cho rằng ông Thai Hang S góp vốn nhưng ông không đưa ra được chứng
cứ để chứng minh; ông S cũng không thừa nhận việc này nên Tòa án cấp sơ thẩm
tuyên buộc ông phải trả lại cho ông S số tiền gốc đã nhận và tiền lãi phát sinh là
có căn cứ. Ông T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu của mình nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận; cần giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
[6] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên
bị đơn ông Thái Trung T phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
7
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Thái Trung T; giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 561/2024/DS-ST ngày 22 tháng 08 năm 2024 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn ông Thái Trung T phải chịu 300.000
đồng; được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0041299 ngày
19/9/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thụy Vũ Nguyễn Thị Thúy Hòa
Lê Văn An
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 03/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm