Bản án số 220/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 220/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 220/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 220/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 220/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Thủ Dầu Một (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 220/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà H khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/7/2017 giữa bà H và bà T vì đây không phải hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu bà T trả cho bà H số tiền nợ gốc 900.000.000đồng; không yêu cầu tính lãi |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒ A Á N NHÂ N DÂ N
THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 220/2024/DS-ST.
Ngày: 30 - 9 - 2024.
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hợp
đồng vay tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂ N DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Duy Nhân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đặng Minh Lý
2. Bà Nguyễn Thị Hồng Thanh
- Thư ký phiên tòa: Ông Bùi Phương Huỳnh – Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia
phiên tòa: Bà Lưu Kim Hằng - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số
381/2024/TLST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2024 về việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 238/2024/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 8 năm 2024 và Quyết
định hoãn phiên tòa số 338/2024/QĐST-DS ngày 13 tháng 9 năm 2024, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1963; địa chỉ: Số G, Tổ
D, khu phố K, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ô ng Ngô Anh K, sinh năm
1998 là người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Ngọc H (theo Văn bản ủy
quyền ngày 13/3/2024).
2. Bị đơn: Bà Huỳnh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989; địa chỉ: Số D Đại
lộ B, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2024 và lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án, nguyên đơn trình bày: Ngày 22/7/2017, bà Trần Thị Ngọc H có cho bà
Huỳnh Nguyễn Thanh T vay số tiền 900.000.000đồng, lãi suất 20%/năm. Hai
bên thỏa thuận miệng thời hạn trả là khi nào bà H cần tiền thì sẽ gọi điện và báo
trước cho bà T 03 ngày. Do bà T và bà H là chỗ quen biết đã từng thực hiện
nhiều giao dịch vay mượn với nhau trước đó nên hai bên không làm hợp đồng
vay, để đảm bảo cho khoản vay trên hai bên đã thỏa thuận làm hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền đất đối
với T1 số 828, tờ bản đồ số 06-01, diện tích 195m
2
theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CK 00903, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số CS 09037 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 10/7/2017 cho bà Huỳnh Nguyễn Thanh
T. Hai bên không lập biên bản giao nhận tiền mà chỉ ký hợp đồng chuyển
nhượng, sau đó bà T đã đưa bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CK 00903, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số CS 09037 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 10/7/2017 cho bà H giữ cho đến nay. Kể từ khi nhận tiền
cho đến thời điểm khởi kiện bà T vẫn chưa trả được nợ gốc cho bà H. Mặc dù bà
H đã nhiều lần liên hệ nhưng bà T luôn tìm cách lẫn tránh và hứa hẹn trả nhiều
lần vì không có khả năng trả một lần. Do vậy, bà H khởi kiện yêu cầu hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/7/2017 giữa bà H và bà T vì
đây không phải hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu bà T trả
cho bà H số tiền nợ gốc 900.000.000đồng; không yêu cầu tính lãi.
Về tiền lãi trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà T đã trả cho bà H được
số tiền lãi theo các sao kê tại Ngân hàng N – Chi nhánh T2 do bà H cung cấp
như sau:
Ngày 02/11/2020, bà T chuyển khoản trả lãi cho bà H 80.000.000đồng;
Ngày 09/02/2021, bà T chuyển khoản trả lãi cho bà H 100.000.000đồng;
Ngày 15/5/2021, bà T chuyển khoản trả lãi cho bà H 50.000.000đồng;
Và ngày 23/7/2021, bà T chuyển khoản trả lãi cho bà H 50.000.000đồng;
Tổng cộng bà T chuyển khoản trả lãi cho bà H 280.000.000đồng
Việc trả lãi được bà T cộng dồn và chuyển khoản cho bà H, hai bên
không lập giấy tờ giao nhận gì nên nay bà H xác định không yêu cầu tính lãi đối
với số tiền vay gốc 900.000.000đồng
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã
triệu tập, tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho bị đơn bà Huỳnh Nguyễn
Thanh T nhưng bà Huỳnh Nguyễn Thanh T không đến Tòa án tham gia tố tụng.
3
Căn cứ kết quả xác minh tại Công an phường H, thành phố T ngày 17
tháng 6 năm 2024 xác định bà Huỳnh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989 không
có đăng ký hộ khẩu thường trú hay tạm trú tại địa chỉ số D Đại lộ B, Tổ A,
phường H, thành phố T và căn cứ kết quả xác minh của Công an P, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/5/2024, xác định bà Huỳnh Nguyễn Thanh T,
sinh năm 1989 có hộ khẩu thường trú tại 2 N, Phường H, Quận A, Thành phố
Hồ Chí Minh nhưng chỗ ở hiện nay tại B Đại lộ B, Khu phố G, phường P, thành
phố T, tỉnh Bình Dương (từ năm 2017 đến nay). Tuy nhiên, căn cứ kết quả xác
minh tại Công an phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương ngày 18 tháng 6 năm
2024 xác định bà Huỳnh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989 không có đăng ký hộ
khẩu thường trú, tạm trú và cũng không sinh sống tại địa chỉ số B Đại lộ B, Khu
phố G, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương và tại Khu phố G, phường P
cũng không có địa chỉ như trên. Như vậy, căn cứ tài liệu chứng cứ do nguyên
đơn cung cấp và các kết quả xác minh nêu trên thì không xác định được nơi cư
trú hiện tại của bà Huỳnh Nguyễn Thanh T nên việc niêm yết công khai không
bảo đảm cho việc bị đơn bà Huỳnh Nguyễn Thanh T nhận được thông tin về văn
bản cần được cấp, tống đạt, thông báo. Vì vậy, căn cứ Điều 180 Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã tiến hành thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng đối với các văn bản tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án nhằm đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của các đương sự trong
vụ án.
Quá trình tố tụng, nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia phiên
tòa có ý kiến: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm
phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ, đúng các quy định pháp
luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã chấp hành đúng
theo quy định pháp luật, riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ
và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng không tham gia hoà
giải là không chấp hành đúng pháp luật. Đại diện Viện Kiểm sát không có ý kiến
cũng như kiến nghị sửa chữa, bổ sung gì thêm về phần thủ tục. Về nội dung,
nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận một phần
đối với yêu cầu hủy hợp đồng ngày 27/7/2017, không có căn cứ chấp nhận yêu
cầu trả số tiền vay 900.000.000đồng của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của vị
4
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài
sản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Huỳnh Nguyễn Thanh
T. Căn cứ kết quả xác minh tại Công an P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh
ngày 20/5/2024, xác định bà Huỳnh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989 có hộ
khẩu thường trú tại 2 N, Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng
chỗ ở hiện nay tại B Đại lộ B, Khu phố G, phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương (từ năm 2017 đến nay). Tuy nhiên, căn cứ kết quả xác minh tại Công an
phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương ngày 18 tháng 6 năm 2024 xác định bà
Huỳnh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989 không có đăng ký hộ khẩu thường trú,
tạm trú và cũng không sinh sống tại địa chỉ số B Đại lộ B, Khu phố G, phường
P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Căn cứ địa chỉ trên hợp đồng thỏa thuận về
việc mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện địa chỉ của bà T tại số
D Đại lộ B, Tổ A, phường H, thành phố T và quyền sử dụng đất theo thỏa thuận
tọa lạc tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương nên căn cứ quy định tại
khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố
tụng Dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
[2] Về tố tụng: Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn yêu cầu
giải quyết vắng mặt, bị đơn bà T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mặc dù đã
được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng nhưng bà T không đến Tòa án tham gia tố tụng, không gửi
văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng
không có đơn yêu cầu phản tố. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt tất cả các đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228
và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[3] Xét thấy, Hợp đồng thỏa thuận về việc mua bán chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 22/7/2017 giữa bà H và bà T về hình thức không đảm
bảo quy định pháp luật, về nội dung hợp đồng chỉ thể hiện số tiền thanh toán lần
1 là 900.000.000đồng, không thể hiện thời gian thanh toán đối với số tiền
chuyển nhượng còn lại, không có nội dung thỏa thuận về thời gian ký kết hợp
đồng tại Văn phòng công chứng và cũng không có nội dung bàn giao đất, việc
thực hiện thủ tục sang tên quyền sử dụng đất. Như vậy, cho thấy giữa bà H và bà
T không có nội dung ràng buộc trách nhiệm pháp lý về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Đồng thời, qua thu thập hồ sơ nguồn gốc đất tại Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T thể hiện quyền sử dụng đất thuộc Thửa
số 828, tờ bản đồ số 06-01, chủ sử dụng hiện nay vẫn do bà Huỳnh Nguyễn
5
Thanh T đứng tên chủ sử dụng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CK
00903, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số CS 09037 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh B cấp ngày 10/7/2017, chưa có biến động. Do đó, căn cứ Điều 124 Bộ luật
Dân sự 2015 xác định Hợp đồng thỏa thuận về việc mua bán chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 22/7/2017 giữa bà H và bà T là giả tạo nhằm che đậy
giao dịch vay tiền nên vô hiệu. Vì vậy, việc bà H yêu cầu hủy hợp đồng ngày
22/7/2017, yêu cầu bà T hoàn trả cho bà số tiền 900.000.000đồng và bà H đống
ý trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T là phù hợp với quy định về
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu nên có cơ sở xem xét chấp nhận.
[4] Nguyên đơn bà H xuất trình bản chính Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền đất số CK 00903, số vào sổ cấp GCNQSDĐ
số CS 09037 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 10/7/2017 cho bà
Huỳnh Nguyễn Thanh T và xác định hai bên không lập giấy vay mà chỉ lập hợp
đồng thỏa thuận về việc mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
22/7/2017 và bà T đã giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà
H giữ để làm tin. Mặc dù, nội dung hợp đồng chỉ thể hiện số tiền thanh toán lần
1 là 900.000.000đồng, không có ngày giao nhận tiền cụ thể nhưng chữ viết họ
tên và chữ ký tên bà T tại hợp đồng do chính bà T viết và ký tên; việc bà H đang
giữ bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền đất
số CK 00903, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số CS 09037 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 10/7/2017 cho bà T, có cơ sở xác định số tiền
900.000.000đồng là tiền bà H cho bà T vay thông qua hình thức hợp đồng thỏa
thuận chuyển nhượng ngày 27/7/2017. Đồng thời, quá trình giải quyết vụ án, bà
H cho rằng hai bên có thỏa thuận lãi suất 20%/năm và cung cấp các sao kê của
Ngân hàng N – Chi nhánh T2 ngày 02/11/2020, ngày 09/02/2021, ngày
15/5/2021 và ngày 23/7/2021 để chứng minh bà T đã chuyển khoản trả lãi cho
bà H được tổng số tiền là 280.000.000đồng. Tuy nhiên, do bà H không yêu cầu
tính lãi và bà T cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng
xét xử không xem xét đối với số tiền lãi.
[5] Quá trình tố tụng, bà T không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu
cầu khởi kiện, không cung cấp tài liệu chứng cứ để chứng minh giao dịch theo
Hợp đồng thỏa thuận về việc mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
22/7/2017 là giao dịch vay hay chuyển nhượng. Do đó, căn cứ Điều 91 Bộ luật
Tố tụng dân sự và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định Hợp đồng thỏa thuận về việc
mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/7/2017 giữa bà H và bà T là
vô hiệu theo Điều 124 Bộ luật Dân sự. Về xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng
vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự cần buộc bà Huỳnh Nguyễn
6
Thanh T phải hoàn trả cho bà H số tiền 900.000.000đồng tại mục thanh toán lần
1 của hợp đồng. Bởi lẽ, việc bà T tự viết thông tin họ tên và ký tên vào Hợp
đồng thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/7/2017 cho
thấy bà T thừa nhận giữa hai bên có xác lập giao dịch, nhưng nội dung hợp đồng
như đã phân tích trên hoàn toàn không thể hiện đầy đủ nội dung việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nên lời trình bày của nguyên đơn về việc xác định số
tiền 900.000.000đồng tại mục thanh toán lần 1 của hợp đồng là tiền vay là có cơ
sở chấp nhận. Đồng thời, cần buộc bà Trần Thị Ngọc H có trách nhiệm giao trả
bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền đất số
CK 00903, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số CS 09037 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 10/7/2017 cho bà Huỳnh Nguyễn Thanh T.
[6] Về chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm: Nguyên đơn tự nguyện chịu lệ
phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định. Bị đơn phải
chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật. Nguyên đơn không phải chịu án
phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 91, Điều 96 Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều
235, Điều 238, Điều 266, Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 124, Điều 131, Điều 463, Điều 466, Điều 469 của Bộ luật
Dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Ngọc H đối
với bị đơn bà Huỳnh Nguyễn Thanh T về việc tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản.
Tuyên Hợp đồng thỏa thuận về việc mua bán chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 22/7/2017 giữa bà Huỳnh Nguyễn Thanh T và bà Trần Thị Ngọc
H là vô hiệu.
Buộc bà Huỳnh Nguyễn Thanh T phải hoàn trả cho bà Trần Thị Ngọc H
số tiền 900.000.000đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
7
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Buộc bà Trần Thị Ngọc H phải giao trả lại bản chính Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK
00903, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số CS09037 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh B cấp ngày 10/7/2017 cho bà Huỳnh Nguyễn Thanh T.
3. Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm:
Về chi phí tố tụng: Bà Trần Thị Ngọc H tự nguyện chịu lệ phí thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng là 5.000.000đồng. Bà H đã nộp xong.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Nguyễn Thanh T phải chịu số tiền
án phí sơ thẩm là 39.300.000đồng.
Bà Trần Thị Ngọc H được miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí
Toà án
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà
có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc
được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND TP. Thủ Dầu Một;
- CCTHADS TP. Thủ Dầu Một;
- Đương sự;
- Lưu: HSVA, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Duy Nhân
Tải về
Bản án số 220/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 220/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm