Bản án số 21/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Hòa Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 21/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 21/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 21/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 21/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Hòa Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hòa Bình |
Số hiệu: | 21/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Nguyễn Văn H xin ly hôn với bà Bùi Thị D |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 21/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 27 - 9 - 2024
V/v Ly hôn, nuôi con sau ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đinh Trường Sơn
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Nhung và bà Phan Thị Bích
Thư ký phiên tòa: Bà Hà Phương Huyền – Thư ký Tòa án tỉnh Hòa Bình
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình tham gia phiên tòa:
Ông Phạm Văn Minh – Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, mở
phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 21/2024/TLST-HNGĐ ngày
01/8/2024 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2024/
QĐXXST-HNGĐ ngày 27/8/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2024/
QĐST-HNGĐ ngày 12/9/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1975. HKTT: thôn T, xã T,
huyện L, tỉnh Hòa Bình. Chỗ ở hiện nay: Số nhà 187, tổ 3, phường P, TP H, tỉnh
Hòa Bình.
2. Bị đơn: Bà Bùi Thị D, sinh năm 1974. HKTT: thôn T, xã T, huyện L,
tỉnh Hòa Bình. Chỗ ở: xóm C, xã M, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Hiện đang sinh
sống tại Đài Loan.
Ông H có đơn xin xét xử vắng mặt, bà D vắng mặt không lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện và tại lời khai trong suốt quá trình tố tụng, nguyên
đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:
Ông H và bà Bùi Thị D kết hôn năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND
xã M, huyện T, tỉnh Hòa Bình trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu.
Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc sau đó xảy
ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống không hợp nhau,
vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ năm 2014 đến nay ông H bà D đã sống
ly thân, đến năm 2019 bà D đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Vợ chồng
không quan tâm, không liên lạc với nhau. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không
2
thể hàn gắn được. Nay ông H không còn tình cảm với bà D nên đề nghị Tòa án
giải quyết xin được ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Văn L, sinh ngày
27/7/1997 và Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 12/9/2006. Đối với cháu Khải đã
trưởng thành trên 18 tuổi nên không đề nghị giải quyết. Đối với cháu H, ông Hải
khi ly hôn xin được nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục.
Về tài sản chung và công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản xác minh đối với gia đình bà Bùi Thị D (Ông Bùi Văn S; bà
Bùi Thị H, ông Đinh Công A, bà Bùi Thị C là anh trai, em gái, anh rể, chị dâu
của bà D) cho biết: Bà D sau khi kết hôn với ông H có sinh sống ở xóm C, xã M,
huyện T được một vài năm thì về Kim Bôi quê của ông H sống. Đến năm 2018
bà D trở về xóm C, xã M sống và đi xuất khẩu tại Đài Loan. Địa chỉ cụ thể của
bà D ở Đài Loan gia đình họ hàng không ai biết. Bà D có liên lạc về gia đình
thông qua mạng xã hội Zalo. Cuộc sống vợ chồng giữa ông H bà D không có
hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn theo quy định của pháp
luật.
Tại biên bản làm việc ngày 12/8/2024 đối với bà Bùi Thị D (Thông qua
mạng xã hội Zalo từ máy điện thoại của chị Bùi Thị Y - là con gái ông S) bà D
trình bày: Do công việc của bà D ở Đài Loan nay đây mai đó, không có địa chỉ
rõ ràng nên không thể cung cấp cho Tòa án được. Về mâu thuẫn vợ chồng là do
ông H không chung thủy và vợ chồng sống ly thân được khoảng 10 năm, tình
cảm không còn, mâu thuẫn trầm trọng . Bà D đi xuất khẩu lao động năm 2019
đến nay chưa về Việt Nam, nay bà D đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn với
ông H theo quy định của pháp luật.
Đại diện xóm C, xã M, huyện T cho biết: Trước khi đi xuất khẩu lao động
tại Đài Loan năm 2019, bà D có sinh sống ở xóm C, xã M, huyện T. Về mâu
thuẫn vợ chồng chính quyền địa phương không nắm được, chỉ biết vợ chồng ông
H, bà D sống không hạnh phúc nên ông H có làm đơn ly hôn.
Tại biên bản lấy lời khai cháu Nguyễn Ngọc H – Con đẻ ông H bà D cho
biết: Hiện cháu H đang được ông H nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục. Về mâu
thuẫn thì ông H bà D đã sống ly thân hơn 10 năm, không ai quan tâm đến ai nay
ly hôn, cháu H có nguyện vọng được ở với ông H.
Tại Công văn số 859/PA08 ngày 21/8/2024 của Phòng quản lý xuất nhập
cảnh – Công an tỉnh Hòa Bình cho biết: Bà Bùi Thị D, sinh năm 1975 đã được
cục quản lý xuất nhập cảnh cấp hộ chiếu C7036359, ngày 27/3/2019 và sử dụng
hộ chiếu trên để xuất cảnh qua sân bay Nội Bài ngày 10/4/2019, chưa có thông
tin nhập cảnh.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập, tống đạt hợp lệ
các văn bản tố tụng cho bà Bùi Thị D theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy
nhiên bà D đã không có mặt tại địa phương, do vậy Tòa án phải niêm yết các
văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.
Nguyên đơn đã có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, vì bị đơn
không có mặt tại địa phương, do đó vụ án không thể tiến hành hòa giải được.
3
Ngày 12/9/2024 vụ án được đưa ra xét xử, bị đơn bà D vắng mặt nên
phiên tòa phải hoãn lần thứ nhất. Hôm nay bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt không
có lý do.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu ý
kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
cho ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Bùi Thị D. Về con chung: Các con
đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và nợ
chung: Không có. Ông H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Ông Nguyễn Văn H khởi kiện xin ly hôn với bà Bùi Thị D. Hiện bà D
đang sinh sống tại Đài Loan. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37,
Điều 39, Điều 464 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh
Hòa Bình.
Tại phiên tòa ông H vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt bà D được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt. Căn cứ Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng
dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là
trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy áp dụng theo công Công văn số:
253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn
giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không
rõ địa chỉ.
Tòa án đã tiến hành triệu tập, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà
Bùi Thị D. Mặc dù biết việc triệu tập nhưng bà D không tới Tòa án để giải
quyết. Theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự: Đương sự phải có
nghĩa vụ tôn trọng Tòa án, phải có mặt theo giấy triệu tập và chấp hành quyết
định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy bà D đã từ bỏ quyền
lợi của mình về việc được nêu quan điểm, ý kiến và cung cấp chứng cứ chứng
minh. Theo Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án chỉ căn cứ vào các
chứng cứ, tài liệu do nguyên đơn cung cấp cũng như các tài liệu mà Tòa án đã
tiến hành xác minh, thu thập để làm căn cứ giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung:
2.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn H và bà Bùi Thị D kết hôn
năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện T, trên cơ sở được tìm
hiểu tự nguyện là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng đã nảy
sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và lối sống. Từ
năm 2014 vợ chồng đã sống ly thân, hiện bà D đang sinh sống và lao động tại
Đài Loan, vợ chồng tình cảm không còn, không ai quan tâm đến ai. Như vậy
mâu thuẫn giữa ông H và bà D đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt
được, đời sống chung không còn tồn tại. Căn cứ Điều 51; Điều 56 Luật Hôn
nhân và gia đình, xử cho ông Nguyễn Văn H được ly hôn bà Bùi Thị D.
4
2.2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con là Nguyễn Văn L, sinh ngày
27/7/1997 và Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 12/9/2006. Hội đồng xét xử xét thấy
đến tại thời điểm xét xử ngày 27/9/2024 thì cả cháu L và cháu H đã trên 18 tuổi,
nên Tòa không xem xét giải quyết.
2.3.Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự khai không có, không yêu
cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Ông H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định
tại khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 37; Điều 39; Điều 147; Điều 227, Điều
228; Điều 271; Điều 273; Điều 464; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử
cho ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Bùi Thị D.
2. Về con chung: Đã trưởng thành.
3. Về tài sản chung và công nợ chung: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Ông Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn
sơ thẩm, nay được đối trừ số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông H đã
nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hòa Bình theo biên lai số 0003952, ngày
01/8/2024. Xác nhận ông H đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Ông H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Bà D có quyền
kháng cáo với thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- Cục THADS tỉnh Hòa Bình;
- UBND xã M, T, HB;
- Xóm C, M, T, HB ;
- Lưu HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(ĐÃ KÝ)
Đinh Trƣờng Sơn
5
6
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 02/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm