Bản án số 82/2025/DS-PT ngày 16/08/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 82/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 82/2025/DS-PT ngày 16/08/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Phòng
Số hiệu: 82/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Trần Văn D khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với ông Phạm Văn Y
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 82/2025/DS-PT
Ngày 16/8/2025
"Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất"
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên t: Ông Trần Hữu Hiệu
Các Thẩm phán: Ông Bùi Đăng Huy, bà Đoàn Thị Hương Nhu
- Thư phiên tòa: Ông Đào Chính Hướng - Thư Toà án nhân dân
thành phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia
phiên toà: Bà Bùi Thị Hậu - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân khu vực 8 - Hải
Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 40/2025/TLPT-DS ngày
17/6/2025 về việc "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất"; do
Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2025/DS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương (nay Tòa án nhân dân khu
vực 8 - Hải Phòng) bị kháng cáo; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
số 108/2025/-PT ngày 24 tháng 7 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn D, sinh năm 1966; địa chỉ : Số B B,
phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương (nay phường H, thành phố Hải
Phòng); có mặt.
2. Bị đơn: Ông Phạm Văn Y, sinh năm 1945; địa chỉ: Số G ngõ D đường
T, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương (nay phường T, thành phố Hải
Phòng); có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Anh Phạm Thành Đ, sinh năm 1974; địa chỉ: SG ngõ D đường T,
phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương (nay phường T, thành phố Hải
Phòng); có đề nghị vắng mặt.
3.2. Ông Phạm Văn H, sinh năm 1955 Thị Đ1, sinh năm 1961;
địa chỉ: Khu G thị trấn P, thị xã K, tỉnh Hải Dương (nay là phường N, thành phố
Hải Phòng); có mặt ông H, vắng mặt bà Đ1.
2
3.3. Ông Dương Văn T, sinh m 1945 Nguyễn Thị T1, sinh năm
1949; địa chỉ: Thôn M, L, huyện T, tỉnh Hải Dương (nay H, thành phố
Hải Phòng); có mặt ông T, vắng mặt bà T1.
3.4. Ông Phạm Văn Y, sinh năm 1945; địa chỉ: Số G ngõ D đường T,
phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương (nay phường T, thành phố Hải
Phòng; có mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn Phạm Văn Y.
Bản án sơ thẩm không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn trình bày:
Ông Trần Văn D là em trai của bà Trần Thị K - vợ ông Phạm Văn Y. Năm
1995, ông D, ông Y, K cùng mua đất tại thôn H, Đ, huyện N, tỉnh Hải
Dương. Ông D chứng kiến vợ chồng ông Y mua thửa đất ao nay thửa đất số
349, tbản đồ số 3, địa chỉ tại Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương (gọi tắt thửa
đất số 349) của ông Phạm Văn D1 (là người địa phương nhưng đã chết) với giá
42.000.000đ.
Năm 2010, ông D1 được K cho biết vợ chồng K mâu thuẫn nên
phân chia về quyền lợi đối với thửa đất số 349, cụ thể bà K được quyền sử dụng,
định đoạt 2/3 thửa đất, còn lại 1/3 thửa đất thuộc quyền sử dụng, định đoạt của
ông Y, mục đích vợ chồng ông Y mua thửa đất để bán kinh doanh không phải để
ở. Ông D1 đề xuất mua cả thửa đất số 349 nhưng bà K trao đổi trước hết ông D1
mua 1/3 thửa đất thuộc quyền sdụng, định đoạt của ông Y, phần đất của K
chưa muốn bán. Sau đó, K thống nhất với ông Y nội dung n đất cho ông
D1.
Ngày 02/02/2010, tại nhà ông D1, vợ chồng ông Y, K mặt. K
đưa ra giá chuyển nhượng thửa đất 300.000.000đ nên ông D1 đã trả cho ông
Y số tiền 100.000.000đ tương đương giá trị 1/3 thửa đất theo giá vợ chồng K
thống nhất. Sau đó, ông Y người viết Giấy bán đất có nội dung “Tên tôi
Phạm Văn Y, vợ tôi Trần Thị K…có bán cho em vợ tôi Trần Văn D một
miếng đất thôn H, Đ diện tích là 116m
2
. Giấy tờ sổ đỏ toàn quyền vợ tôi
Trần Thị K trách nhiệm làm chính chủ. Vậy tôi viết giấy biên nhận này để
làm tin. Hiện nay tôi đã nhận đủ tiền 100.000.000 đồng chẵn…”. Ông Y ông
D không thỏa thuận về vị trí đất, ranh giới, mốc giới, diện tích, chưa n giao
đất chỉ thỏa thuận về giá trị chuyển nhượng. Đồng thời, đsau này cho ông
D và bà K thuận tiện làm các thủ tục chuyển nhượng, sang tên, ông Y đã viết nội
dung để bà K có trách nhiệm làm chính chủ. Sau đó, ông D nhiều lần đề xuất với
K chuyển nhượng phần đất còn lại cho ông nhưng K yêu cầu số tiền
chuyển nhượng cao, ông D chưa đủ điều kiện để mua. Khi ông D giúp bà K làm
thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 349, K và ông D đã
xác định để đất đứng tên riêng K nhưng quan thẩm quyền yêu cầu đây
tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung phải được đứng tên
cả bà K và ông Y. Ông D cho rằng ông Y đã viết giấy bán đất cho ông D coi như
3
không còn quyền lợi gì đối với 1/3 thửa đất. Ông D vẫn giữ giấy bán đất và do là
người thân trong gia đình, sau này sẽ làm thủ tục sang tên cho ông D khi ông D
K thống nhất được về giá mua phần đất còn lại. vậy, ngày 04/01/2012,
UBND huyện N, tỉnh Hải Dương đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 349, diện tích 111,8m
2
loại đất nông thôn tại thôn H, xã Đ,
huyện N, tỉnh Hải Dương đứng tên cả ông Y K. Do diện tích 1/3 thửa đất
cũng không đủ để làm thủ tục tách thửa nên ông D không yêu cầu K, ông Y
phải bàn giao 1/3 thửa đất cho ông D quản lý mà ông D yêu cầu bán nốt 2/3 thửa
đất còn lại để ông D làm thủ tục chuyển nhượng và sang tên cho ông; nếu không
phải trả lại ông giá trị 1/3 thửa đất theo giá thị trường. Tuy nhiên, ông Y, K
đều không thực hiện. Năm 2017, K chết đột tử, ông D đã 03 lần đến gặp ông
Y để yêu cầu ông Y giải quyết việc chuyển nhượng đất cho ông nhưng không có
kết quả. Ông D xác định, mặc dù giá trị quyền sdụng thửa đất được định giá
cao hơn trước nhưng ông D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc ông Y trả lại
giá trị 1/3 thửa đất số 349 đứng tên K, ông Y 400.000.000 đồng. Trường
hợp Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D và
ông Y hiệu, ông D đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu
theo quy định của pháp luật.
2. Bị đơn trình bày: Ông Phạm Văn Y chồng của Trần Thị K. Năm
1995, vợ chồng ông Y mua thửa đất ao nay là thửa đất số 349 với giá tiền
42.000.000đ của ông Phạm Văn D1 (người thôn H nhưng đã chết). Khi mua
thửa đất số 349, vợ chồng ông Y đã sự phân định rạch ròi về kinh tế của vợ
chồng, tiền của ai người đó giữ. Nguồn tiền mua đất là do vợ, chồng lao động
tự nguyện đóng góp vào cùng mua thửa đất này. Trong đó, K đóng
góp 30.000.000đ, ông Y đóng góp 12.000.000đ. Đồng thời, ông Y K cũng
thỏa thuận khi bán đất mỗi người sẽ được hưởng tương đương với tỉ lệ số tiền
đóng góp. Tuy nhiên, ông Y K không sự phân chia cụ thể mỗi người
được hưởng phần diện tích đất bao nhiêu và vtrí đất của từng người trong thửa
đất số 349.
Năm 2010, ông Y K nhiều bất đồng trong cuộc sống hôn nhân
nên K về tại nhà mẹ đẻ là cụ Trương Thị L tại địa chỉ số B B, phường T,
thành phố H. Vào ngày 02/02/2010, K điện thoại cho ông Y đến nhà cụ L để
vợ chồng trao đổi việc bán đất cho ông D1 (em trai bà K). Tại đây, K đặt vấn
đề với ông Y bán lại phần đất của ông Y trong thửa đất số 349 cho ông D1. Ông
Y đồng ý bán lại phần quyền sử dụng đất của ông cho ông D1 với giá chuyển
nhượng là 100.000.000đ. K người phát giá, số tiền 100.000.00đã được
đặt sẵn trên bàn uống nước. Ông D1 cũng mặt tại đây nhưng không trực tiếp
đưa tiền cho ông Y. Thời điểm này, gtrị thửa đất khoảng từ 400.000.000đ -
500.000.000đ nhưng K nói phần đất của ông Y thì ông D1 trả ông
100.000.000đ, không nội dung nào thể hiện phần đất của ông 1/3 của thửa
đất số 349, số tiền 100.000.000đ không phải giá trị của 1/3 thửa đất. Đây
giá cả thuận mua vừa bán nên ông Y nhất trí. Mặc dù tại Giấy bán đất, ông Y
ghi nội dung vợ chồng bán cả thửa đất diện tích 116m
2
cho ông D1 nhưng thực
tế giữa ông Y, bà K và ông D1 chỉ thỏa thuận bán phần đất của ông Y. Cùng với
4
đó, ông Y suy nghĩ K làm như vậy để sau này một mình K làm thủ tục
đứng tên sổ đỏ của thửa đất không liên quan đến ông Y nữa. Ngoài ra các bên
không thỏa thuận nào khác. K ông Y cũng không xác định vị trí phần
đất bán cho ông D1 đâu trong thửa đất số 349, không bàn giao đất, không chỉ
ranh giới, mốc giới đất cho ông D1. Đồng thời, ông D1 không thời gian nào
quản lý, sử dụng thửa đất số 349. Bà K và ông D1 cũng không có thỏa thuận nào
về việc bà K sẽ bán phần đất của mình cho ông D1, nên không có việc giữa bà K
và ông D1 chưa thống nhất được về giá cả chuyển nhượng trong nhiều năm. Sau
đó vài tháng, K đã nói với ông số tiền 100.000.000đ ông D1 đưa trả tiền
đất của K nên ông Y đã trả lại cho K ngay số tiền này. Song giữa K
ông D1 không viết giấy biên nhận với nhau, không ai chứng kiến. Do
đó, ông Y không căn cứ nào chứng minh số tiền 100.000.000đ của bà K
đưa cho ông D1. n cạnh đó, khi ông Y đưa trả tiền cho K không viết
biên nhận hay có ai chứng kiến.
Sau khi K chết (năm 2017), vào ngày 12/6/2018 tại Văn phòng C, ông
Y anh Phạm Thành Đ đã lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Ông Y đã
làm thủ tục đăng ký biến động tại Văn phòng đăng quyền sử dụng đất huyện
N nay là Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện C để xác định ông chủ
sử dụng của thửa đất s349. Ông đã thực hiện chuyển nhượng thửa đất bằng
giấy viết tay cho vợ chồng ông Phạm Văn H Thị Đ1. Do ông H không
nhu cầu sử dụng thửa đất nên bảo ông làm thủ tục chuyển nhượng trực tiếp
cho vợ chồng ông Dương Văn T Nguyễn Thị T1. Giữa ông vợ chồng
ông T đã làm hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên được công chứng tại
Văn phòng C nhưng chưa sang tên được. Đến ngày 20/8/2019, Tòa án nhân dân
huyện Nam Sách đã quyết định tuyên bố văn bản thỏa thuận phân chia di sản
ngày 12/6/2018 giữa ông Y và anh Đ vô hiệu.
Ông Y xác định hàng thừa kế thứ nhất của K gồm ông anh Phạm
Thành Đ, ngoài ra không có ai khác. Ông Y không đồng ý yêu cầu khởi kiện của
ông D1 bởi nếu việc ông D1 mua đất của ông Y thì K không thể nhờ ông
D1 làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 349 đứng tên cả ông Y và bà K do UBND huyện N, tỉnh Hải Dương cấp ngày
04/01/2012. Hơn nữa, sau khi sổ đỏ ông D1 không thực hiện thủ tục chuyển
nhượng tại quan thẩm quyền ngay sau nhiều năm K chết mới khởi
kiện tại Tòa án. Trường hợp Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Y ông D1 hiệu, ông đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Phạm Thành Đ trình bày: Anh là con trai của ông Phạm Văn Y và bà
Trần Thị K. Anh nhất trí với phần trình bày của ông Y về hàng thừa kế thứ nhất
của K. Anh xác định không được biết, không chứng kiến giao dịch mua bán
đất nào giữa bố mẹ anh ông D1. Anh được K kể lại bố mẹ anh chung tiền
mua mảnh đất thôn H, Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương 42.000.000đ, trong
đó bà K đóng góp 30.000.000đ còn ông Y đóng góp 12.000.000đ. Do bố mẹ anh
5
nhiều bất đồng trong cuộc sống hôn nhân nên để tách bạch kinh tế, tài sản bà
K đã nhờ ông Trần Văn D đứng lên trả ông Y số tiền 100.000.000đ tương đương
giá trị phần quyền sử dụng đất ông Y đã đóng góp chung với K khi mua
thửa đất tại thôn H để sau này làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đứng riêng tên K, không liên quan đến ông Y. K người đưa số tiền
100.000.000đ của cho ông D không phải tiền của ông D bỏ ra để mua đất.
Tuy nhiên, giữa K ông D không viết giấy biên nhận với nhau. Anh
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn D. Trường hợp Tòa án
xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn D
ông Phạm Văn Y hiệu, anh đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu theo quy định của pháp luật.
Ông Phạm Văn H đồng thời người đại diện theo ủy quyền của
Thị Đ1 trình bày: Ông H trình bày thống nhất với ông Y về quá trình giao dịch
giữa vợ chồng ông ông Y, sau đó vợ chồng ông T nhận chuyển nhượng lại
thửa đất số 349. Về giao dịch giữa vợ chồng ông ông Y, ông không yêu cầu
Tòa án giải quyết trong vụ án này để các bên tự thỏa thuận, giải quyết với
nhau. Ông xác định khi mua thửa đất nêu trên của ông Y vợ chồng đã thực hiện
việc san lấp ao hết 45.000.000 đồng tuy nhiên ông không có yêu cầu gì trong vụ
án này. Ngoài ra, vợ chồng ông chưa xây dựng công trình nào trên đất. Đối vi
yêu cầu khởi kiện của của nguyên đơn cũng như trường hợp Tòa án xác định
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn D và ông Phạm
Văn Y hiệu giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu, ông đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ông Dương Văn T đồng thời người đại diện theo ủy quyền của
Nguyễn Thị T1 trình bày: Ông T trình bày thống nhất với ông Y về quá trình
giao dịch giữa vợ chồng ông H ông Y, sau đó vợ chồng ông T nhận chuyển
nhượng lại thửa đất số 349 thông qua ông H hợp đồng chuyển nhượng trực
tiếp với ông Y đã được công chứng tại Văn phòng C, tỉnh Hải Dương nhưng
chưa làm thủ tục sang tên thửa đất. Về hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 349
giữa vợ chồng ông và ông Y, ông không yêu cầu Toà án giải quyết để các bên tự
thoả thuận, giải quyết với nhau. Vợ chồng ông mới chỉ thực hiện thủ tục chuyển
nhượng trên giấy tờ, chưa nhận đất, chưa xây dựng công trình hay công sức
tôn tạo đối với thửa đất. Đối với yêu cầu khởi kiện của của nguyên đơn cũng
như trường hợp Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Trần Văn D và ông Phạm Văn Y vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
4. Kết quả xác minh tại UBND xã Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương thể hiện:
Về nguồn gốc thửa đất số 349 tại địa chỉ thôn H nay thôn H, Đ,
huyện N, tỉnh Hải Dương: Theo hồ 299, thửa đất 181, tờ bản đồ số 03, diện
tích 340m
2
loại đất thổ cư, chủ sử dụng đất là UBND xã có chỉnh lý chủ sử dụng
đất Đỗ Văn D2. Theo hồ sơ năm 1993, thửa đất số 216, tờ bản đồ số 03, diện
tích 340m
2
, chủ sử dụng đất Đỗ Văn D2 chỉnh đường 183 chiếm dụng
còn lại diện tích 239m
2
, ghi “Dũng 124m
2
, Ym
2
”. Theo hồ năm 2014
6
nghiệm thu năm 2016 tại thửa đất số 91, tờ bản đồ số 34, diện tích là 186m
2
, chủ
sử dụng đất bỏ trống, không ghi tên chủ sử dụng đất bởi vì tại thời điểm đo đạc,
xây dựng bản đồ chủ sử dụng đất không mặt tại địa phương nên cán bộ đo
đạc để trống phần chủ sử dụng đất. Kể từ thời điểm sau này, UBND xã Đ không
nắm được thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ thể
nào, không nắm được các giao dịch dân sự liên quan đến thửa đất.
5. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: UBND xã Đ xác
định diện tích đất được công nhận hợp pháp trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BH 138040 do UBND huyện N, tỉnh Hải Dương cấp ngày
04/01/2012 đối với thửa đất số 349 111,8m
2
. Đối với phần diện tích chênh
lệch sau khi đối trừ giữa diện tích hiện trạng với diện tích được công nhận hợp
pháp, xác định phần diện tích chênh lệch này không thuộc quyền sử dụng hợp
pháp của chủ thể được công nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 349
thuộc sự quản lý của UBND xã Đ. Thửa đất số 349 thuộc N, vị trí 1, đoạn đất
ven quốc lộ C, giá đất ở là 22.400.000 đồng/m
2
.
6. Tại Bản án dân sự thẩm số 17/2025/DS-ST ngày 08/5/2025, Tòa án
nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương (nay Tòa án nhân dân khu
vực 8 Hải Phòng) đã quyết định: Căn cứ các Điều 122, 124, 127, 128, 134, 137,
697, 698, 699 Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm b khoản 1 Điều 129 Luật Đất đai
năm 2003; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật
Người cao tuổi; Luật phí lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản và sử dụng án phí lệ
phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Trần Văn D. Tuyên bố giao dịch chuyển nhượng đất theo Giấy bán đất ngày
02/02/2010 giữa ông Phạm Văn Y ông Trần Văn D hiệu. Giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu: Buộc bị đơn ông Phạm Văn Y phải có nghĩa vụ thanh
toán cho Trần Văn D tổng số tiền 407.760.000đ (Bốn trăm linh bảy triệu bảy
trăm sáu mươi nghìn đồng). Ngoài ra bản án còn tuyên về lãi suất chậm trả, án
phí, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo.
Ngày 12/5/2025, bị đơn Phạm Văn Y kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án không chấp
nhận kháng cáo của bị đơn. Bị đơn xác định kháng cáo các nội dung gồm:
Không có việc bị đơn chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn vì năm
2011 khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nguyên đơn
không góp tiền để làm thủ tục; đất có phần lớn thuộc chỉ giới Quốc lộ C nên đơn
giá đất theo định giá tại cấp sơ thẩm quá cao. Các đương sự trình bày nội dung
các sự việc như đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xác định quan hệ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa họ ông Y sẽ để các bên tự thỏa thuận, không
yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
7
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định của bản
án sơ thẩm, miễn án phí phúc thẩm cho bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo bị đơn trong thời hạn luật định bị đơn thuộc trường hợp
được miễn tạm ứng án phí phúc thẩm nên được chấp nhận xem xét theo trình tự
phúc thẩm.
Tại phiên tòa vắng mặt anh Phạm Thành Đ nhưng đã đề nghị giải
quyết vắng mặt; vắng mặt Thị Đ1 nhưng mặt chồng là ông Phạm Văn
H; vắng mặt Nguyễn Thị T1 nhưng mặt chồng ông Dương Văn T, Hội
đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về nguồn gốc thửa đất các bên đang tranh chấp: Theo hồ 299,
thửa đất 181, tờ bản đồ số 03, diện tích 340m
2
loại đất thổ cư, chủ sử dụng đất là
UBND chỉnh chủ sử dụng đất Đỗ Văn D2. Theo hồ năm 1993,
thửa đất số 216, tờ bản đồ số 03, diện tích 340m
2
, chủ sử dụng đất là Đỗ Văn D2
có chỉnh lý đường 183 chiếm dụng còn lại diện tích là 239m
2
, ghi “Dũng 124m
2
,
Ym
2
”. Ngày 04/01/2012, UBND huyện N, tỉnh Hải Dương cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BH 138040 đối với thửa đất số 349, tờ bản đồ số 03, diện
tích 111,8m
2
mang tên ông Phạm Văn Y và bà Trần Thị K. Ngày 23/01/2017, bà
Trần Thị K chết. Ngày 12/6/2018 tại Văn phòng C, ông Y và anh Phạm Thành Đ
lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Ông Y đã làm thủ tục đăng biến
động tại Văn phòng đăng quyền sử dụng đất huyện N nay Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện C để xác định ông Y chủ sử dụng của thửa đất
số 349. Tại Bản án số 14/2019/DS-ST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (đã có hiệu lực pháp luật) quyết định tuyên bố
Văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày 12/6/2018 giữa ông Phạm Văn Y
anh Phạm Thành Đ được công chứng số 693, quyển số 01/2018TP/CC-
SCC/HĐGD tại Văn phòng C hiệu. Mặc kết quả đo vẽ hiện trạng tăng so
với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp nhưng UBND xã Đ xác định diện
tích chênh lệch này không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của chủ thể được công
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 349 mà thuộc sự quản lý của UBND
xã. Do vậy, đủ sở kết luận thửa đất số 349, tờ bản đsố 03, diện tích
111,8m
2
, địa chỉ thôn H, N, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sử dụng hợp
pháp và là tài sản chung của ông Y, bà K.
[2] Ông Y kháng cáo không đồng ý với giá trị thửa đất là 22.400.000 đồng
thửa đất vị trí nằm trong hành lang đường quốc lộ. Kết quả xác minh tại
Phòng kinh tế N thể hiện: Theo quy định tại Nghị định số 11/2010/NĐ-CP
ngày 24 tháng 02 năm 2010 quy định về quản kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ, thì hành lang bảo vệ quốc lộ 17m, khoảng cách từ mép nhựa đến
tim đường 5,5m nên tổng hành lang bảo vệ đường tính từ tim đường quốc lộ
37 sẽ 22,5m. Thửa đất đang tranh chấp nằm vị trí 1 khu vực Đ ven Quốc lộ
8
C. Thủ tục định giá tài sản được cấp thẩm thực hiện theo đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự; sau khi nhận kết quả định giá, ông Y không có ý kiến gì.
Do vậy, kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá được xác định căn cứ
giải quyết vụ án. Kháng cáo của ông Y về nội dung này không căn cứ chấp
nhận.
[3] Mặc quyền sử dụng đất đang tranh chấp được tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân của K ông Y, nhưng ông Y, anh Đ con của ông Y, K đều
xác định khi nhận quyền sử dụng đất, giữa ông Y, K thỏa thuận đó
quyền sử dụng đất chung theo phần trong đó phần của ông Y góp
12.000.000đồng, K góp 30.000.000đồng. Ông D2 cũng chứng kiến và xác
nhận giữa ông Y K thỏa thuận quyền sử dụng đất nêu trên tài sản
chung theo phần không phải tài sản chung hợp nhất. Ông D2 ông Y thống
nhất ngày 02/02/2010 ông Y ông D2 thỏa thuận bằng văn bản ông Y
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đang tranh chấp cho ông D2 và ông Y đã
nhận của ông D2 số tiền 100.000.000đồng. Mặc nội dung văn bản thể hiện
ông Y, bà K chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông D2 nhưng văn bản
không chữ của K; cả ông D2 ông Y đều xác định ông D2 chỉ mua
phần của ông Y trong quyền sử dụng đất chung giữa ông Y K. Ông D2
cũng thừa nhận K biết chứng kiến việc ông Y chuyển nhượng phần
quyền sử dụng đất của ông Y cho ông D2. Do vậy, căn cứ xác định ngày
02/02/2010 ông Y chuyển nhượng phần quyền sử dụng đất của ông Y chung với
K cho ông D2 với giá tiền 100.000.000đồng. Ông Y cho rằng tiền ông Y
nhận ngày 02/02/2025 tiền của K đưa cho ông D2 nhưng không căn cứ
chứng minh trong khi ông D2 không thừa nhận nên không căn cứ chấp nhận
ý kiến này của ông Y.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa ông D2 vào ông Y
lập thành văn bản, ông D2 đã trả đủ tiền cho ông Y nhưng chưa nhận bàn giao
đất. Do tỉ lệ phân chia theo phần tính theo số tiền ông Y góp chung với K
12.000.000đồng/42.000.000đồng tương đương 28,6% = 31,97m
2
không đủ điều
kiện tách thửa theo quy định của UBND tỉnh H (nay là UBND thành phố H). Do
vậy, cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Y ông D2 vô hiệu; xác định lỗi dẫn đến hợp đồng hiệu mỗi bên 50%; giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo hướng ông Y phải trả ông D2
100.000.000đồng đã nhận bồi thường 50% thiệt hại của ông D2 tương ứng
với diện tích đất ông Y chuyển nhượng cho ông D2 = 307.760.000đồng
căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[4] Từ phân ch trên, không sở chấp nhận toàn bộ nội dung kháng
cáo của bị đơn.
[5] Về án phí phúc thẩm: Bị đơn kháng cáo không được chấp nhận nhưng
là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
[6] Các nội dung khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị, không
được Hội đồng xét xử xem t giải quyết hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
9
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án, xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên Bản án dân s
thẩm số 17/2025/DS-ST ngày 08/5/2025 Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương,
tỉnh Hải Dương (nay là Tòa án nhân dân khu vực 8 - Hải Phòng).
2. Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bị đơn.
3. Các nội dung khác của bản án không kháng cáo, không bị kháng
nghị có hiệu lực thi hành, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND TP. Hải Phòng;
- TAND khu vực 8 Hải Phòng;
- Phòng THADS khu vực 8 - Hải
Phòng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Hữu Hiệu
Tải về
Bản án số 82/2025/DS-PT Bản án số 82/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 82/2025/DS-PT Bản án số 82/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất