Bản án số 334/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 334/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 334/2025/DS-PT ngày 31/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 334/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là Tòa án nhân dân khu vực A – Đồng Nai).
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 334/2025/DS-PT
Ngày 31 7 2025
V/v tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thanh Thảo
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Nhum
Bà Nguyễn Thị Nga
Thư phiên tòa: Ông Trần Minh - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa:
Đào Thị Tân - Kiểm sát viên
Ngày 31 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
Cơ sở 2 xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 185/2024/TLPT ngày
08 tháng 11 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”. Do Bản án dân sự thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Toà án nhân dân
khu vực A - Đồng Nai) bkháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xsố
306/2024/QĐPT-DS ngày 16 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1977; Cư trú tại: Tổ D, khu phố
S, phường T, TP Đ, tỉnh Bình Phước (Nay tổ D, khu phố S, phường B, tỉnh
Đồng Nai), có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm
1971; trú tại: Tổ B, ấp I, T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Đ, tỉnh
Đồng Nai), có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích của bà Đ: Ông Ngô Quốc C Luật Văn
phòng L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B (Nay là tỉnh Đồng Nai), có mặt.
Bị đơn: Hồ Thị Ánh T1, sinh năm 1985; Trú tại: Tổ G, khu phố X,
phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay tG, khu phố X, phường B,
tỉnh Đồng Nai), có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2
- Văn phòng công chứng Nguyễn Viết H (có đơn xin xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp C, Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Đ, tỉnh Đồng
Nai).
- Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai Chi nhánh Đ1)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1982 (có
đơn xin xét xử vắng mặt) - Chức vụ: Giám đốc Văn phòng đăng đất đai tỉnh
Đ Chi nhánh Đ1.
- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1961; Trú tại: Tổ B, khu phố P, phường
T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là Tổ B, khu phố P, phường B, tỉnh Đồng
Nai), có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người làm chứng:
- Nguyễn Thị L, sinh năm 1970; Trú tại: Tổ B, khu phố B, phường T,
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là phường B, tỉnh Đồng Nai).
- Nguyễn Thị N, sinh năm 1958; Trú tại: Tổ B, khu phố X, phường T,
thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là khu phố X, phường B, tỉnh Đồng Nai).
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn ông Trần Văn T thống nhất trình bày:
Nguyễn Thị Đ một thửa đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại ấp P, T,
huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Đ, tỉnh Đồng Nai) diện tích 269,1m
2
đã
được cấp Giấy chứng nhận QSD đất số phát hành CK 786529 số vào sổ cấp giấy
(CS) 01928 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 27/12/2017 cho bà
Nguyễn Thị Đ.
Nguyễn Thị Đ ông Nguyễn Văn D trước đây quan hệ vợ
chồng. Hai người kết hôn vào ngày 06/5/2020, nhưng đã thuận tình ly hôn từ
năm 2021 theo Quyết định công nhận thuận tình ly n số 30/2021/QĐST-
HNGĐ ngày 29/01/2021 của TAND thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.
Trước đó, trong thời gian quen biết nhau thì ông D có nói với bà việc bà Nguyễn
Thị N là bà của ông D đòi nợ ông D nên ông D bàn với bà cho ông D mượn thửa
đất số 243 tờ bản đồ s33 tại ấp P, xã T, huyện Đ nói trên bán để trừ ncho bà
N số tiền ông D nợ 700.000.000 đồng. hỏi giá bao nhiêu thì ông D nói
bán đại cho bà N giá 160 triệu đồng/1m ngang, tức 960.000.000 đồng đề trừ nợ.
Ông D nói gán nợ cho N đi để ăn tết lúc này ông D đang làm chtịch
phường T, thành phố Đ. Ông D hứa với tới khi nào con gái lớn của ông
D tốt nghiệp trường Đại học thì ông D bán được nhà sẽ trả lại tiền cho bà, nhưng
lúc này chưa đồng ý ngay. Sau đó N gọi điện cho nói “mợ Đ ơi nói
cậu D trả cho tui 700 triệu đồng”. Đ nói “sao không đòi anh D đòi
3
em làm gì”, thì N nói “để lấy tiền cho cháu T1 (là con giái của bà N) ra làm
ăn không vốn, bảo cậu D gán đất cho T1 để vay ngân hàng lấy tiền làm
ăn”.
Sau đó khoảng một tuần, ông D đưa hồ về nhà, hỏi hồ thì
ông D nói hồ để sang nhượng đất, thì Đ nói không đồng ý bán. Một
ngày sau, vào khoảng 14 giờ chiều ngày 28/12/2018 thì ông D chở bà Đ lên n
phòng C1 trên cầu B, Đ, huyện Đ. Khi lên VPCC thì ông D đưa Hợp đồng
chuyển nhượng cho bà ký, vào hợp đồng chuyển nhượng, chữ trong
Hợp đồng chuyển nhượng đúng là chữ ký của bà Nguyễn Thị Đ, tại thời điểm
hợp đồng chuyển nhượng chỉ Đ, ông D ông H chỉ chỗ cho vào,
khi ký hợp đồng chuyển nhượng không có mặt bà T1 và bà N. Sau khi bà ký tên
xong, tại VPCC ông D đưa cho Đ 50 triệu đồng, hỏi ông D tiền thì
ông D nói tiền bán đất gán nợ cho mcon N nhưng Hồ Thị Ánh T1 đứng
tên, bà hỏi số tiền 50 triệu đồng này là của ai thì ông D nói của cháu T1 đưa cho
cậu D đcậu đưa cho mợ Đ. hỏi tại sao không nói trước mà rồi mới
nói, không đọc nghe hợp đồng chuyển nhượng, hỏi “số tiền 210.000.000
đồng còn lại ai đưa?” Ông D nói “từ từ tụi nó đưa”. Ông D nói bán đất cho bà N
với giá trị là 160 triệu đồng 01 m/ngang, tổng giá trị 960.000.000 đồng, trừ
khoản nợ ông D n N 700.000.000 đồng, còn lại 260.000.000 đồng thì
chưa ai trả cho hết, đến ngày th4 khi ra văn phòng Công chứng thì ông D
mới đưa cho 50.000.000 đồng, nhưng số tiền này của N đưa cho L,
L đưa cho ông D 50.000.000 đồng. Nhưng khi về đến nhà ông D lấy lại số
tiền 50.000.000 đồng này nói là trả nợ cho bà con ông D nữa. Khi ông D đưa
50.000.000 đồng thì nói sau này phải đưa đủ tiền nếu không sẽ lấy đất
lại. Nhưng sau đó thì không ai trả cho Đ stiền 210.000.000 còn lại, ông D
cũng không trả lại số tiền nợ nào cho bà Đ. Nhiều lần bà Đ yêu cầu ông D trả nợ
nhưng ông D không trả.
Đ khẳng định bà tên vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 28/12/2018. Chữ ký, chữ viết “Nguyễn Thị Đ” điểm chỉ dấu
vân tay trong hợp đồng chuyển nhượng đúng do tự viết lăn tay, việc
tên lăn tay hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc hay đe dọa bà,
cũng biết việc ông D bán thửa đất với giá 960.000.000 đồng để cấn nợ cho bà N,
tuy nhiên khẳng định việc tên vào hợp đồng chuyển nhượng đất không
nhằm mục đích chuyển nhượng đất cho T1, thực tế việc tên hợp
đồng chuyển nhượng đất là do ông D nhờ để cấn trừ nợ của ông D với bà N,
L hứa sau này bán được nhà sẽ trả lại cho Đ tiền, nhưng sau đó ông D
không trả lại tiền cho Đ như đã hứa. Quá trình kết hợp đồng chuyển
nhượng tại VPCC Nguyễn Viết H thì Hồ Thị Ánh T1 không mặt để
hợp đồng, hai n không trực tiếp cùng nhau hợp đồng chuyển nhượng,
không được trước sự chứng kiến của công chứng viên, khi Hợp đồng
chuyển nhượng chỉ Đ, ông Nguyễn Văn D ông Nguyễn Viết H
công chứng viên. T1 cũng không giao số tiền chuyển nhượng 960 triệu đồng
cho bà Đ mà chông D đưa cho 50 triệu đồng tại VPCC như đã trình bày
trên. Hợp đồng chỉ ghi giá chuyển nhượng là 50.000.000 đồng, trong khi thực tế
4
960.000.000 đồng. Do đó hợp đồng chuyển nợng đất nội dung giả tạo.
Ông D không giữ đúng lời hứa trả lại tiền cho bà khi bà đã dùng thửa đất của
gán nợ thay cho ông D.
vậy, nay Đ khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình
Phước (Nay Toà án nhân dân khu vực A - Đồng Nai) giải quyết các yêu cầu
sau:
- Đề nghị tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công
chứng tại VPCC Nguyễn Viết H công chứng số 1182 quyển số 01/TP/CC-
SCC/HĐTD ngày 28/12/2018 đối với việc chuyển nhượng thửa đất số 243 t
bản đồ số 33 tại ấp P, T, huyện Đ diện tích 269,1m
2
giữa Hồ Thị Ánh T1
với Nguyễn Thị Đ Hợp đồng hiệu do giả tạo. Yêu cầu giải quyết hậu
quả trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, cụ thể:
- Buộc Hồ Thị Ánh T1 trả lại cho Đ quyền sử dụng diện tích đất
diện tích 269,1 m
2
thửa đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại p P, xã T, huyện Đ. Đ
trả lại cho bà Hồ Thị Ánh T1 50.000.000 đồng.
- Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hủy nội dung biến động tại trang 3 của
giấy chứng nhận QSD đất số phát hành CK 786529 số vào sổ cấp giấy CS 01928
do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 27/12/2017 cho Nguyễn
Thị Đ với nội dung“Chuyển nhượng cho Hồ Thị Ánh T1 sinh m 1985
chứng minh nhân dân 285 192 277 địa chỉ tổ G, khu phố X, phường T, TP Đ,
tỉnh Bình Phước (nay là TP Đ) tỉnh Bình Phước theo hồ số 125707 CN
14367”. Bà Đ được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền xin cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Bị đơn bà Hồ Thị Ánh T1 trình bày:
T1 quen biết với Đ do trước đây bà Đ từng vợ của ông D
cậu của T1 nhưng hai người đã ly hôn. Năm 2018 được biết Đ nhu cầu
chuyển nhượng một thửa đất, bà có gặp bà Đ để tìm hiểu thông tin thửa đất, diện
tích đất 269,1m
2
thửa đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại ấp P, T, huyện Đ, thửa
đất đã được cấp giấy chứng nhận số phát hành CK 786529 số vào sổ cấp giấy
CS 01928 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 27/12/2017 cho
Nguyễn Thị Đ. Hai bên thỏa thuận giá cả chuyển nhượng và đồng ý chuyển
nhượng với giá 960.000.000 đồng. vậy, ngày 28/12/2018 hai bên ra văn
phòng C1 để ký hợp đồng chuyển nhượng đất diện tích đất 269,1m
2
nói trên,
hợp đồng chuyển nhượng được VPCC Nguyễn Viết H công chứng chứng thực
ngày 28/12/2018. Trong HĐCN chỉ ghi giá chuyển nhượng 50.000.000 đồng
để giảm thuế, thực tế giá chuyển nhượng 960.000.000 đồng. Quá trình công
chứng hợp đồng thì T1 Đ cùng mặt để ký kết hợp đồng, hai bên
cùng ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng, việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng
đất schứng kiến của công chứng viên ông Nguyễn Viết H. Tại thời điểm
tham gia giao dịch, các bên hoàn toàn tự nguyện, không đe dọa, ép buộc. Bà T1
đã giao đủ số tiền 960.000.000 đồng bằng tiền mặt cho bà Đ tại Văn phòng công
chứng, bà Đ đã giao đất cho bà để quản lý, sử dụng từ năm 2018 tới nay, sau khi
5
nhận chuyển nhượng thì đã làm thủ tục đăng quyền sử dụng đất được
Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện Đ cập nhật đăng biến động trên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất công nhận quyền sử dụng đất cho T1 với
nội dung “Chuyển nhượng cho Hồ Thị Ánh T1 sinh năm 1985 chứng minh
nhân dân 285 192 277 địa chỉ tổ G, khu phố X, phường T, TP Đ, tỉnh Bình
Phước (nay TP Đ) tỉnh Bình Phước theo hồ số 125707 CN 14367” vào
ngày 15/01/2019. Từ đó đến nay, T1 đã quản lý đất sử dụng ổn định,
không tranh chấp với ai.
Việc Đ trình bày cho rằng ông D giao cho Đ 50.000.000 đồng
cho rằng việc bà Đ bán đất cho để cấn trừ khoản nnào đó của ông D
hoàn toàn không đúng sthật. khẳng định không giao cho ông D số tiền
50.000.000 đồng nào và cũng không nhờ ông D giao cho Đ 50.000.000 đồng
để nhận sang nhượng đất số tiền nhận sang nhượng đất chính bà trực tiếp trả
một lần cho Đ 960.000.000 đồng tại Văn phòng C1. Bà khẳng định không có
việc mua bán đất để cấn trừ nợ. chỉ biết giữa Đ thuận mua vừa bán,
Đ nhu cầu bán đất, bà thấy đất và giá cả hợp lý nên đồng ý mua. Việc mua
bán đất giữa hai bên không liên quan tới những việc khác. Còn việc nợ nần
giữa ông D, hay thỏa thuận giữa ông D và bà Đ thì bà T1 không biết, không liên
quan. Do đó, bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn bà Nguyễn Thị Đ. Ngoài ra, T1 không trình bày không bổ sung
thêm.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D trình bày:
Ông D quen biết với Đ do trước đây Đ là vợ của ông nhưng hai người
đã ly hôn t năm 2021 theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số
30/2021/QĐST-HNngày 29/01/2021 của TAND thành phố Đồng Xoài, hai
người chỉ chung sống với nhau được một thời gian ngắn, kết hôn từ tháng
5/2020 thì đến tháng 1/2021 ly hôn.
Về việc bà Đ trình bày cho rằng do ông D nợ tiền bà Nguyễn Thị N
Nguyễn Thị L nên phải nhờ bà Đ bán thửa đất của bà Đ tại ấp P, xã T, huyện Đ,
tỉnh Bình Phước (Nay Đ, tỉnh Đồng Nai) để cấn nợ cho N, L để trừ
khoản nợ cho ông là hoàn toàn không đúng, ông khẳng định không việc ông
nhờ bà Đ bán đất cho T1 để cấn nợ cho N bà L. Việc mua bán chuyển
nhượng đất giữa Đ T1 thì ông được biết nhưng không liên quan gì,
ông không biết cụ thể việc hai bên thỏa thuận chuyển nhượng như thế nào.
Thời điểm hai người mua bán chuyển nhượng đất với nhau thì ông
Đ chưa phải vợ chồng, tới năm 2020 ông Đ mới kết hôn với nhau,
vậy không do gì để Đ phải bán đất để cấn ngiúp ông. Do đó, ông
không đồng ý với phần trình bày yêu cầu khởi kiện của Đ. Đối với việc
giải quyết vụ án thì ông D không yêu cầu hay ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định pháp luật. Do bận công việc, không liên quan đến quan hệ
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất giữa Đ với T1 nên ông đề nghị
được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Ông xin cam đoan
6
lời trình bày của ông hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc xin chịu
trách nhiệm trước pháp luật. Ông D không trình bày gì thêm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 trình bày:
Vào ngày 28/12/2018 Văn phòng C1 tiếp nhn và gii quyết yêu cầu
chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất 269,1 m
2
thửa đất s243 tờ bản đồ
số 33 tại ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai (Nay Đ, tỉnh Đồng Nai) thửa
đất đã được cấp giấy chứng nhận số phát hành CK 786529 số vào sổ cấp giấy
CS 01928 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 27/12/2017 của
Nguyễn Thị Đ Hồ Thị Ánh T1. Việc thực hiện công chứng hợp đồng
CNQSDĐ nói trên hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật. Về trình tự
thủ tục công chứng HĐCNQSD đất nói trên, quá trình thực hiện việc công
chứng, Công chứng viên đã thực hiện đầy đủ c thủ tục theo quy định pháp
luật, quy định công chứng thực hiện theo đúng quy định pháp luật tại Điu 40,41
Lut Công Chứng 2014. (Công chứng hợp đồng giao dịch do công chứng viên
soạn theo đề nghị của người yêu cầu ng chứng). Về thẩm quyền công chứng
hợp đồng, công chứng viên thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định tại điều 42
Luật công chứng. Quyền sử dụng đất tọa lạc tại ấp P, T, huyện Đ, tỉnh Bình
Phước (Nay là Đ, tỉnh Đồng Nai) được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B
cấp cho Nguyễn Thị Đ ngày 27/12/2017 nên công chứng viên lập HĐCN đất
đúng quy định tại Điều 167, 188 Luật Đất đai năm 2014. Hình thức nội
dung của hợp đồng không vi phạm, các bên tham gia giao dịch đầy đủ năng
lực hành vi dân sự, các bên tham gia kết hợp đồng bằng hành vi của mình,
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian thực hiện hợp đồng CNQSD đất, quyn s dụng đất
không b ngăn chặn bởi văn bản, quyết định nào của quan nhà c có thm
quyền, cá nhân công dân không đơn yêu cầu ngăn chặn nên Công chứng viên
đã tiến hành thủ tục công chứng hợp đồng theo quy định của Luật Công chứng
năm 2014. Việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất được VPCC thực hiện theo
đúng trình tự quy định của pháp luật, các bên tham gia giao dịch kết hợp
đồng tại VPCC Nguyễn Viết H trước mặt công chứng viên. Việc giao tiền
và giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do hai bên tự thỏa thuận với nhau
giao nhận với nhau đồng thời tchịu trách nhiệm trước pháp luật, không
sự chứng kiến của công chứng viên. Do đó việc giao tiền giao giao giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của hai bên thì Công chứng viên không chứng
kiến.
Việc giao kết hợp đồng của hai bên tự nguyện, thỏa thuận, bàn bạc
thống nhất với nhau để lập hợp đồng chuyển nhượng đất tại VPCC, vì bàn
bạc nên mới cung cấp thông tin để văn phòng công chứng lập dự thảo hợp
đồng chuyển nhượng đất, sau khi đọc dự thảo hợp đồng chuyển nhượng hai bên
đều thống nhất toàn bộ nội dung và không ai có ý kiến gì khác nên hai bên đã ký
tên điểm chvào từng trang của hợp đồng chuyển nhượng bằng chính năng
lực hành vi dân sự của mình, với ý chí và nguyện vọng của các bên ký trước mặt
công chứng viên tại VPCC Nguyễn Viết H.
7
Như vậy, toàn bộ hình thức nội dung của hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Thị Đ Hồ Thị Ánh T1 VPCC Nguyễn
Viết H đã thực hiện đúng trình tự, đúng quy định của pháp luật. Do đó, nguyên
đơn Nguyễn Thị Đ không căn cứ để yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Do hiện nay Văn phòng công chứng
không lưu giữ video giám sát từ năm 2018 thời gian đã quá lâu nên không
cung cấp được cho Tòa án theo yêu cầu của Tòa án nhân dân huyện Đ. Ngoài ra,
văn phòng C1 không ý kiến yêu cầu nào khác và đề nghị Tòa án giải quyết
vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện Đ (Nay Văn phòng đăng
ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh Đ1) trình bày:
Về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Việc tiếp
nhận giải quyết hồ đăng biến động chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa Nguyễn Thị Đ Hồ Thị Ánh T1 cấp giấy chứng nhận QSD đất số
(CS) 01928/Tân Phước do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày
22/12/2017 (ký xác nhận đăng biến động trên trang 3 của giấy chứng nhận
ngày 15/01/2019) cho Hồ Thị Ánh T1 sinh năm 1985 địa chTổ G, khu phố
X, p T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (do nhận chuyển nhượng từ Nguyễn
Thị Đ sinh năm 1977 địa chỉ tại khu phố S, phường T, TP Đ, tỉnh Bình Phước)
là thực hiện theo đúng trình tự thủ tục số 30 mã số TTHC: T- BPC 282904-TT
ban hành kèm theo Quyết định số 3141/QĐ-UBND ngày 05/12/2016 của Chủ
tịch UBND tỉnh B và thực hiện đúng các quy định cũng như các văn bản ớng
dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013. Đồng thời vào thời điểm đăng biến
động và cấp giấy chứng nhận cho Hồ Thị Ánh T1 thì diện tích đất chuyển
nhượng không có tranh chấp và không thuộc các trường hợp không tiếp nhận (từ
chối) và giải quyết theo quy định.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Đ về việc đề
nghị hủy nội dung Chi nhánh xác nhận đăng biến động ngày 15/01/2019
trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số (CS) 01928/Tân Phước do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/12/2017 thì Chi nhánh không có ý
kiến gì. Chi nhánh không ý kiến bổ sung nào khác, đề nghị Tòa án nhân dân
huyện Đ giải quyết vụ án theo quy định. Chi nhánh xin được vắng mặt tại các
phiên tòa xét xử, giải quyết vụ án này.
Người làm chứng bà Nguyễn Thị N trình bày:
N quen biết với bà Đ Đ trước đây vợ của ông Nguyễn Văn
D em ruột của nhưng đã ly hôn. có biết việc Hồ Thị Ánh T1 con gái
của bà có nhận sang nhượng của bà Đ 01 thửa đất ấp P, xã T, huyện Đ, diện tích
đất thì không rõ. chỉ biết T1 nhận sang nhượng của bà Đ thửa đất.
Ngoài ra, không biết thêm. Về việc Đ trình bày cho rằng ông D nợ
tiền của bà N nên bà Đ bán đất để trừ nợ cho ông D là hoàn toàn không đúng, bà
khẳng định không việc ông D nợ tiền của việc Đ bán đất cho T1
để cấn trừ nợ cho ông D. Còn việc ông D có nợ ai hay không, hay việc Đ bán
đất làm gì thì bà không biết, không liên quan.
8
Do đó, bà không đồng ý với toàn bộ lời trình bày của bà Đ không đồng
ý với yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Đối với việc giải quyết vụ án thì không
yêu cầu hay ý kiến gì. Do tuổi đã cao, đi lại khó khăn nên bà đề nghị được vắng
mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án. N xin cam đoan lời trình
bày của hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc xin chịu trách nhiệm
trước pháp luật về lời trình bày của bà. Ngoài ra, bà N không trình bày gì thêm.
Người làm chứng bà Nguyễn Thị L trình bày:
L quen biết với Đ Đ trước đây vợ của ông Nguyễn Văn
D là em ruột của bà nhưng đã ly hôn. Bà có nghe có nghe bà T1 kể lại là có nhận
sang nhượng của Đ 01 thửa đất nhưng không biết thửa đất đó đâu, diện
tích bao nhiêu, cụ thể việc chuyển nhượng thế nào. Ngoài ra, không biết
thêm. Về việc Đ trình bày cho rằng ông D nợ tiền của L nên Đ bán
đất để trừ nợ cho ông D hoàn toàn không đúng, khẳng định không việc
ông D nợ tiền của bà. Còn việc ông D có nợ ai hay không, hay việc Đ bán đất
làm thì không biết, không liên quan. Do đó, không đồng ý với toàn bộ
lời trình bày của bà Đ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Đ. Đối với
việc giải quyết vụ án thì không yêu cầu hay ý kiến gì. Do bận công việc
nên bà đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Bà L
xin cam đoan lời trình bày của bà là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và
xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời trình bày của bà. Ngoài ra, L
không trình bày gì thêm.
Tại Bản án dân sự thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Tòa án nhân dân khu
vực A – Đồng Nai) tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Thị Đ, cụ thể:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, cụ thể:
Bác yêu cầu về việc đnghị tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được công chứng tại VPCC Nguyễn Viết H công chứng số 1182 quyển
số 01/TP/CC-SCC/HĐTD ngày 28/12/2018 đối với việc chuyển nhượng thửa
đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại ấp P, xã T, huyện Đ diện tích 269,1m
2
giữa bà Hồ
Thị Ánh T1 với bà Nguyễn Thị Đ là hợp đồng vô hiệu do giả tạo.
Bác yêu cầu về việc buộc bị đơn trả lại quyền sử dụng diện tích đất diện
tích 269,1 m
2
thửa đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại ấp P, xã T, huyện Đ và yêu cầu
về việc nguyên đơn trả lại cho bị đơn 50.000.000 đồng.
Bác yêu cầu về việc hủy nội dung biến động tại trang 3 của giấy chứng
nhận QSD đất số phát hành CK 786529 số vào sổ cấp giấy CS 01928 do Sở TN
MT cấp ngày 27/12/2017 cho bà Nguyễn Thị Đ với nội dung Chuyển
nhượng cho Hồ Thị Ánh T1 sinh năm 1985 chứng minh nhân dân 285 192
277 địa chỉ tổ G, khu phố X, phường T, TP Đ, tỉnh Bình Phước (nay TP Đ)
tỉnh Bình Phước theo hồ sơ số 125707 CN 14367”.
9
Buộc nguyên đơn Nguyễn Thị Đ phải di dời toàn bộ số cây trồng ra
khỏi diện tích thuộc thửa đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh
Bình Phước đã được cấp giấy chứng nhận ngày 15/01/2019 cho Hồ Thị Ánh
T1, gồm: 05 cây dừa, 04 cây xoài, 05 cây mít , 05 cây ổi.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định vchi phí tố tụng, án phí
quyền kháng cáo.
Ngày 27/9/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị Đ đơn kháng cáo bản án
thẩm, đề nghị HĐXX phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo. Đề nghị HĐXX sửa Bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Tòa án
từ khi thụ đến khi xét xử phúc thẩm của Thẩm phán, Thư Tòa án, Hội
đồng xét xử và các đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản
1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn Nguyễn Thị Đ. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s65/2024/DS-ST
ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là Tòa án
nhân dân khu vực A – Đồng Nai).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong thời hạn luật định, có hình thức,
nội dung và phạm vi kháng cáo phù hợp với quy định tại các Điều 271, 272, 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên đđiều kiện được xem xét giải quyết
theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất diện tích đất 269,1m
2
tha
đất s 243 t bản đồ s 33 ti p P, T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay
Đ, tỉnh Đồng Nai) gia H Th Ánh T1 vi Nguyn Th Đ đưc xác lp
ngày 28/12/2018 đưc công chng chng thc ti Văn phòng C1 ti h
công chng s 1182 quyn s 01/TP/CC-SCC/HĐTD ngày 28/12/2018. Văn
phòng C1 xác nhn quá trình thc hin, công chứng viên đã thc hiện đúng quy
trình công chứng quy định tại Điều 40, 42, 46, 48 Điều 49 ca Lut Công
10
chng 2014. Ti thời điểm hai bên hợp đồng, đương sự đủ năng lực hành
vi dân s, ni dung tha thun ghi trong hợp đồng này không trái pháp lut
đạo đức hi, vic kết hợp đồng đưc thc hiện trước s chng kiến ca
công chng viên, các bên tham gia ký kết hoàn toàn t nguyn, không b ép
buc, quyn s dụng đất đảm bảo các điều kiện để chuyển nhượng theo quy định
tại Điều 167, 188 Luật Đất đai năm 2014. Sau đó bà T1 đã thực hin th tc
đăng quyền s dụng đất được quan thẩm quyn qun v đất đai
cp Giy chng nhn quyn s dụng đất t ngày 15/01/2019.
Ti phiên tòa phúc thm ngày 11/4/2025, nguyên đơn Đ cho rng ông
D người gi mo ch ca bà và Đ không tha nhn ch ca mình
trong hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 28/12/2018, đ ngh Tòa án giám đnh
ch ti phn bên chuyển nhưng trong hợp đồng chuyển nhượng đất ngày
28/12/2018. Theo kết luận giám đnh s 1147/KL KTHS ngày 24/7/205 ca
Phòng K Công an tỉnh Đ xác định ch , ch viết h tên Nguyn Th Đ i
mục “Bên chuyển nhượng” trong Hợp đồng chuyển nhượng đất s 1182 quyn
s 01/TP/CC-SCC/HĐTD ngày 28/12/2018 là do Nguyn Th Đ ký và viết ra.
Do vy li trình bày ca bà Đ v vic không ký vào hợp đồng chuyển nhượng
không có căn cứ.
Nguyên đơn cho rằng, vic kết hợp đồng chuyển nhượng quyn s
dụng đất nêu trên ch là gi to nhằm che đậy vic ông D nh bà chuyển nhượng
đất để cn tr khon tin ông D n Nguyn Th N và Nguyn Th L. Tuy
nhiên, lời trình bày này không được ông D, N bà L tha nhn. Ông D,
N và bà L đều khẳng định giữa ba người không có việc vay mượn tin, không có
vic nh bà Đ bán đất đ cn tr n cho ông D. Do đó, việc nguyên đơn cho
rng hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất đã ký kết vô hiu do gi to là
không có căn cứ nên không được HĐXX chấp nhn.
Hơn na, hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất được công chng
ngày 28/12/2018. Sau khi hợp đồng chuyển nhượng, các bên đã thực hin
nghĩa vụ vi nhau, T1 đã thực hin th tc cp giy chng nhn quyn s
dụng đất và được cơ quan có thẩm quyn qun lý v đất đai cấp giy chng nhn
quyn s dụng đất t ngày 15/01/2019. T đó đến nay T1 s dng ổn đnh,
không tranh chấp. Tuy nhiên đến ngày 01/8/2023 bà Đ mi thc hin khi
kin yêu cu hy hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất đề ngh tuyên
hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu là đã hết thi hiu khi kiện theo quy đnh
tại Điều 132, 429 BLDS 2015.
Ti biên bn xem xét thẩm định ti ch ngày 25/7/2024 th hin trên din
tích đất tranh chp 05 cây da, 04 cây xoài, 05 cây mít, 05 cây i. Nguyên
đơn và bị đơn xác nhận s cây này doĐ trng vào khong ngày 19/7/2024 và
01 hàng rào km gai do bên T1 làm vào khong ngày 10/7/2024 ti thời điểm
Tòa án đang thụ gii quyết tranh chp v án. Mc v án đã được Tòa án
th lý và đang giải quyết nhưng bà Đ t trồng trên đất. Do yêu cu khi kin ca
Đ không được chp nhn, nên cấp sơ thẩm x yêu cu T1 yêu cu Đ
phi di di toàn b s cây do Đ t ý trồng trên đt ra khi phn diện tích đất
269,1m
2
là đúng quy định pháp lut.
11
[3] T phân tích trên, yêu cu kháng cáo của nguyên đơn Nguyn Th
Đ không có cơ sở chp nhn, cn gi nguyên Bản án sơ thẩm s 65/2024/DS-ST
ngày 20 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay
là Tòa án nhân dân khu vc A Đồng Nai).
[4] Chi phí t tng v vic xem xét thẩm định ti ch định giá tài sn:
Do yêu cu khi kin của nguyên đơn không đưc chp nhận nên nguyên đơn
phi chịu 5.500.000 đồng, được tr vào s tin tm ng chi phí t tng
5.500.000 đồng mà nguyên đơn đã nộp.
Về chi phí giám định chữ ký, chviết tại cấp phúc thẩm: Do yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu
6.000.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng chi phí tố tụng 6.000.000 đồng mà
nguyên đơn đã nộp.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án
phí không giá ngạch 300.000 đồng đối với yêu cầu khởi kiện vviệc tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không được chấp nhận. Được
trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ đã
nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010334 ngày 04/6/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Phòng Thi hành án
dân sự khu vực A - Đồng Nai).
Đối với yêu cầu khởi kiện về việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu và
nguyên đơn tự trả lại số tiền đã nhận 50.000.000 đồng. Cấp thẩm buộc
nguyên đơn phải chịu án phí dân sgiá ngạch là 2.500.000 đồng với do
yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận là chưa đúng, bởi lẽ yêu cầu không
được chấp nhận được hiểu “Yêu cầu đối với người khác” không được chấp
nhận. vậy nguyên đơn không phải chịu án phí giá ngạch đối với khoản này.
Hoàn trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ số tiền 1.250.000 đồng theo biên lai
thu tiền tạm ứng án phí số 0010335 ngày 04/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Đ (Nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực A - Đồng Nai).
[6] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn
Thị Đ không được chấp nhận nên phải chịu theo quy định pháp luật.
[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai
căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[8] Các quyết định khác của Bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ;
12
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s65/2024/DS-ST ngày 20 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Tòa án nhân
dân khu vực A Đồng Nai).
Căn cứ các Điều 116, 117, 132, 429, 502 Bộ luật Dân s2015; Điều 167,
188 Luật Đất đai 2013; Điều 40, 42, 46, 48, 49, 52 Luật Công chứng năm 2014;
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTNQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị Đ, cụ thể:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc đề nghị tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sdụng đất được công chứng tại VPCC Nguyễn Viết H
công chứng số 1182 quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐTD ngày 28/12/2018 đối với
việc chuyển nhượng thửa đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại ấp P, T, huyện Đ,
tỉnh Bình Phước (NayĐ, tỉnh Đồng Nai) diện tích 269,1m
2
giữa bà Hồ Th
Ánh T1 với bà Nguyễn Thị Đ là hợp đồng vô hiệu do giả tạo.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc buộc bị đơn trả lại quyền sử
dụng diện tích đất diện tích 269,1 m
2
thửa đất số 243 tờ bản đồ số 33 tại ấp P, xã
T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay là xã Đ, tỉnh Đồng Nai).
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc hủy nội dung biến động tại
trang 3 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất số phát hành CK 786529 số
vào sổ cấp giấy CS 01928 do Sở Tài nguyên và i trường tỉnh B (Nay tỉnh
Đồng Nai) cấp ngày 27/12/2017 cho Nguyễn Thị Đ với nội dung “Chuyển
nhượng cho Hồ Thị Ánh T1 sinh năm 1985 chứng minh nhân dân 285 192
277 địa chỉ tổ G, khu phố X, phường T, TP Đ, tỉnh Bình Phước (nay TP Đ)
tỉnh Bình Phước theo hồ sơ số 125707 CN 14367”.
2. Buộc nguyên đơn Nguyễn Thị Đ phải di dời toàn bộ số cây trồng
bao gồm: 05 cây dừa, 04 cây xoài, 05 cây mít, 05 cây ổi ra khỏi diện tích thửa
đất số 243 tờ bản đồ số 33 thuộc Giấy chứng nhận số CK 786529, số vào sổ CS
01928 cấp ngày 15/01/2019 cho Hồ Thị Ánh T1 tại ấp P, T, huyện Đ, tỉnh
Bình Phước (Nay là xã Đ, tỉnh Đồng Nai).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự, thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:
- Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự không giá ngạch 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn)
13
đồng nguyên đơn Nguyễn Thị Đ đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí
số 0010334 ngày 04/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ (Nay
Phòng Thi hành án dân sự khu vực A - Đồng Nai). Hoàn trả cho nguyên đơn
Nguyễn Thị Đ số tiền 1.250.000 (một triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng theo
biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010335 ngày 04/6/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Đ (Nay Phòng Thi hành án dân sự khu vực A - Đồng
Nai).
- Chi phí tố tụng về việc xem xét thẩm định tài sản tại chỗ, định giá tài
sản: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 5.500.000 (Năm triệu năm trăm
nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng chi phí tố tụng 5.500.000 (Năm triệu
năm trăm nghìn) đồng nguyên đơn đã nộp.
- Chi phí giám định chữ ký, chữ viết tại cấp phúc thẩm: Nguyên đơn
Nguyễn Thị Đ phải chịu 6.000.000 (Sáu triệu) đồng, được trừ vào số tiền tạm
ứng chi phí tố tụng 6.000.000 (Sáu triệu) đồng nguyên đơn đã nộp.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn Nguyễn Thị Đ phải chịu
300.000 đồng được trừ vào số tiền 300.000 đồng Đ đã nộp theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí a án số 0010664 ngày 29/10/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân shuyện Đ, tỉnh Bình Phước (Nay Phòng Thi hành án Dân sự
khu vực A – Đồng Nai).
5. Các quyết định khác của Bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND khu vực A – Đồng Nai;
- Cục THADS tỉnh Đồng Nai;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, Tổ HCTP, Tòa DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thanh Thảo
Tải về
Bản án số 334/2025/DS-PT Bản án số 334/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 334/2025/DS-PT Bản án số 334/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất