Bản án số 163/2025/DS-PT ngày 20/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 163/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 163/2025/DS-PT ngày 20/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 163/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Võ Đăng S tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Nguyễn Thanh S1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 163/2025/DS-PT
Ngày: 20-8-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Quản
Ông Huỳnh Châu Thạch
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Bà Nguyễn Thị Thanh
Hương – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 20 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 143/2024/TLPT-DS ngày 09 tháng 8 năm
2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Do Bản án dân sự thẩm số 58/2024/DS-ST ngày 27/6/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Lâm Đồng) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 314/2024/QĐ-PT ngày
22 tháng 8 năm 2024; Thông báo hoãn phiên tòa số 515/TB-TA ngày 04 tháng 9
năm 2024; Thông báo mở phiên tòa xét xử phúc thẩm số 468/TB-TA ngày 08
tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
+ Ông Đăng S, sinh năm: 1976; trú ti thôn S, L, huyn L, tnh
Lâm Đồng (nay là thôn S, xã N, tỉnh Lâm Đồng).
+ Ông Nguyn Phú K, sinh năm: 1961; cư trú tại thôn L, L, huyn L, tnh
Lâm Đồng (nay là thôn L, xã N, tỉnh Lâm Đồng).
2
Người đại din theo y quyn: Ch Phm Huyn T, sinh năm: 2000; trú
ti thôn H, xã N, huyn L, tỉnh Lâm Đồng (nay là thôn H, xã N, tỉnh Lâm Đồng).
Văn bản y quyn ngày 31/5/2024.
- B đơn: V chng ông Nguyn Thanh S1, sinh năm: 1956, Th X,
sinh năm: 1963; trú tại s A, đường P, Phường A, thành ph Đ, tỉnh Lâm Đồng
(nay là s A, đường P, phường X - Đ, tỉnh Lâm Đng).
Người đi din theo y quyn ca ông S1: Bà Lê Th X, sinh năm: 1963; cư
trú ti s A, đường P, Phường A, thành ph Đ, tỉnh Lâm Đng (nay s A, đường
P, phường X - Đ, tỉnh Lâm Đồng). Văn bản y quyn ngày 01/3/2022.
Ngưi bo v quyn, li ích hp pháp ca b đơn: Luật sư Nguyn Th H và
Luật sư Đ Quc A Văn phòng L thuc Đoàn Luật sư tỉnh L.
- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Đỗ H1, sinh năm: 1989; ttại thôn L, xã L, huyn L, tnh
Lâm Đồng (nay là thôn L, xã N, tỉnh Lâm Đồng).
+ Đoàn Thị H2, sinh năm: 1963; tti thôn L, L, huyn L, tnh
Lâm Đồng (nay là thôn L, xã N, tỉnh Lâm Đồng).
+ V chng ông Bùi Văn T1, sinh năm: 1966, bà Nguyn Th T2, sinh năm:
1967; cư trú ti thôn L, xã L, huyn L, tỉnh Lâm Đồng (nay là thôn L, xã N, tnh
Lâm Đồng).
Ngưi kháng cáo: Ông Nguyn Thanh S1, bà Lê Th X B đơn.
(Bà X, chị T, Luật sư H, Luật sư Quốc A có mặt tại phiên tòa; các đương sự
còn lại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện lời trình bày của người đại diện theo ủy
quyền ca nguyên đơn, chị Phạm Huyền T thì: Ngày 01/6/2006, ông Nguyễn Phú
K và ông Võ Đăng S mua chung một lô đất của vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1,
Lê Thị X, cư trú tại số A P, Phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng diện tích
là 43.826m
2
thuộc thửa đất số 53, 55, 57 tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, xã L,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng 470.000.000đ.
Ông K và ông S mua chung đất nhưng trong giấy sang nhượng đất thổ cư + vườn
ghi ngày 01/6/2006 không có tên ông S. Bên ông K, ông S yêu cầu ông S1, bà X
xuống để viết lại hợp đồng mua bán để ông S cùng đứng tên trong giấy chuyển
nhượng cho hợp lệ. Đến ngày 06/10/2006, bà X nói bận không xuống được nên
ông S1 xuống hai bên đã viết lại hợp đồng mua bán vào ngày 01/6/2006,
không mặt X nên ông S1 (chồng X) thay. Sau khi viết giấy chuyển
3
nhượng vào ngày 06/10/2006, ông K, ông S xin xác nhận của thôn chính
quyền địa phương. Ông K ông S đã giao cho vợ chồng ông S1, X số tiền
chuyển nhượng bằng tiền mặt 200.000.000đ ông K, ông S trả nợ thay cho
ông S1, bà X cho ông T1 3000kg phê nhân với giá 21.700đ/kg cộng với số
tiền mặt là 19.065.000đ, tổng cộng là 284.165.000đ; số tiền còn lại hẹn đến tháng
12/2006 sau khi thu hoạch xong phê thì trả đủ ông S1, X giao sổ đỏ
làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho ông K, ông S. Đến hẹn, ông K, ông S
điện thoại nhiều lần cho vợ chồng ông S1, bà X nhưng vợ chồng ông S1, X
không nghe điện thoại. Các ông lên nhà ông S1, X tìm nhưng không gặp mặt.
Đến năm 2009, khi ngân hàng xuống nhà ông K, ông S thì ông K, ông S mới biết
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của diện tích đất ông S1, bà X chuyển
nhượng cho mình đang thế chấp cho ngân hàng. Sau đó, ông K, ông S lên nhà ông
S1, X nhiều lần nhưng không gặp. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà
Lạt mời ông K, ông S ông S1, bà X đến làm việc nhiều lần nhưng ông S1,
X không đồng ý theo thỏa thuận hợp đồng chuyển nhượng đã kết trước đó.
Đến ngày 12/12/2013, ông K, ông S làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân
thành phố Đà Lạt nhưng đến ngày 20/12/2013, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt
trả lại đơn khởi kiện của ông K, ông S hướng dẫn làm đơn khởi kiện gửi đến
Tòa án nơi bất động sản. không kiến thức pháp luật nên ông K, ông S
không làm đơn khởi kiện nữa. Ông K, ông S tiếp tục lên gặp ông S1, bà X để giải
quyết hợp đồng giữa hai bên nhưng ông S1, bà X không gặp hai ông. Đồng thời,
diện tích đất trên đã Quyết định biên tài sản số 48/QĐ-CCTHA ngày
03/02/2013 của Cơ quan thi hành án. Vào tháng 01/2022, ông K, ông S đã ký và
giao đất cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt để giao đất cho người
mua trúng đấu gtài sản. Nay, ông K, ông S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất lập ngày 06/10/2006 đối với diện tích
đất 43.826m
2
thuộc thửa đất số 53, 55, 57 tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, xã L,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng giữa ông Nguyễn Phú K, ông Đăng S vợ chồng
ông Nguyễn Thanh S1, Thị X hiệu do bị lừa dối; ông S, ông K yêu cầu
vợ chồng ông S1, X phải trả lại cho ông S, ông K số tiền chuyển nhượng
284.165.000đ, trong đó: ông S yêu cầu vợ chồng ông S1, X phải trả lại cho ông
S số tiền chuyển nhượng là 142.082.500đ; ông K yêu cầu vợ chồng ông S1, bà X
phải trả lại cho ông S số tiền chuyển nhượng là 142.082.500đ. Đồng thời, ông S,
ông K yêu cầu vchồng ông S1, X phải thanh toán giá trị tài sản chênh lệch
tương ứng với số tiền ông S, ông K đã thanh toán cho vợ chồng ông S1, X
5.862.057.705đ ông S, ông K xác định lỗi mỗi bên là 50% nên ông S, ông K yêu
cầu vợ chồng ông S1, X phải thanh toán giá trị tài sản chênh lệch tương ứng
với stiền là 2.931.028.852đ. Do vậy, ông S yêu cầu vợ chồng ông S1, bà X phải
trả lại số tiền chuyển nhượng là 142.082.500đ thanh toán giá trị tài sản chênh
4
lệch làm tròn là 1.465.514.426đ, tổng cộng là 1.607.596.926đ. Ông K yêu cầu vợ
chồng ông S1, X phải trả lại số tiền chuyển nhượng là 142.082.500đ và thanh
toán giá trị tài sản chênh lệch làm tròn 1.465.514.426đ, tổng cộng
1.607.596.926đ. Đồng thời, ông K khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án giải quyết
tuyên hủy giấy sang nhượng đất thổ + vườn lập ngày 01/10/2006. Ông K không
yêu cầu giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng này vì ông K và ông S đã yêu
cầu trong đơn khởi kiện ban đầu. Ngoài ra, ông S, ông K không yêu cầu gì thêm.
- Bị đơn vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, Thị X trình bày tại bản tự
khai và lời trình bày bổ sung của Lê Thị X tại phiên tòa sơ thẩm thì: Vào cuối
năm 2006, vợ chồng ông, có bán cho ông Nguyễn Phú K, H2 diện tích đất
thuộc thửa 53, 55, 57 tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, L, huyện L với giá
470.000.000đ. Việc bán đất trên có lập thành văn bản là giấy chuyển nhượng đất
ngày 06/10/2006, có chữ của vợ chồng ông, bà; có chữ ký của H2, ông K;
người làm chứng là ông Nguyễn Đình S2. Nội dung giấy sang nhượng thổ cư
vườn ngày 01/10/2006. Sau đó, vợ chồng ông, đã nhận đủ số tiền chuyển
nhượng của ông K 200.000.000đ, hẹn đến cuối tháng 12/2006 trả nốt số tiền
còn lại nhưng ông K, H2 không lên thanh toán cho vợ chồng ông, số tiền
còn lại, mặc dù vợ chồng ông, bà đòi nhiều lần. Ngày 01/10/2006, vợ chồng ông,
bà đã giao đất cho ông K, H2 sử dụng. Tại thời điểm bán đất cho ông K, H2
thì vợ chồng ông, bà đã thông báo cho ông K, H2 biết bản chính giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất trên đang thế chấp cho Ngân
hàng N, chi nhánh Nguyễn Văn T3 nhưng vợ chồng ông K, H2 vẫn đồng ý
mua. Đến năm 2015, ông K nhờ người mang số tiền 300.000.000đ lên để trả cho
vợ chồng ông, bà nhưng vợ chồng ông, bà không đồng ý vì giá trị đất đã tăng giá
rất nhiều lần. Sau đó, toàn bộ diện tích đất trên đã bị biên thi hành án. Vchồng
ông, khẳng định không phải chữ và chviết của vợ chồng ông, trong
giấy chuyển nhượng đất ngày 06/10/2006 giấy chuyển nợ ngày 06/10/2006,
các giấy tờ trên giả mạo. Vợ chồng bà chỉ ký chuyển nhượng cho ông K, bà H2
một lần duy nhất vào ngày 01/10/2006 tại nhà ông S. Việc mua bán đất không
liên quan đến ông Võ Đăng S. Nay ông K, ông S khởi kiện yêu cầu hy hợp đồng
chuyển nhượng đất ghi ngày 6/10/2006 đối với diện tích đất 43.826m
2
thuộc thửa
53, 55, 57 tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, L, huyện L thì vợ chồng ông,
đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng đất trên đây là hợp đồng giả mạo. Ông
K, ông S yêu cầu vợ chồng ông, bà phải thanh toán lại số tiền là 303.000.000đ và
giá trị tài sản chênh lệch theo giá thị trường hiện nay thì vợ chồng ông, bà không
đồng ý. Vợ chồng ông, chỉ đồng ý trả cho vợ chồng ông K, H2 số tiền
200.000.000đ.
5
Tại đơn yêu cầu xem xét đề ngày 30/11/2023, vợ chồng ông S2, X trình
bày: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc các thửa 53, 55, 57 tờ bản đồ
số 54 tọa lạc tại thôn S, xã L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng giữa vợ chồng ông, bà và
ông S, ông K đã xảy ra từ năm 2006. Vợ chồng ông, bà nhiều lần yêu cầu ông K,
ông S giao đủ tiền cho ông, nhưng ông S, ông K không thực hiện nên ông S,
ông K đã vi phạm nghĩa vụ từ thời điểm này nên các bên không thể tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Mặc dù, ông S, ông K biết rất
vi phạm nghĩa vụ từ năm 2006 (cụ thể tại các biên bản làm việc của Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt) nhưng ông S, ông K cũng không thực hiện
quyền khởi kiện là vi phạm về thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 427 Bô
luật dân sự 2005 (thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp
đồng dân sự hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của ông S, ông K
bị xâm phạm), tương ứng với Điều 429 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự ba năm. Do
đó, vợ chồng ông, bà đề nghị Tòa án xem xét áp dụng thời hiệu được quy định tại
các Điều luật ông, đã viện dẫn và áp dụng điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật
dân sự 2015 thời hiệu ông S ông K khởi kiện ông, đã hết. Ngoài ra,
ông S2, bà X không trình bày gì thêm.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn Luật sư Nguyễn Thị H
trình bày: Việc người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày việc
nguyên đơn không biết diện tích đất bị đơn thỏa thuận chuyển nhượng cho nguyên
đơn đang thế chấp tại Ngân hàng không đúng. Trong khi, thực tế vào năm 2013,
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt đã tổ chức biên tài sản, sau đó
giữa vợ chồng ông S2, bà X và ông S, ông K nhiều lần gặp gỡ tại Ủy ban nhân
dân xã cũng như tại Chi cục Thi hành án thành phố Đà Lạt để thỏa thuận ưu tiên
quyền mua tài sản bán đấu giá nhưng ông S, ông K không đồng ý. Ông S, ông K
biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bxâm phạm từ năm 2006 hoặc đến năm
2013 thời điểm tài sản bị kê biên đthi hành án thì đến thời điểm khởi kiện
ngày 27/01/2022 là 09 năm ông S, ông K mới thực hiện quyền khởi kiện là đã hết
thời hiệu khởi kiện. Do vậy, bị đơn đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện
đối với vụ án. Về chứng cứ và luận cứ, bà sẽ trình bày cụ thể tại phần tranh luận.
Ngoài ra, bà H không trình bày gì thêm.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đỗ H1 trình bày tại
bản tự khai ghi ngày 21/4/2023 thì: Ông là người mua trúng đấu giá đối với diện
tích đất thuộc thửa 53, 55, 57 tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, L, huyện L,
tỉnh Lâm Đồng. Ông là người đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với các thửa đất trên. Hiện nay ông đang trực tiếp quản lý, sử dụng đối với
các thửa đất trên. Ông chưa chuyển nhượng, trao đổi, cầm cố, thế chấp các thửa
6
đất trên cho cá nhân, tchức nào. Nay ông S, ông K khởi kiện ông S2, X đối
với diện tích đất mà ông đã mua trúng đấu giá thì ông không có ý kiến, yêu cầu gì
trong vụ án này. Ngoài ra, ông H1 không trình bày gì thêm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đoàn Thị H2 trình bày tại bản
tự khai ghi ngày 24/4/2024 thì: Việc mua bán đất giữa ông K, ông S với vợ
chồng ông Nguyễn Thanh S1, bà Lê Thị X thì bà không biết được cụ thể như thế
nào. Khi làm giấy xong thì đưa cho bà thì chỉ biết theo yêu cầu của
chồng bà là ông K. Do đó, bà khôngliên quan gì. Bà không có ý kiến, yêu cầu
gì trong vụ án này.
- Vợ chồng ông Bùi Văn T1, bà Nguyễn Thị T2 trình bày tại bản tự khai ghi
ngày 08/5/2024 thì: Vào khoảng năm 2006, vợ chồng ông, cùng ông Nguyễn
Thanh S1, Thị X cùng vợ chồng ông K, H2 thỏa thuận về việc chuyển
nợ từ ông S1, bà X sang cho ông K, H2 sẽ trách nhiệm trả cho ông K, H2
khoảng 3 tấn cà phê nhân và khoảng 19.000.000đ tiền phân bón. Ông, bà đã chốt
xong công nợ ba bên và đã chuyển giao công nợ trên xong xuôi. Ông K, H2 đã
trả đủ scà phê và số tiền trên cho ông, bà. Ông K, H2 không còn nvợ chồng
ông, bà số tiền nào. Do đó, vợ chồng ông, bà không có ý kiến, yêu cầu gì. Ngoài
ra, vợ chồng ông T1, bà T2 không trình bày gì thêm.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2024/DS-ST ngày 27/6/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Lâm Đồng) đã xử:
Chấp đơn khởi kiện của ông Nguyn Phú K, ông Đăng S về việc Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtvi b đơn vợ chng ông
Nguyn Thanh S1, bà Lê Th X.
Tuyên bố hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy
chuyển nhượng đất lập ngày 06/10/2006 đối với diện tích đất 43.826m
2
thuộc thửa
đất số 53, 55, 57 tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, xã L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng
giữa ông Nguyễn Phú K, ông Đăng S và vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, bà
Lê Thị X.
Tuyên bố hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy sang
nhượng đất thổ cư + vườn lập ngày 01/10/2006 giữa ông Nguyễn Thanh S1, bà
Thị X với ông Nguyễn Phú K, Đoàn Thị H2.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, Thị X phải trả lại cho ông
Nguyễn Phú K số tiền chuyển nhượng 142.082.500đ bồi thường giá trị tài
sản chênh lệch với số tiền là 1.465.514.426đ, tổng cng là 1.607.596.926đ.
7
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, Thị X phải trả lại cho ông
Đăng S stiền chuyển nhượng là 142.082.500đ và bồi thường giá trị tài sản chênh
lệch với số tiền là 1.465.514.426đ, tổng cộng là 1.607.596.926đ.
Ngoài ra bản án còn tuyên ván phí, quyền kháng cáo trách nhiệm thi
hành án của đương sự.
Ngày 09/7/2024 ông Nguyễn Thanh S1, bà Lê Th X có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay:
Bị đơn bà X vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Luật sư H đề nghị xác định lại quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng
đặt cọc”, đồng thời yêu cầu áp dụng thời hiệu. Đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề nghị giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy đnh của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận một phần kháng cáo của bị đơn căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, sửa bản án sơ thẩm về giá trị tài sản tranh chấp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S1,
Thị X; người kháng cáo, thủ tục kháng cáo được thực hiện đúng theo quy định
tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên đủ điều kiện để Hội đồng
xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S1, bà Lê Thị X thì thấy rằng:
Về thời hiệu khởi kiện hợp đồng chuyển nhượng các bên vẫn đang thực hiện
thì phát sinh tranh chấp. Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 688, khoản 3 Điều 132 Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định “3. Đối với các giao dịch dân sự được quy định
tại Điều 123 Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự hiệu không bị hạn chế”. Do đó, kháng cáo của bị đơn yêu cầu
áp dụng thời hiệu khởi kiện là không có căn cứ chấp nhận.
Đối với kháng cáo của ông S1, X cho rằng phải xác định quan hệ tranh
chấp “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là không
8
có căn cứ. Bởi lẽ, theo giấy chuyển nhượng đất lập ngày 06/10/2006 thể hiện ông
S1, bà X chuyển nhượng diện tích là 43.800m
2
tại xóm T, thôn S cho ông S, ông
K với giá chuyển nhượng 470.000.000đ, đã nhận trước 200.000.000đ, scòn
lại hẹn thu xong mùa phê sẽ thanh toán. Ngoài ra, bên nhận chuyển nhượng đất
đã trả cho ông S1, bà X số tiền 84.165.00(chuyển nợ cà phê + phân bón từ ông
T1 sang ông K, H2). X không thừa nhận việc chuyển nợ từ ông T1 sang
ông K, H2 để cấn trừ vào tiền chuyển nhượng của ông K, ông S. Tuy nhiên, bà
X không đưa ra được chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận.
Vợ chồng ông S1, bà X không thừa nhận chữ ký, chữ viết Nguyễn Thanh S1,
Thị X tại giấy chuyển nợ ghi ngày 06/10/2006, giấy chuyển nhượng đất lập
ngày 06/10/2006. Tuy nhiên, tại Kết luận giám định số 63/KL-KTHS (TA) đã kết
luận: chữ ký, chữ viết mang tên Nguyễn Thanh S1 trên các tài liệu cần giám định
ký hiệu A1, A2, A3 là do cùng một người ký và viết ra; chữ ký, chviết Lê Thị X
trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A3 không phải do cùng một người ký
viết ra. Đồng thời, trong lời khai của vợ chồng ông S1, bà X tại đơn yêu cầu
xem xét về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện thì ông S1, X trình bày nội dung
sau: “việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc các thửa 53, 55, 57 tờ bản đồ
số 54, tọa lạc tại thôn S, L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng giữa vợ chồng chúng tôi
và ông S, ông K đã xảy ra từ năm 2006…”.
Quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn thẩm, X cũng thừa nhận vào
tháng 12/2006, ký vào giấy chuyển nhượng một lần duy nhất cho ông
Nguyễn Phú K, Đoàn Thị H2 diện tích đất khoảng 43.000m
2
tại thôn S, xã L,
huyện L với giá 470.000.000đ, vợ chồng đã nhận của ông K, H2 số tiền
chuyển nhượng 200.000.000đ, còn lại 270.000.000đ hẹn đến cuối tháng 12/2006
thu xong cà phê thì trả đủ.
Việc ông K, ông S vchồng ông S1, bà X thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 43.826m
2
thuộc thửa đất số 53, 55, 57 tờ
bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 06/10/2006
xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, tại thời điểm các bên xác lập hợp đồng chuyển
nhượng thì vợ chồng ông S1, bà X đang thế chấp diện tích đất thuộc thửa 53, 55,
57 tbản đsố 54 xã L, huyện L cho Ngân hàng N, chi nhánh Đ để vay tiền (đăng
thế chấp ngày 09/5/2006). vậy, giao dịch dân sự giữa ông K, ông S vợ
chồng ông S1, X giao dịch dân sự hiệu do vi phạm điều cấm theo quy định
tại Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử đất lập ngày 06/10/2006 giữa ông K, ông S vợ
chồng ông S1, X tuyên hủy giấy sang nhượng đất thổ + vườn lập ngày
01/10/2006 giữa ông S1, bà X với ông K, bà H2 là có căn cứ.
Bị đơn thừa nhận đã nhận của nguyên đơn số tiền 200.000.00tiền chuyển
nhượng đất. Theo giấy chuyển nợ ngày 06/10/2006 thì giữa ông Nguyễn Thanh S1
9
Nguyễn Phú K có thỏa thuận: Ông S1 chuyển số nợ 3000kg cà phê nhân và số
tiền 19.065.000đ ông S1 nợ ông T1 sang cho ông K. Ông K, ông S xác nhận việc
chuyển nợ để cấn trừ vào tiền chuyển nhượng 470.000.000đ.
Giá phê nhân thời điểm tháng 10/2006 là 21.700đ/kg nên số tiền chuyển
nhượng ông K, ông S đã giao cho vợ chồng ông S1, X là: 200.000.000đ +
21.700đ/kg x 3000kg phê nhân + 19.065.000đ = 284.165.000đ. Do đó, buộc vợ
chồng ông S1, bà X phải trả lại cho ông K, ông S mỗi người số tiền chuyển nhượng
là 142.082.500đ.
Theo kết quả đo đạc hiện trạng thì tổng diện tích đo đạc là 37.987m
2
. Do vậy,
cần xác định diện tích đất thực tế vợ chồng ông S1, bà X chuyển nhượng cho ông
K, ông S 37.987m
2
. Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn xác định ông K, ông S chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của việc
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 10.920,3m
2
thuộc một phần thửa 31 18.979m
2
thuộc một phần thửa 57, tổng diện tích
29.899,3m
2
đều thuộc tờ bản đồ số 54 L, huyện L theo họa đồ đo đạc hiện trạng;
đối với cây trồng và công trình xây dựng trên đất thì ông K, ông S không yêu cầu
Tòa án giải quyết. Bị đơn kháng cáo yêu cầu thẩm định lại giá trị quyền sử dụng
đất. Theo Chứng thư thẩm định giá ngày 30/6/2025 ca Công ty TNHH T4 thì g
trị quyền sử dụng đất diện tích 29.899,3m
2
9.298.682.300đ. Do vậy, giá trị tài
sản chênh lệch được xác định như sau: 9.298.682.300đ - 470.000.000đ =
8.828.682.300đ. Cấp sơ thẩm xác định li 50% - 50% là phù hợp.
Như đã phân tích trên, số tiền chuyển nhượng ông K, ông S đã thanh toán
cho vợ chồng ông S1, X 284.165.000đ bằng 60,46%
(284.165.000đ/470.000.000đ) giá trị chuyển nhượng, tương ứng với số tiền
5.337.821.318đ (60,46% x 8.828.682.300đ). Do xác định lỗi mỗi bên là 50% nên
cần buộc vợ chồng ông S1, bà X phải bồi thường giá trị tài sản chênh lệch cho ông
K, ông S số tiền 2.668.910.659đ, trong đó bồi thường cho ông K số tiền
1.334.455.32+ 142.082.500đ = 1.476.537.829đ; bồi thường cho ông S số tiền
là 1.334.455.329đ + 142.082.500đ = 1.476.537.829đ.
Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận kháng cáo ông Nguyễn Thanh
S1, bà Lê Thị X, sửa bản án sơ thẩm.
[3] Về chi phí tố tụng:
Tại giai đoạn sơ thẩm nguyên đơn có yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ, đo
vẽ, thẩm định giá và giám định tổng chi phí 62.742.000đ. Do yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ số tiền này (nguyên
đơn đã quyết toán xong).
Tại giai đoạn phúc thẩm bị đơn yêu cầu thẩm định giá lại tài sản với chi
phí là 36.500.000đ (bị đơn đã quyết toán xong). Do yêu cầu kháng cáo của bị đơn
10
được chấp nhận đối với phần tính lại giá trị quyền sử dụng đất nên buộc nguyên
đơn phải chịu số tiền nay. Đối trừ nghĩa vụ bị đơn phải thanh toán cho ông S3,
ông K mỗi người (62.742.000đ - 36.500.000đ) : 2 = 13.121.000đ.
[4] Về án phí:
Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận một phần nên ông S1, X không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thanh S1, bà Thị
X, sửa bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp đơn khởi kiện của ông Nguyn Phú K, ông Đăng S về việc
“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” vi b đơn vợ chng
ông Nguyn Thanh S1, bà Lê Th X.
Tuyên bố hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy
chuyển nhượng đất lập ngày 06/10/2006 đối với diện tích đất 43.826m
2
thuộc thửa
đất số 53, 55, 57 tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại thôn S, xã L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng
giữa ông Nguyễn Phú K, ông Đăng S và vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, bà
Lê Thị X.
Tuyên bố hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy sang
nhượng đất thổ cư + vườn lập ngày 01/10/2006 giữa ông Nguyễn Thanh S1, bà
Thị X với ông Nguyễn Phú K, Đoàn Thị H2.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, Thị X phải trả lại cho ông
Nguyễn Phú K số tiền chuyển nhượng 142.082.500đ bồi thường giá trị tài
sản chênh lệch với số tiền 1.334.455.329đ, tổng cộng 1.476.537.829đ (Một tỷ
bốn trăm bảy mươi sáu triệu năm trăm ba mươi bảy ngàn tám trăm hai mươi chín
đồng).
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, Thị X phải trả lại cho ông
Đăng S stiền chuyển nhượng là 142.082.500đ và bồi thường giá trị tài sản chênh
lệch với số tiền là 1.334.455.329đ, tổng cộng là 1.476.537.829đ (Một tỷ bốn trăm
bảy mươi sáu triệu năm trăm ba mươi bảy ngàn tám trăm hai mươi chín đồng).
11
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về chi phí tố tụng:
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, Thị X phải hoàn trả cho ông
Nguyễn Phú K số tiền 13.121.000đ chi phí tố tụng.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh S1, Thị X phải hoàn trả cho ông
Võ Đăng S số tiền 13.121.000đ chi phí tố tụng.
3. Về án phí:
Miễn án phí dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm cho vợ chồng ông Nguyễn
Thanh S1, bà Lê Thị X.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Phú K số tiền 3.937.500đ, ông Võ Đăng S số tiền
3.937.500đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0003025 ngày 21/3/2022
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay Phòng Thi
hành án dân sự khu vực 3 Lâm Đồng) và hoàn trả cho ông K số tiền 300.000đ
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0004406 ngày 02/01/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay Phòng Thi hành án dân
sự khu vực 3 – m Đồng).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng GĐ, KT, TT&THA (01);
- THADS tỉnh Lâm Đồng (01);
- TAND khu vực 3 – Lâm Đồng (01);
- Phòng THADS khu vực 3 Lâm Đồng
(01);
- Đương sự (06);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Bản án số 163/2025/DS-PT Bản án số 163/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 163/2025/DS-PT Bản án số 163/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất