Bản án số 194/2025/HC-PT ngày 16/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 194/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 194/2025/HC-PT ngày 16/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 194/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/04/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bác kháng cáo của bà Trương Thị Đ; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 30/2024/HC-ST ngày 19/7/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 194/2025/HC-PT
Ngày: 16/4/2025
V/v:“Khiếu kiện quyết định nh
chính trong lĩnh vực quản đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Tào
Các Thm phán:
Ông Nguyn Tiến Dũng
Bà Phan Th Vân Hương
- Thư phiên tòa: Đinh Thị Trang, Thm tra viên Tòa án nhân dân cp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại din Vin kim sát nhân dân cp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Phan Văn Tâm, Kim sát viên.
Ngày 16 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số 53/2025/TLPT-HC ngày
13/01/2025 về việc Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất
đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 30/2024/HC-ST ngày 19 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 870/2025/QĐ-PT ngày
01 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Trương Thị Đ, sinh năm 1961; địa chỉ: tổ B, H,
phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trương Thị Đ:
+ Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1988; địa chỉ: A đường G, tổ I, KP1, T,
Quận7, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ liên hệ: B01-08, Chung B (Khu B),
N, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
+ Phùng Thị Ngọc D, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn C, xã S, huyện D,
tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
2
+ Bà Nguyễn Thị Hoài T1, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ B, phường H, quận
L, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
- Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
2. Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn M, Phó Chủ tịch. Vắng
mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
+ Ông Nguyễn Duy T2, Phó Trưởng phòng Phòng Tài nguyên Môi
trường thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
+ Ông Phạm Hữu T3, nhân viên Phòng Tài nguyên Môi trường thành
phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
+ Ông Nguyễn Hoàng L, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất thành
phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
+ Ông Lý Bá A, nhân viên Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố N, tỉnh
Khánh Hòa. Có mặt.
+ Ông Nguyễn B, Phó Chủ tịch UBND V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
Có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Hùng T4, Công chức Địa chính Xây dựng UBND V,
thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn T5 Thị
Cẩm V; địa chỉ: thôn Đ, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 04/10/2023, bản tự khai, biên bản đối thoại tại
phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện Trương
Thị Đ trình bày:
Trương Thị Đ là chủ sử dụng 03 thửa đất liền kề có tổng diện tích 7,82
ha do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của 03 hộ gia đình, cá nhân; gồm:
- Thửa đất thứ nhất: Thửa số 1, C, khoảnh XVII, Tiểu khu E, diện
tích 0,82 ha (đã được UBND thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Bùi Văn N ngày 11/9/1995); chuyển nhượng cho bà năm 2004.
- Thửa đất thứ 2: Thửa số 2, C khoảnh XVII, Tiểu khu E, diện tích
2,0 ha (đã được UBND thành phố N cấp GCN cho ông Bùi M1 ngày 11/9/1995,
có kích thước và giáp ranh cụ thể); chuyển nhượng cho bà năm 2004.
3
- Thửa đất thứ 3: Thửa số 02, tờ bản đs02, diện tích 5,0 ha (tiếp giáp
đất của ông Bùi M1 nêu trên, nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn
T5Võ Thị Cẩm V bằng giấy tờ viết tay ngày 10/8/2001, có ghi rõ diện tích
đất 5,0 ha, có ranh giới ng: phía Đông giáp đất nhà anh H, anh H1; phía
Nam giáp đất Ngọc M2, phía Tây giáp đất nhà anh Nguyễn Văn N1 phía Bắc
giáp đất nhà anh Bùi M1).
Như vậy, đất của Đ giấy tờ pháp đầy đủ: 02 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và Giấy chuyển nhượng năm 2001 của bà với ông T5 và bà V
được pháp luật chấp nhận, cấp Giấy chứng nhận cho người đã nhận chuyển
nhượng theo quy định tại khoản 1 Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ- CP ngày
15/5/2014 (đã được sửa đổi bổ sung khoản 54 Điều 2 Nghị định số 01/NĐ-CP
ngày 06/01/2017). Năm 2020, thực hiện Dự án xây dựng công trình Đường D KV
K - N mạch 2 (đoạn qua V) phải thu hồi một phần đất trong 03 thửa đất liền kề
nhau của bà tại V theo Quyết định số 1253/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của
UBND thành phố N.
Về việc kiểm kê, thu hồi đất:
1. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư lập Biên bản kiểm khối lượng
giải tỏa không đúng với thực tế về thời gian, thành phần và địa điểm:
Ngày 13/12/2021, ông Văn H2 - Giám đốc Trung tâm P tiếp
con gái Phạm Thúy U tại Trung tâm Phát triển quỹ đất; sau đó, ông H2 gọi nhân
viên đưa cho 02 tờ giấy kiểm đếm (trong đó có vẽ 02 đường dây điện đi qua)
và nói xây trụ điện đường dây đi vào đất của Đ; đồng thời có nói đất của
vẫn đầy đủ nên bà đã vào Biên bản kiểmkhối lượng giải tỏa, lúc này chỉ có
bà, con gái ông H2 không các thành phần đại diện của UBND
V. Tuy nhiên, trong hồ lưu Biên bản kiểm khối lượng giải tỏa ngày
13/12/2021 thêm chữ của UBND V và một số Phòng, Ban của UBND
thành phố. Ông Văn H2 chỉ xác nhận về thành viên Tổ công tác Trung tâm
Phát triển quỹ đất; trong B1 ban ghi rõ là “Hôm nay vào lúc 9 giờ 00 phút ngày
13 tháng 12 năm 2021 tại hiện trường, chúng tôi tiến hành kiểm kê khối lượng bị
thiệt hại do thu hồi đất của hộ Trương Thị Đ nhưng thực tế biên bản này ông
H2 đưa cho tại Trung tâm Phát triển quỹ đất khoảng thời gian 3 - 4 giờ
chiều.
2. Trung tâm Phát triển quỹ đất tự lập giấy cam kết về việc sử dụng đất của
người bị thu hồi đất:
4
Ngày 26/4/2022, Trung tâm P có chuyển cho bà Đ tờ Giấy cam kết về việc
quản lý, sử dụng đất (viết tay, không rõ ai viết); trong đó, có nội dung: theo Phiếu
xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất thuộc Mảnh trích đo địa chính số 42-
2020 do Công ty Cổ phần T6 và Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh K xác nhận
kết quả đo đạc ngày 28/5/2020 (thuộc địa bàn V) thửa số 02, tờ bản đồ số 02
có diện tích 5.192,2m
2
do ông Nguyễn T5Thị Cẩm V khai hoang từ trước
năm 1990. Ngày 10/8/2001, ông Nguyễn T5 và bà Thị Cẩm V chuyển nhượng
cho bà sử dụng (bằng giấy viết tay). Hiện thửa đất không có tranh chấp hay khiếu
kiện liên quan đến thửa đất. sự chênh lệch diện tích đất nhận chuyển nhượng
của ông T5 và V đã bị mất gần 4,5 ha (từ 5 hạ xuống còn 5.192,2m
2
); đồng
thời Giấy cam kết không do viết nên khi cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất
đề nghị ký, bà không ký và đã giữ lại làm bằng chứng.
3. UBND thành phố N ban hành Quyết định thu hồi đất không đúng với
diện tích đất thu hồi ghi trong Biên bản kiểm kê khối lượng giải tỏa:
Ngày 30/6/2022, UBND tp N ban hành Quyết định số 1253/QĐ- UBND
thu hồi đất của bà Trương Thị Đ để thực hiện đường dây điện 220 KV; trong đó,
thu hồi 397,8m
2
đất của Đ đang sử dụng thuộc thửa đất số 230 (01 phần), tờ
bản đồ số 02, Bản đồ lâm nghiệp xã V tương ứng với thửa đất số 02, tờ bản đồ số
02 thuộc Mảnh trích đo địa chính số 42-2020.
Tuy nhiên, tại Biên bản kiểm khối lượng giải tỏa đã thể hiện: “Diện tích
chân móng hiện có: 52m
2
, diện tích để móng trụ điện hiện có: 119,6m
2
. Diện tích
thu hồi xây dựng mở rộng móng trụ điện: 226,2m
2
; diện tích ảnh hưởng hành lang:
1.306,7m
2
Không có diện tích đất xây dựng trụ điện mới nhưng hiện nay trên đất
của bà xuất hiện một trụ điện mới đã xây dựng.
Như vậy, đã sự không thống nhất về diện tích đất thu hồi trong Quyết
định thu hồi đất số 1253/QĐ-UBND (397,8 m
2
) và Biên bản kiểm kê khối lượng
giải tỏa (226,2m
2
). Diện tích đất trong Quyết định thu hồi bao gồm cả diện tích
chân móng và đế móng trụ điện hiện có.
4. Đơn vị thi công đã thi công xây dựng công trình trụ điện khi đất bthu
hồi chưa bàn giao mặt bằng.
5. UBND thành phố N không thực hiện đúng trình tự, thủ tục cưỡng chế
thu hồi đất: Quyết định cưỡng chế thu hồi đất không ghi nội dung cưỡng chế
gì. Đ đang có đơn kiến nghị các quan chuyên môn nhưng chưa có kết quả
giải quyết nhưng UBND thành phố lại ban hành Quyết định cưỡng chế.
Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa tuyên hủy:
5
- Quyết định số 1253/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của UBND thành phố N
về việc thu hồi đất đối với Trương Thị Đ đang sử dụng để thực hiện dự án Xây
dựng đường dây 220 KV Krôngbuk - N, thành phố N.
- Quyết định số 14628/QĐ-UBND ngày 27/6/2023 của Chủ tịch UBND
thành phố N về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định thu hồi đất đối với Trương
Thị Đ bị ảnh hưởng dự án Xây dựng công trình Đường dây 220 KV K - N, thành
phố N.
Tại Văn bản số 1165/UBND-TNMT ngày 07/02/2024 của Ủy ban nhân dân
thành phố N Văn bản số 1166/UBND-TNMT ngày 07/02/2024 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố N người bị kiện trình bày:
1. Về việc u cầu hủy Quyết định số 1253/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 về
việc thu hồi đất đối với Trương Thị Đ đang sử dụng để thực hiện dự án Đường
dây 220KV K - N, thành phố N:
Dự án Xây dựng công trình Đường y 220KV Krongbuk - N, thành phố
N được triển khai thực hiện trên cơ sở pháp lý sau:
Ngày 24/10/2018, UBND tỉnh K đã Văn bản số 10842/UBND-KT về
việc thống nhất chủ trương hướng tuyến đường dây 220kV K - N (đoạn qua địa
phận tỉnh Khánh Hòa);
Ngày 25/7/2019, Tổng Công ty T7 có Quyết định số 973/QĐ-EVNNPT về
việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình: Đường dây 220kv Krong buk -
, mạch 2;
Ngày 10/12/2019, Hội đồng nhân dân tỉnh K ban hành Nghị quyết số
49/NQ-HĐND về việc thông qua danh mục các dự án cần thu hồi đất để phát triển
kinh tế - hội lợi ích quốc gia, công cộng trong năm 2020 trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa; trong đó dự án Xây dựng công trình đường dây 220KV Krôngbuk
- N, thành phố N.
Như vậy, căn cứ các quy định của pháp luật, UBND thành phố N ban hành
Thông báo số 1083/TB-UBND ngày 22/7/2020 về việc thu hồi đất để thực hiện
dự án Xây dựng công trình đường dây 220KV K - N, thành phố N với mục đích
phát triển kinh tế - hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là đúng theo quy định tại
Điều 62 Luật Đất đai năm 2013.
Trong quá trình thực hiện dự án, trường hợp Trương Thị Đ đất
nằm trong phạm vi thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng công trình đường dây
220KV K - N, thành phố N. Trước khi ban hành các Quyết định thu hồi đất
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, tchức làm
6
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã tiến hành việc khảo sát, đo đạc,
kiểm đếm, xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư, tổ chức niêm
yết công khai, lấy ý kiến theo đúng trình tự quy định của pháp luật.
Về trình tự thực hiện thủ tục thu hồi đất của bà Trương Thị Đ:
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố N đã phối hợp UBND V tiến
hành họp dân thông báo chủ trương thu hồi đất của dự án vào ngày 24/9/2020.
- Về công tác kiểm kê khối lượng trên đất:
Phiếu xác nhận kết quả đo đạc thửa số 02, tờ bản đồ trích đo số
807/2014/TĐ-BĐ, Mảnh trích đo địa chính số 42-2020, diện tích 5.192,2m
2
, diện
tích chân móng trụ điện hiện có: 52m
2
; diện tích đế móng trụ điện hiện có:
119,6m
2
, diện tích thu hồi: 226,2m
2
; diện tích ảnh hưởng hành lang: 1.306,7m
2
tương ứng với 01 phần thửa số 230, tờ bản đồ số 01 (BĐLN) V đã được
Trương Thị Đ ký xác nhận.
Ngày 13/12/2021, Tổ công tác đã tiến hành kiểm khối lượng bồi thường,
giải tỏa cho Bà Trương Thị Đ tại thửa đất bị ảnh hưởng bởi dự án (có chữ ký xác
nhận của Trương Thị Đ các thành viên tổ công tác giúp việc hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư dự án).
- Về giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ:
Ngày 04/3/2022, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 655/QĐ-UBND về
việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực
hiện dự án Đường dây 220KV K - N mạch 2, đoạn qua V và xã V, thành phố
N;
- Vcông tác xác minh nguồn gốc đất: Ngày 26/5/2022, UBND V
Giấy xác nhận số 822/XN-UBND về xác minh nguồn gốc sử dụng đất.
- Về họp xét phương án bồi thường, hỗ trợ và niêm yết công khai:
Ngày 03/6/2022, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tiến hành họp
xét thông qua phương án dự kiến bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân hưởng bởi dự
án; trong đó có trường hợp bà Trương Thị Đ và đã ban hành Thông báo niêm yết
số 116/TB-HĐBT ngày 03/6/2022 về việc niêm yết phương án dự kiến bồi
thường, hỗ trợ tái định dán: Xây dựng Công trình Đường dây 220KV
KrôngBuk - N, thành phố N (Đợt 03 - 14 trường hợp xã V);
Ngày 03/6/2022, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố N đã phối hợp với
UBND V niêm yết phương án dự kiến bồi thường, hỗ trợ dự án Xây dựng công
trình Đường dây 220KV KrôngBuk - N, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa - 14
trường hợp), thời gian niêm yết từ ngày 03/6/2022 đến hết ngày 22/6/2022.
7
Ngày 14/6/2022, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố N đã phối hợp với
UBND V mời các hộ dân thuộc dự án họp lấy ý kiến về phương án dự kiến bồi
thường, hỗ trợ trong đó có trường hợp bà Trương Thị Đ.
Ngày 20/6/2022, Trung tâm phát triển quỹ đất Văn bản số 876/TTQĐ
báo cáo tổng hợp phiếu góp ý kiến của các hộ dân bị ảnh hưởng bởi dự án. Trên
sđó, ngày 24/6/2022, Phòng T phối hợp với Trung tâm Phát triển quỹ đất
thành phố N và các đơn vị liên quan tiến hành thẩm định phương án bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư;
- Ngày 30/6/2022, UBND thành phố N ban hành Quyết định số 1160/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định ban hành
Quyết định số 1253/QĐ-UBND về việc thu hồi đất 397,8m
2
đất đối với trường
hợp Trương Thị Đ đang sử dụng thuộc một phần thửa số 230 tờ bản đồ số 01
(BĐLN) xã V, tương ứng thửa số 02 tờ bản đồ s2 thuộc Mảnh trích đo địa chính
số 42-2020 do Công ty cổ phần T6 xác lập và được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh K xác nhận kết quả đo đạc ngày 28/5/2020 (thuộc địa bàn xã V).
Căn cứ phương án bồi thường được phê duyệt, UBND thành phố N ban
hành Quyết định số 1261/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 về việc bồi thường, hỗ tr
đối với trường hợp bà Trương Thị Đ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án
Xây dựng công trình đường dây 220KV Krôngbuk - N, thành phố N với tổng kinh
phí 46.387.773 đồng;
- Giải quyết đơn thư:
Trương Thị Đ đơn kiến nghị ngày 28/8/2022 đã được UBND thành
phố N trả lời đơn tại Văn bản số số 7645/UBND-TTQĐ ngày 20/10/2022, với nội
dung: “Bà Đ đơn đề nghị xác định lại toàn bộ diện tích 03 thửa đất không
sở do diện tích bị ảnh hưởng dán (Tổng diện tích thu hồi trđiện 398,7m
2
diện tích ảnh hưởng hành lang 1.306,7m
2
) thuộc một phần thửa đất Đ nhận
chuyển nhượng năm 2001 bằng giấy viết tay, 02 thửa còn lại không bị ảnh hưởng.
Việc đo đạc xác định diện tích các thửa đất, đề nghị bà Đ liên hệ cơ quan, đơn vị
có chức năng để thực hiện”.
Trương Thị Đ tiếp tục có đơn kiến nghị ngày 04/11/2022 trùng với nội
dung đơn ghi ngày 28/8/2022 nên UBND thành phố N xem xét đồng ý cho u
đơn tại Văn bản s8622/UBND-TTQĐ ngày 23/11/2022.Trương Thị Đ
đơn kiến nghị ngày 26/10/2022 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K trả
lời tại Văn bản số 4914/STNMT-ĐĐBĐVT ngày 07/11/2022.
8
Từ những nội dung nêu trên, UBND thành phố N ban hành Quyết định số
1253/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 là đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
2. Về việc yêu cầu hủy Quyết định số 14628/QĐ-UBND ngày 27/6/2023 về
việc cưỡng chế thực hiện Quyết định thu hồi đất đối với bà Trương Thị Đ bị ảnh
hưởng dự án Xây dựng công trình Đường dây 220KV K - N, thành phố N.
Sau khi UBND thành phố N ban hành Quyết định phê duyệt phương án,
Quyết định thu hồi đất Quyết định bồi thường, hỗ trợ đối với Trương Thị
Đ thuộc dự án; Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố N tiếp tục triển khai thực
hiện như sau:
- Về việc trả tiền bồi thường: Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố N
phối hợp với UBND V tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân
tại UBND V đã mời trường hợp Trương Thị Đ 03 lần để nhận tiền bồi
thường, hỗ trợ (thời gian chi trả vào ngày ngày 22/7/2022, ngày 08/8/2022
ngày 04/11/2022) nhưng trường hợp bà Trương Thị Đ chưa đồng ý nhận tiền bồi
thường.
- Tổ chức vận động bàn giao mặt bằng: UBND V đã phối hợp Trung tâm
Phát triển quỹ đất thành phố N tổ chức tuyên truyền, vận động trường hợp
Trương Thị Đ sớm nhận tiền bồi thường bàn giao mặt bằng 04 lần (vào các
ngày 09/9/2022, ngày 15/9/2022, ngày 04/10/2022 ngày 12/12/2022). Tuy
nhiên, qua 04 lần mời vận động bà Trương Thị Đ không tham dự và chưa đồng ý
nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng.
- Về việc ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi đất:
Ngày 09/02/2023, UBND thành phố N n bản số 755/UBND-TNMT
báo cáo kiến nghị UBND tỉnh, Sở T thống nhất chủ trương cưỡng chế thực
hiện quyết định thu hồi đất đối với trường hợp bà Trương Thị Đ thuộc dự án Xây
dựng công trình Đường dây 220KV krôngbuk – Nha Trang mạch 2 theo quy định
tại Điều 71 Luật Đất đai năm 2013.
Ngày 18/5/2023, UBND tỉnh K Văn bản số 4829/UBND-KT về việc
cưỡng chế thu hồi đất thuộc dự án Xây dựng công trình Đường dây 220KV
Krôngbuk - Nha Trang mạch 2, nội dung: “Giao UBND thành phố N nghiên cứu
hướng dẫn của Sở T các quy định pháp luật để tổ chức thực hiện cưỡng chế
theo quy định”.
Ngày 27/6/2023, UBND thành phố N đã ban hành Quyết định số
14628/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định thu hồi đất đối với hộ
9
Trương Thị Đ thuộc dự án Xây dựng công trình Đường dây 220KV Krôngbuk
N mạch 2;
Căn cứ khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013, UBND thành phố N đã
ban hành Quyết định số 14628/QĐ-UBND ngày 27/6/2023 đúng theo quy định
của pháp luật hiện hành.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn T5 và bà Võ Thị Cẩm
V trình bày:
.Năm 2001, do kinh tế khó khăn nên vợ chồng ông, chuyển nhượng
cho bà Trương Thị Đ, địa chỉ::79 tổ B H,,phường V, thành phố N, toàn bộ thửa
đất rẫy tại thôn Đ, xã V, thành phố N,với diện tích cụ thể bao nhiêu không rõ, có
viết “GIẤY SANG NHƯỢNG ĐẤT RẪY” lập ngày 10/8/2001 với giá
100.000.000 đồng. Vợ chồng ông, bà đã nhận đủ tiền từ Trương Thị Đ đã
giao đất cho Đ quản lý, sử dụng từ đó đến nay. Ông, bà có nhớ vào thời điểm
chuyển nhượng, trên thửa đất 01 trụ điện (được xây dựng vào lúc nào ông
không nhớ rõ). Hiện ông, không liên quan đến thửa đất đã chuyển nhượng
cho Trương Thị Đ nên không ý kiến về việc khởi kiện của Trương Thị
Đ, đề nghị Tòa giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 30/2024/HC-ST ngày 19 tháng 7 năm
2024, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193; khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên x:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Trương Thị Đ về việc hủy:
Quyết định số 1253/QĐ-UBND ngày 30/6/2022 của UBND thành phố N về việc
thu hồi đất đối với Trương Thị Đ đang sử dụng để thực hiện dự án Xây dựng
đường dây 220 KV Krôngbuk - N, thành phố N Quyết định số 14628/QĐ-
UBND ngày 27/6/2023 của Chủ tịch UBND thành phố N về việc cưỡng chế thực
hiện Quyết định thu hồi đất đối với bà Trương Thị Đ bị ảnh hưởng dự án Xây
dựng công trình Đường dây 220 KV K - N, thành phố N.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về phần án phí quyền kháng
cáo theo quy định.
10
Ngày 26/7/2024, Trương Thị Đ kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm
sửa án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà; đồng thời
yêu cầu UBND thành phố N giải pháp đo đạc diện tích cần thu hồi, đo đạc tách
diện tích đất của do bị đo gộp vào thửa đất số 230 của UBND V, không
đúng với diện tích đất đã mua của vợ chồng ông Nguyễn T5, Thị
Cẩm V.
Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát
biểu quan điểm về giải quyết vụ án:
- Vchấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư người
tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà Trương Thị
Đ; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận; Xét thấy:
[1]. Xét kháng cáo của bà Trương Thị Đ:
[1.1]. Về nh hợp pháp của Quyết định số 1253/QĐ-UBND ngày
30/6/2022 của UBND thành phố N về việc thu hồi đất đối với Trương Thị Đ
đang sử dụng để thực hiện dự án Xây dựng đường dây 220 KV Krôngbuk - N,
thành phố N:
- Trong quá trình thực hiện dự án, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố
N đã phối hợp UBND V tiến hành họp dân thông báo chủ trương thu hồi đất
của dự án vào ngày 24/9/2020.
- Ngày 13/12/2021, Tổ công tác đã tiến hành kiểm kê khối lượng bồi
thường, giải tỏa cho Trương Thị Đ tại thửa đất bị ảnh hưởng bởi dán. Tuy
Đ không mặt nhưng chị Phạm Thúy U (con bà Đ) mặt để chỉ dẫn kiểm
đếm (các bên đương sự xác nhận nội dung này tại phiên toà cấp phúc thẩm). Ngày
14/12/2021, tại Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố N Đ đã đọc lại Biên
bản xác nhận khối lượng, diện tích đất tài sản trên đất bị thu hồi theo
hiện trạng đất được kiểm kê: thửa đất số 02, tờ bản đồ 02, tổng diện tích 5.192,2m
2
,
diện tích chân móng trụ điện hiện : 52m
2
; diện tích đế móng trụ điện hiện có:
119,6m
2
, diện tích thu hồi: 226,2m
2
; diện tích ảnh hưởng hành lang: 1.306,7m
2
.
Đồng thời ký Phiếu xác nhận kết quả đo đạc thửa số 02 ngày 13/12/2021 về phạm
11
vi nh hưởng nh lang an toà tuyến điện theo hiện trạng sử dụng đất xác định:
Tổng diện tích thu hồi trụ điện 397,8m
2
; trong đó: Diện tích chân móng trụ điện
hiện có: 52m
2
; diện tích đế móng trụ điện hiện có: 119,6m
2
, diện tích thu hồi xây
dựng mở rộng: 226,2m
2
; diện tích ảnh hưởng an toàn tuyến điện: 1.306,7m
2
và bà
Đ cũng không có ý kiến gì.
- Ngày 03/6/2022, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư tiến hành họp
xét thông qua phương án dự kiến bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng
bởi dự án, trong đó có trường hợp bà Trương Thị Đ Trung tâm Phát triển quỹ
đất thành phố N đã phối hợp với UBND V niêm yết phương án dự kiến bồi
thường, hỗ trợ dự án Xây dựng công trình Đường dây 220KV KrôngBuk - N,
thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Ngày 30/6/2022, UBND thành phố N ban hành
Quyết định số 1160/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
tái định ban hành Quyết định số 1253/QĐ-UBND vviệc thu hồi đất
397,8m
2
đất đối với trường hợp Trương Thị Đ đang sử dụng thuộc một phần
thửa số 230 tờ bản đồ số 01 (BĐLN) xã V, tương ứng thửa số 02 tờ bản đồ số 2
thuộc Mảnh trích đo địa chính số 42-2020 do Công ty cổ phần T6 xác lập được
Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh K xác nhận kết quả đo đạc ngày 28/5/2020
(thuộc địa bàn xã V).
- Về giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ: Ngày 04/3/2022, UBND tỉnh K ban
hành Quyết định số 655/QĐ-UBND về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án Đường dây 220KV K - N mạch
2, đoạn qua xã V và xã V, thành phố N.
Như vậy, UBND thành phố N ban hành Quyết định số 1253/QĐ-UBND
ngày 30/6/2022 đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đúng diện tích theo biên bản
kiểm kê khối lượng giải tỏa thu hồi đất.
[1.2]. Về nội dung đại diện theo ủy quyền của Đ cho rằng hiệu
thửa đất thu hồi tại Biên bản niêm yết không phù hợp với số hiệu tại Quyết
định thu hồi đất, như vậy có sự thiếu chính xác về diện tích và số thửa bị thu
hồi trên thực địa; xét thấy: Tại hniêm yết Phương án dự kiến bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư Đợt 3-14 trường hợp – xã V (BL 87 đến 119) thể hiện:
- Tại cột mục (họ tên và địa chỉ Trương Thị Đ) có ghi nhận: Số hiệu
thủa đất thu hồi: Thửa đất số 07 tờ bản đồ số 01…”. Tuy nhiên tại cột mục
Giấy tờ nguồn gốc nhà đất đã xác định: Giấy xác nhận nguồn gốc đất số
822/XN-UBND ngày 26/5/2022 của UBND V xác nhận. Nội dung thủa đất
số 02 tờ bản đồ số 02…..Theo Sổ mục kê đất lâm nghiệp của xã lập năm 2008
12
bản đồ lâm nghiệp của xã, thửa số 230 (1 phần), tbản đồ số 02…”. Số hiệu
thủa đất được xác định này phù hợp với số hiệu trong Quyết định thu hồi
đất, nên không căn cứ cho rằng sự thiếu chính xác về diện tích số
thửa bị thu hồi trên thực địa.
[1.3]. Về tính hợp pháp của Quyết định số 14628/QĐ-UBND ngày
27/6/2023 của Chủ tịch UBND thành phố N về việc cưỡng chế thực hiện Quyết
định thu hồi đất đối với Trương Thị Đ bị ảnh hưởng dự án Xây dựng công trình
Đường dây 220 KV K - N, thành phố N; nhận thấy:
- Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố N phối hợp với UBND V tổ
chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân tại UBND V. Trường hợp
Trương Thị Đ đã mời 03 lần để nhận tiền bồi thường, hỗ trợ (thời gian chi trả
vào ngày 22/7/2022, ngày 08/8/2022 và ngày 04/11/2022) bà Trương Thị Đ chưa
đồng ý nhận tiền bồi thường. UBND xã V đã phối hợp Trung tâm Phát triển quỹ
đất thành phố N tổ chức tuyên truyền, vận động trường hợp Trương Thị Đ sớm
nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng 04 lần (vào các ngày 09/9/2022, ngày
15/9/2022, ngày 04/10/2022 và ngày 12/12/2022) nhưng bà Trương Thị Đ không
tham dự và chưa đồng ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng.
- Ngày 09/02/2023, UBND thành phố N Văn bản số 755/UBND-TNMT
báo cáo kiến nghị UBND tỉnh, Sở T thống nhất chủ trương cưỡng chế thực
hiện quyết định thu hồi đất đối với trường hợp bà Trương Thị Đ thuộc dự án Xây
dựng công trình Đường dây 220KV Krôngbuk - Nha Trang mạch 2 theo quy định
tại Điều 71 Luật Đất đai năm 2013. Ngày 18/5/2023, UBND tỉnh K Văn bản
số 4829/UBND-KT về việc cưỡng chế thu hồi đất thuộc dự án Xây dựng công
trình Đường dây 220KV Krôngbuk - Nha Trang mạch 2, nội dung: “Giao UBND
thành phố N nghiên cứu hướng dẫn của ST các quy định pháp luật để tchức
thực hiện cưỡng chế theo quy định”.
- Ngày 27/6/2023, UBND thành phố N đã ban hành Quyết định số
14628/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định thu hồi đất đối với hộ
Trương Thị Đ thuộc dự án Xây dựng công trình Đường dây 220KV Krôngbuk
- N mạch 2 là đúng trình tự, thủ tục.
[1.4]. Về nội dung yêu cầu UBND thành phố N giải pháp đo đạt tách
diện tích đất của do bị đo gộp vào thửa đất số 230 của UBND V, không
đúng với diện tích đất đã mua của vợ chồng ông Nguyễn T5, Thị
Cẩm V; nhận thấy:
13
- Tại Giấy xác nhận số 02/XN-UBND ngày 26/5/2022 của UBND xã V, về
thửa đất để phục vụ cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất Dự án: Công trình đường dây 220KV Krôngbuk - N, V, thành phố N,
xác định: Theo Sổ mục đất lâm nghiệp của xã, thửa đất số 230 (1 phần), tờ
bản đồ số 02 (BĐLN) Vĩnh Phương thể hiện là đất do UBND xã quản lý. Do thời
điểm đo đạc xác lập bản đồ bà Trương Thị Đ không có mặt tại vị trí lô đất để chỉ
dẫn ranh giới sử dụng, nên tổ đo đạc tiến hành đo gộp các thửa đất liền kề vào
thửa đất số 230 (01 phần), tờ bản đồ số 02 (BĐLN) và xác định là đất do UBND
xã V quản lý.
UBND xã V xác nhận thửa đất này không thuộc đất công và đất 5% do xã
quản thực tế thửa đất này do Trương Thị Đ quản sử dụng cho đến
nay. Hiện nay, thửa đất không tranh chấp, lấn chiếm, khuôn viên thửa đất
không thay đổi”.
- Tại Công văn số 458/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ ngày 12/4/2016 của T8 gửi Ban
Quản dự án c công trình điện miền T thể hiện: Về nguyên tắc, việc đo đạc
địa chính, trích đo địa chính phải đo vẽ trọn từng thửa đất, bao gồm cả phần diện
tích bị thu hồi, hỗ trợ phần diện tích còn lại của thửa đất để phục vụ việc lập
phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng và cập nhật, chỉnh biến động hồ
sơ địa chính.
Tuy nhiên, trong trường hợp đường dây cắt qua những thửa đất phần
diện tích nằm ngoài phạm vi thu hồi, hỗ trợ quá lớn (trên 01 ha) thì không nhất
thiết phải đo vẽ hết thửa đất, mà chỉ phải đo vẽ thêm khoảng 2cm trên bản đồ từ
ranh giới khu vực thu hồi, hỗ trợ phải xác định trong Thiết kế kỹ thuật-dự
toán hoặc phương án thi công để làm cơ sở thực hiện”.
Tại phiên toà phúc thẩm, Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố N
cũng xác định do diện tích đất bà Đ sử dụng quá lớn (trên 01ha) nên không đo vẽ
hết thửa đất như hướng dẫn của T8 nêu trên.
Do đó, nội dung yêu cầu về đo đạc tách diện tích đất của do bđo gộp
vào thửa đất số 230 của UBND xã V, không đúng với diện tích đất mà bà đã mua
của vợ chồng ông Nguyễn T5, Võ Thị Cẩm V là không cần thiết trong vụ án
này. Trường hợp cần đo đạc lại toàn bộ diện tích đất mà bà nhận chuyển nhượng
của vợ chồng ông Nguyễn T5, Võ Thị Cẩm V hiện nay đang sử dụng,
bà có thể liên hệ với cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai tại địa phương để được
hướng dẫn trình tự, thủ tục đo đạc.
14
Từ những phân tích trên, nhận thấy án thẩm không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Trương Thị Đ căn cứ, đúng pháp luật. Đ kháng cáo
nhưng không có tài liệu chứng cứ nào mới thể làm thay đổi nội dung vụ án. Do
đó, không có sở chấp nhận kháng cáo; giữ nguyên quyết định của bản án sơ
thẩm.
[2]. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[3].Về án phí phúc thẩm: Bà Trương Thị Đ người cao tuổi và có đơn xin
miễn án phí nên đủ điều kiện được miễn án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác kháng cáo của bà Trương Thị Đ; giữ nguyên quyết định của Bản án
hành chính sơ thẩm số 30/2024/HC-ST ngày 19/7/2024 của Toà án nhân dân tỉnh
Khánh Hoà.
2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà Trương Thị Đ.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Khánh Hoà;
- VKSND tỉnh Khánh Hoà;
- Cục THADS tỉnh Khánh Hoà;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tào
Tải về
Bản án số 194/2025/HC-PT Bản án số 194/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 194/2025/HC-PT Bản án số 194/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất