Bản án số 18/2024/KDTM-PT ngày 24/05/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 18/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 18/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 18/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 18/2024/KDTM-PT ngày 24/05/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty... |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 18/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/05/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông Z1 Zhi Lin chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết 03 yêu cầu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 18/2024/KDTM-PT
Ngày: 24/5/2024
V/v: Tranh chấp thành viên Công ty
với Công ty
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Văn Tuyển;
Các Thẩm phán: Ông Chu Thành Quang;
Ông Điều Văn Hằng.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hương Liên – Thư ký Toà án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Bà Vũ Thị Thúy -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 24 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh, thương mại phúc thẩm thụ lý số
12/2024/TLPT-KDTM ngày 04 tháng 3 năm 2024 về việc “Tranh chấp thành
viên Công ty với Công ty”.
Do Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 44/2023/KDTM-ST ngày
23 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5441/2024/QĐ-PT ngày 09 tháng
5 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Zhu Zhi L, sinh năm 1967; địa chỉ cư trú: Thành phố
V, tỉnh An Huy, Trung Quốc; hiện tại đang tạm trú tại: P607, V2, Tòa H, số A, T,
phường Y, quận C, thành phố Hà Nội. Có mặt.
Người phiên dịch: Ông Zhang Zheng M, sinh năm 1984; Hộ chiếu số
EF5953493 do Đại sứ quán T9 tại Việt Nam cấp ngày 13/5/2019. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vi Văn M1, sinh năm 1975 và ông
Nguyễn Khắc L1, sinh năm 1998; cùng địa chỉ liên hệ: Số A, T, phường M, quận
C, thành phố Hà Nội. Ông M1 vắng mặt, ông L1 có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Trần Quốc H và Luật sư
Lưu Thị H1 – Văn phòng Luật sư Trần Quốc H, Đoàn Luật sư thành phố H. Đều
2
có mặt.
- Bị đơn: Công ty cổ phần Đ.
Trụ sở: Tầng D, số A, T, phường Y, quận C, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Huang Hong J; Chức vụ: Giám đốc.
Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn T; địa chỉ: P, nhà A, đường
H, phường N, quận T, thành phố Hà Nội. Có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty TNHH Đ1;
Địa chỉ: A, đường P, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Yang X; Chức vụ: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Minh T1, sinh năm 1997; ông
Nguyễn Đức M2, sinh năm 1977; ông Nguyễn Thế H2, sinh năm 1969; cùng địa
chỉ liên hệ: P.1502A, Tòa nhà C 117, T, quận C, T TT' WTA. Đều có mặt.
2. Phòng Đăng ký Kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H.
Địa chỉ: Tòa nhà Trung tâm G, Khu liên cơ quan Võ Chí Công, số B, đường
V, phường X, quận T, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Văn T2; Chức vụ: Trưởng phòng.
Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn trình bày:
Ngày 22/4/2023, Công ty cổ phần Đ (Viết tắt là Công ty Đ) đã tổ chức cuộc
họp Đại hội đồng cổ đông (viết tắt là ĐHĐCĐ) bất thường để bãi miễn tư cách
thành viên Hội đồng quản trị (viết tắt là HĐQT) của ông Zhu Zhi L, ông Cheung
Yip S, ông Youn Kwon S1 và bãi miễn tư cách thành viên Ban Kiểm soát của ông
Cao Zhi X1, bà Cao Lệ T3. Cuộc họp ĐHĐCĐ này đã vi phạm nghiêm trọng về
thủ tục triệu tập và trình tự cuộc họp theo Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty
Đ. Cụ thể: Lý do để Công ty TNHH Đ1 (Gọi tắt là Công ty Đ1 - cổ đông lớn của
Công ty Đ) đứng ra triệu cuộc họp cho rằng HĐQT Công ty vi phạm quyền của
cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý là không có cơ sở khi cho rằng ông Zhu Zhi
L (Người đại diện theo pháp luật của Công ty) có hành vi tự ý rút tiền của Công
ty không có sự chấp thuận của HĐQT, có hành vi vi phạm quy định về trình tự,
thủ tục, triệu tập và tổ chức cuộc họp HĐQT, có hành vi cản trở cổ đông thực hiện
quyền. Thực tế của việc Công ty Đ1 triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường nêu
trên là do ông Zhu Zhi L – đại diện cho Công ty Đ ký đơn khởi kiện yêu cầu cổ
đông V phải trả số tiền 20 tỷ đồng tiền gốc + 6 tỷ đồng tiền lãi mà Công ty này
vay chưa trả Công ty Đ. Khi lấy ý kiến HĐQT bãi miễn chức vụ Chủ tịch HĐQT
3
đối với ông Zhu Zhi L, cổ đông triệu tập Đại hội không gửi thông báo họp, lấy ý
kiến của ông Giang Nhược T4. Việc triệu tập họp cổ đông của Việt T5 không
đúng quy định nên ông Zhu Zhi L từ chối đăng tải thông tin lên trang thông tin
điện tử của Công ty Đ.
Các thông tin, tài liệu triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường do Cổ đông V triệu
tập không được đăng tải trên các trang thông tin điện tử của Công ty nên nhiều cổ
đông không biết gì về phiên họp. Việc ủy quyền dự họp của 33 cổ đông cho bà
Nguyễn Thanh T6 là không hợp pháp do chữ ký của các cổ đông ủy quyền bị giả
mạo. Một số ủy quyền của những cổ đông nước ngoài cho bà T6 không được hợp
pháp hóa lãnh sự nên không có hiệu lực, bà T6 không đủ tư cách để tham gia dự
họp, phát biểu, biểu quyết tại cuộc họp thay 33 cổ đông này.
Nghị quyết ĐHĐCĐ ngày 22/4/2023 vi phạm Luật Doanh nghiệp và Điều
lệ Công ty. Mặc dù Nghị quyết không nêu rõ lý do nhưng Biên bản họp ĐHĐCĐ
đã ghi thành viên HĐQT vi phạm nghĩa vụ của người quản lý Công ty. Việc bãi
miễn tư cách thành viên HĐQT đối với ông Zhu Zhi L, ông Cheung Yip S, ông
Youn Kwon S1 và bãi miễn tư cách 2 thành viên Ban Kiểm soát đối với ông Gao
Z, bà Cao Lệ T3 tại phiên họp không có căn cứ, không đúng quy định của Luật
Doanh nghiệp.
Vì vậy, ông Zhu Zhi L đề nghị Tòa án hủy bỏ Nghị quyết ĐHĐCĐ bất
thường của Công ty Đ ngày 22/4/2023, đồng thời đề nghị Tòa án hủy bỏ Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty Đ đã thay đổi lần thứ 19 ngày
12/5/2023 do Phòng Đăng ký và Kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố
H cấp; Hủy bỏ con dấu pháp nhân thứ hai mới được khắc thêm theo Nghị quyết
số 2604/2023/NQ-HĐQT ngày 12/5/2023; Buộc Công ty Đ1 phải trả cho Công ty
Đ số tiền 20 tỷ đồng gốc và 6,6 tỷ đồng tiền lãi theo Hợp đồng vay tiền số 12/HĐ-
KĐT ngày 09/5/2018 giữa Công ty Đ và Công ty Đ1; Buộc ông Huang Hong J,
bà Nguyễn Thanh T6, ông Giang Nhược T4, ông Yang Xiao D và bà Phạm Quế
L2 phải liên đới trách nhiệm bồi thường cho Công ty Đ số tiền 26,6 tỷ đồng; Buộc
bà Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong J và ông Nguyên Văn T7 phải bồi thường
cho Công ty Đ giá trị 02 chiếc khóa đã phá của Công ty là 3 triệu đồng; Buộc bà
Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong J và ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho
ông Z1 Zhi Lin 60 triệu đồng.
Ngày 27/6/2023, ông Zhu Zhi L có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện,
theo đó, ông Z1 Zhi Lin chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết 03 yêu cầu: Hủy bỏ Nghị
quyết ĐHĐCĐ bất thường của Công ty Đ ngày 22/4/2023; Hủy bỏ Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty Đ đã thay đổi lần thứ 19 ngày 12/5/2023
do Phòng Đăng ký và Kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H cấp; Hủy
bỏ con dấu pháp nhân thứ hai mới được khắc thêm theo Nghị quyết số
2604/2023/NQ-HĐQT ngày 12/5/2023.
Bị đơn trình bày: Giữa năm 2022, cổ đông lớn của Công ty Đ phát hiện
ông Zhu Zhi L (Thành viên HĐQT, giám đốc Công ty) đã có các vi phạm nghiêm
4
trọng việc quản trị Công ty, tham ô chiếm đoạt tài sản của Công ty nên nhóm cổ
đông lớn đã thực hiện quyền triệu tập ĐHĐCĐ bất thường để bãi nhiệm ông Zhu
Zhi L. Trong quá trình triệu tập, nhóm cổ đông chiếm 60% cổ phần Công ty Đ đã
thu thập bằng chứng chứng minh vi phạm của ông Zhu Zhi L cung cấp cho ủy ban
C, Trung tâm L3 để xin phép tổ chức họp ĐHĐCĐ bất thường và được chấp nhận
cho phép đại hội vào ngày 22/4/2023.
Ngày 22/4/2023, Công ty Đ đã tổ chức họp ĐHĐCĐ với sự tham dự của cổ
đông đại diện cho 51% cổ phần phổ thông có quyền biểu quyết. Đại hội đã họp
và bỏ phiếu bãi nhiệm tư cách thành viên HĐQT của ông Zhu Zhi L và một số
thành viên khác, bầu bổ sung thành viên HĐQT mới. Ngày 26/4/2023 HĐQT tổ
chức họp và bãi nhiệm Chủ tịch HĐQT cũ - ông Y, Giám đốc cũ - Zhu Zhi L và
bầu Chủ tịch HĐQT mới - bà Nguyên Thanh T8 và Giám đốc mới - ông Huang
Hong J.
Công ty Đ không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Zhu Zhi L
bởi trình tự thủ tục triệu tập ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 và trình tự đại
hội đều được tuân thủ đúng quy định của pháp luật và Điều lệ của Công ty. Việc
triệu tập ĐHĐCĐ đã được Công ty triệu tập công khai, minh bạch, các giấy ủy
quyền của cổ đông ủy quyền tham dự họp được lập hợp pháp. Nội dung các Nghị
quyết được thông qua tuân thủ quy định pháp luật, điều lệ Công ty.
Sau cuộc họp ĐHĐCĐ, cuộc họp HĐQT và các cuộc họp liên quan, Công
ty đã tiến hành thủ tục thay đổi Giấy phép kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền.
Ngày 12/5/2023 Phòng Đăng ký Kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố
H đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19 cho Công ty
Đ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty TNHH Đ1 trình bày:
Công ty Đ1 là cổ đông lớn của Công ty Đ và có quyền đại diện cho Công ty Đ để
triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường. Cơ sở để Công ty Đ1 yêu cầu triệu tập họp
ĐHĐCĐ bất thường là do ông Z1 Zhi Lin lợi dụng chức vụ rút tiền của Công ty
sử dụng vào mục đích cá nhân, không trung thành với lợi ích cổ đông, lợi ích
Công ty, vi phạm nghĩa vụ của người quản lý Công ty. Ông Zhu Zhi L có hành vi
cản trở Công ty Đ1 thực hiện quyền cung cấp thông tin, tài liệu, vi phạm nghiêm
trọng quyền của cổ đông. Ngoài ra, ông này còn triệu tập họp HĐQT bất thường
và bãi nhiệm trái pháp luật chức danh Chủ tịch HĐQT của bà Nguyễn Thanh T6
ngày 14/9/2022 là vi phạm nghĩa vụ của thành viên HĐQT.
Công ty Đ1 không đồng ý đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Zhu
Zhi L bởi việc triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 do Việt T6 triệu
tập đã bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật, đúng điều lệ Công
ty mặc dù ông Zhu Zhi L luôn tìm cách cản trở công bố thông tin. Các giấy ủy
quyền của cổ đông ủy quyền tham dự họp ĐHĐCĐ được lập hợp pháp, hợp lệ.
Nội dung các Nghị quyết ĐHĐCĐ được thông qua tuân thủ quy định pháp luật,
Điều lệ Công ty. Do đó, các Nghị quyết ĐHĐCĐ, Nghị quyết HĐQT, việc cấp
5
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần 19 của Công ty Đ đều đúng
quy định.
Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H trình
bày: Theo quy định tại Nghị định 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính
phủ về đăng ký doanh nghiệp quy định “Cơ quan đăng ký kinh doanh chịu trách
nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, không chịu trách nhiệm về
những vi phạm pháp luật của doanh nghiệp xảy ra trước và sau khi đăng ký doanh
nghiệp... Hồ sơ hợp lệ là hồ sơ có đầy đủ giấy tờ theo quy định của Luật này và
nội dung các giấy tờ có được kê khai đầy đủ theo quy định của pháp luật”. Trên
cơ sở Luật Doanh nghiệp; Điều 4, Điều 50 Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính
phủ về đăng ký doanh nghiệp, Phòng Đăng ký kinh doanh đã cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19 ngày 12/5/2023 cho Công ty Đ.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 44/2023/KDTM-ST ngày 23
tháng 11 năm 2023, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 30, khoản 1 Điều 31, Điều 35, Điều 244 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 3 Điều 115, Điều 140, Điều 141, Điều 142,
Điều 143, Điều 144 và Điều 145 Luật Doanh nghiệp năm 2020; Nghị quyết số
326/2016/UBNVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Xử:
1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Zhu Zhi L về việc: Buộc
Công ty Đ1 phải trả cho Công ty Đ số tiền 20 tỷ đồng tiền gốc và 6,6 tỷ đồng tiền
lãi theo Hợp đồng vay tiền số 12/HĐ-KĐT ngày 09/5/2018 giữa Công ty Đ và
Công ty Đ1; Buộc ông Huang Hong J, bà Nguyễn Thanh T6, ông Giang Nhược
T4, ông Yang Xiao D và bà Phạm Quế L2 phải liên đới trách nhiệm bồi thường
cho Công ty Đ số tiền 26,6 tỷ đồng; Buộc bà Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong
J và ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho Công ty Đ giá trị 02 chiếc khóa đã
phá của Công ty là 3 triệu đồng; Buộc bà Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong J
và ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho ông Z1 Zhi Lin 60 triệu đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Zhu Zhi L về việc yêu cầu
hủy Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 của Công ty Đ và Hủy giấy
chứng doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19 của Công ty Đ.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/11/2023, nguyên đơn là ông Zhu Zhi L
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội
dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hủy Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường
ngày 22/4/2023 của Công ty Đ và Hủy giấy chứng doanh nghiệp thay đổi lần thứ
19 của Công ty Đ; bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều đề nghị
HĐXX bác kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm;
6
các đương sự giữ nguyên quan điểm đã trình bày và không thống nhất được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm
về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Z1 Zhi Lin trong hạn luật định và hợp
lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Hội đồng xét xử và Thư ký phiên
tòa tuân theo pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện trình tự thủ tục triệu tập
mời họp ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 của Công ty Đ1 là chưa đảm bảo
theo quy định tại Điều 140, Điều 141, Điều 143 của Luật Doanh nghiệp; giấy ủy
quyền của một số cổ đông cho Công ty Đ1 chưa đảm bảo theo quy định của pháp
luật. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng
hủy Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 của Công ty Đ; Hủy giấy
chứng doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19 của Công ty Đ; Hủy con dấu pháp nhân
thứ hai mới được khắc thêm theo Nghị quyết số 2604/2023/NQ-HĐQT ngày
12/5/2023 của Hội đồng quản trị Công ty Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự về việc giải quyết
vụ án, Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Công ty Đ được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp do Phòng Đăng ký Kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H cấp
lần đầu ngày 10/8/2007, mã số doanh nghiệp: 0102349865, được xác định là pháp
nhân Việt Nam. Ngày 26/4/2023 ông Zhu Zhi L (quốc tịch Trung Quốc) là cổ
đông nắm giữ 4.700.000 cổ phần phổ thông của Công ty Đ, đồng thời là thành
viên HĐQT và giám đốc Công ty khởi kiện đề nghị Tòa án hủy bỏ Nghị quyết
ĐHĐCĐ của Công ty Đ. Ngày 19/5/2023 ông Zhu Zhi L tiếp tục nộp đơn sửa đổi
bổ sung yêu cầu khởi kiện, theo đó ông Z1 Zhi Lin yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết
ĐHĐCĐ của Công ty Đ; Hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi
lần thứ 19 của Công ty Đ; Hủy bỏ con dấu pháp nhân thứ hai của Công ty Đ và
yêu cầu một số thành viên HĐQT mới hiện là cổ đông của Công ty Đ phải trả
Công ty Đ số tiền nợ gốc và lãi theo Hợp đồng vay nợ giữa Công ty Đ và cổ đông
của Công ty; Buộc một số cổ đông của Công ty Đ phải bồi thường tài sản cho
Công ty Đ và cho cá nhân ông Zhu Z2 Lin tiền do làm hư hỏng tài sản của Công
ty và làm mất tiền của cá nhân ông tại nơi làm việc. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền, đảm
7
bảo về điều kiện khởi kiện theo quy định tại khoản 3 Điều 30, khoản 1 Điều 31,
khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 3 Điều 38, điểm a khoản
1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình tham gia tố tụng, ngày 27/6/2023, ông Zhu Zhi L có đơn rút một
phần yêu cầu khởi kiện về việc: Buộc Công ty Đ1 phải trả cho Công ty Đ số tiền
20 tỷ đồng gốc và 6,6 tỷ đồng tiền lãi theo Hợp đồng vay tiền số 12/HĐ-KĐT
ngày 09/5/2018 giữa Công ty Đ và Công ty Đ1; Buộc ông Huang Hong J, bà
Nguyễn Thanh T6, ông Giang Nhược T4, ông Yang Xiao D và bà Phạm Quế L2
phải liên đới trách nhiệm bồi thường cho Công ty Đ số tiền 26,6 tỷ đồng; Buộc bà
Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong J và ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho
Công ty Đ giá trị 02 chiếc khóa đã phá của Công ty là 03 triệu đồng; Buộc bà
Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong J và ông Nguyên Văn T7 phải bồi thường
cho ông Z1 Zhi Lin 60 triệu đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải
quyết đối với yêu cầu khởi kiện do ông Zhu Zhi L đã rút và chỉ xem xét giải quyết
03 yêu cầu khởi kiện còn lại là: Hủy bỏ Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường của Công
ty Đ ngày 22/4/2023; Hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công
ty Đ đã thay đổi lần thứ 19 ngày 12/5/2023 do Phòng Đăng ký và Kinh doanh -
Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H cấp; Hủy bỏ con dấu pháp nhân thứ hai của
Công ty Đ là đúng quy định pháp luật.
[1.2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Phòng Đăng ký Kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H vắng mặt nhưng
không có kháng cáo và đã được triệu tập hợp lệ 02 lần nên căn cứ quy định tại
Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX quyết định tiếp tục xét xử.
[2]. Xét kháng cáo của nguyên đơn, HĐXX thấy:
[2.1]. Công ty Đ1 là một trong những cổ đông lớn của Công ty Đ, tính đến
ngày 19/6/2023 Công ty Đ1 sở hữu 2.800.000 cổ phần phổ thông, tương đương
14,84% tổng số cổ phần phổ thông của Công ty Đ. Theo đại diện Công ty Đ1, quá
trình quản lý, điều hành hoạt động của Công ty Đ với tư cách là giám đốc Công
ty, ông Zhu Zhi L đã nhiều lần thực hiện hành vi rút tiền của Công ty dưới hình
thức tạm ứng, tính đến tháng 4/2023, ông Zhu Zhi L đã chiếm giữ tiền của Công
ty Đ dưới hình thức trên là 5.157.509.847 đồng đến nay chưa trả Công ty thể hiện
ở Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ cho kỳ hoạt động từ ngày 01/01/2023
đến ngày 30/6/2023 của Công ty Đ được soát xét bởi Công ty TNHH K ngày
29/8/2023. Cổ đông Công ty Đ1 cho rằng hành vi này đã vi phạm nguyên tắc kế
toán do đó vi phạm trách nhiệm của người quản lý Công ty theo quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 165 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Khi được cổ đông lớn Việt Tú
yêu cầu cung cấp thông tin tài chính, ông Zhu Zhi L không cung cấp, vi phạm
nghiêm trọng quyền của cổ đông. Do đó, ngày 09/8/2022, Công ty Đ1 đã có Văn
bản số 0908/2022/CV-VT gửi HĐQT Công ty Đ đề nghị tiến hành họp ĐHĐCĐ
bất thường nhưng hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày yêu cầu, HĐQT Công ty Đ
không triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường. Ngày 26/8/2022, Công ty Đ1 có Văn
8
bản số 2608/2022/CT-VT gửi Ban kiểm soát Công ty Đ yêu cầu Ban kiểm soát
Công ty Đ triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường. Hết thời hạn 30 ngày tiếp theo kể từ
ngày HĐQT Công ty Đ không tiến hành triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường, Ban
kiểm soát Công ty Đ cũng không tiến hành triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường. Vì
vậy, Công ty Đ1 đứng ra đại diện Công ty Đ, triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường là
phù hợp quy định tại Điều 140; khoản 3 Điều 115 Luật Doanh nghiệp; điểm a
khoản 3 Điều 12 Điều lệ Công ty Đ. Ngày 27/2/2023, Công ty Đ1 đã gửi Thông
báo về việc mình có quyền đại diện Công ty triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường
cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở G, Trung tâm lưu ký chứng khoán và ông
Zhu Zhi L.
Ngày 24/3/2023, Công ty Đ1 đại diện Công ty Đ triệu tập họp theo danh
sách cổ đông của Công ty Đ theo danh sách cổ đông được Trung tâm lưu ký chứng
khoán cung cấp bao gồm thư mời và tài liệu kèm theo (gồm dự thảo chương trình
họp, dự thảo quy chế làm việc, quy chế bầu thành viên HĐQT, ban kiểm soát, dự
thảo biên bản họp, nghị quyết, dự thảo tờ trình, nội dung cuộc họp, mẫu phiếu
biểu quyết, mẫu phiếu bầu cử, mẫu đơn đề cử/ứng cử thành viên HĐQT, thành
viên Ban kiểm soát, mẫu giấy ủy quyền...) cho toàn bộ cổ đông có quyền dự họp
qua hình thức chuyển phát nhanh (danh sách cổ đông chốt ngày 22/3/2023). Ngoài
ra, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam cũng đã đăng thông báo lập danh
sách cổ đông họp ĐHĐCĐ bất thường năm 2023 trên website của Trung tâm; Sở
G cũng đã thông báo này trên website chính thức của Sở.
[2.2]. Nguyên đơn cho rằng tại đại hội có 33 cổ đông vắng mặt ủy quyền
cho bà Nguyễn Thanh T6 tham dự, biểu quyết là không hợp pháp bởi các giấy ủy
quyền này không được công chứng chứng thực chữ ký, có một số cổ đông là người
nước ngoài nhưng chữ ký của họ chưa được hợp thức hóa lãnh sự nên bà T6 không
đủ tư cách để tham gia dự họp, phát biểu, biểu quyết tại cuộc họp thay 33 cổ đông
này, HĐXX thấy:
Tại Danh sách người đăng ký dự họp ĐHĐCĐ bất thường năm 2023 của
Công ty Đ lập ngày 22/4/2023 (BL 1533 - 1544) thể hiện, bà Nguyễn Thanh T6
chỉ nhận ủy quyền của 30 cổ đông (bao gồm cả các cổ đông nước ngoài) (BL 1466
– BL 1532), tính cả cổ đông Nguyễn Thanh T6 mới là 31 người. Các cổ đông ủy
quyền cho bà Nguyễn Thanh T6 đều bằng văn bản nhưng không được công chứng,
chứng thực, một số giấy ủy quyền của cổ đông nước ngoài cho bà Nguyễn Thanh
T6 chưa được hợp thức hóa lãnh sự.
Theo quy định của pháp luật dân sự và Luật doanh nghiệp thì việc ủy quyền
tham gia họp ĐHĐCĐ và biểu quyết không bắt buộc phải có công chứng, chứng
thực; Theo quy định tại Khoản 4 Điều 9 Nghị định 111/2011/NĐ-CP ngày
05/12/2011 về chứng thực lãnh sự, hợp thức hóa lãnh sự thì: giấy tờ, tài liệu được
miễn hợp thức hóa lãnh sự trong trường hợp cơ quan tiếp nhận của Việt Nam
không yêu cầu phải hợp thức hóa lãnh sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Công
ty Đ là người tiếp nhận các văn bản ủy quyền, các cổ đông của Công ty Đ mà cụ
9
thể là ông Zhu Zhi L (người đại diện theo pháp luật của Công ty vào thời điểm
tiếp nhận) có nghi ngờ về giá trị pháp lý của các văn bản ủy quyền nên các văn
bản ủy quyền cần phải được chứng thực, được hợp pháp hóa lãnh sự hoặc phải
đươc chứng minh chứng minh để xác định đúng là các cổ đông có quyền của Công
ty Đ đã ký vào văn bản ủy quyền và nội dung ủy quyền thể hiện đúng ý chí, nguyện
vọng của họ. Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện, nguyên đơn đã nhiều lần có đơn
kiến nghị, nghi ngờ các chữ ký ủy quyền có dấu hiệu giả mạo, nhưng Công ty Đ1
là người triệu tập, tổ chức ĐHĐCĐ không đưa ra được các căn cứ để xác thực đối
với việc ủy quyền của 30 cổ đông đã ủy quyền cho bà Nguyễn Thanh T6 tham dự
ĐHĐCĐ. Hơn nữa, trong số các giấy ủy quyền của cổ đông là người nước ngoài
có bản là song ngữ, nhưng có bản lại chỉ là tiếng Việt như Giấy ủy quyền của cổ
đông Hao D1 (quốc tịch Trung Quốc) giữ 85.000 cổ phần (BL 1518), cổ đông W
quốc tịch Trung Quốc giữ 274.000 cổ phần (BL 1483). Trong thư mời họp
ĐHĐCĐ thì Việt Tú gửi giấy mời kèm theo giấy ủy quyền theo mẫu của Việt T5
và các cổ đông chỉ cần điền thông tin ủy quyền vào. Tuy nhiên, tại 30 giấy ủy
quyền này thì đa số các bản đã được in sẵn nội dung thông tin của người ủy quyền,
chỉ có ít bản thì người ủy quyền tự tay viết và điền thông tin vào. Như vậy, việc
các cổ đông nước ngoài ký giấy ủy quyền bằng tiếng Việt vào thời gian nào, ký
tại đâu, khi ký có hiểu và thể hiện đúng ý chí của họ hay không. Tại phiên tòa
phúc thẩm, HĐXX đã yêu cầu các bên đương sự cung cấp chứng cứ chứng minh
việc ủy quyền cho bà Nguyễn Thanh T6 tham dự họp ĐHĐCĐ là hợp pháp, nhưng
các bên đương sự đều không cung cấp được chứng cứ chứng minh các chữ ký tại
30 giấy ủy quyền trên đúng là chữ ký của các cổ đông Công ty Đ và thể hiện đúng
ý chí của họ trong giấy ủy quyền. Như vậy, có thể thấy, 30 giấy ủy quyền Công
ty Đ1 cung cấp cho Tòa án là không hợp pháp, không có giá trị chứng minh việc
các cổ đông thực sự ủy quyền cho bà Nguyễn Thanh T6 tham dự họp ĐHĐCĐ
bất thường ngày 22/4/2023.
[2.3]. Mặt khác, trên cơ sở tài liệu của Công ty Đ1 cung cấp, Công ty Đ1
tiến hành triệu tập các cổ đông thông qua hình thức chuyển phát bưu chính có đảm
bảo, có tài liệu kèm theo, nhưng theo Danh sách vận đơn không phát được (BL
1252 – BL 1277) thì có 322 cổ đông được tống đạt không hợp lệ, bao gồm cả lý
do chủ quan và lý do khách quan như: Địa chỉ sai, không tìm thấy địa chỉ, người
nhận không muốn nhận, lý do khác...
Theo quy định tại khoản 2 Điều 143 Luật doanh nghiệp thì: “Thông báo
mời họp được gửi bằng phương thức để bảo đảm đến được địa chỉ liên lạc của cổ
đông và đăng trên trang thông tin điện tử của Công ty; trường hợp công ty xét
thấy cần thiết thì đăng báo hằng ngày của trung ương hoặc địa phương theo quy
định của Điều lệ Công ty”.
Khoản 4 Điều 143 Luật doanh nghiệp quy định: “Trường hợp Công ty có
trang thông tin điện tử, việc gửi tài liệu họp kèm theo thông báo mời họp quy định
tại khoản 3 Điều này có thể thay thế bằng việc đăng tải lên trang thông tin điện
tử của Công ty. Trường hợp này, thông báo mời họp phải ghi rõ nơi, cách thức
10
tải tài liệu”.
Như vậy, mặc dù lý do không công bố thông tin triệu tập họp ĐHĐCĐ bất
thường trên trang thông tin điện tử chính thức của Công ty Đ là khách quan nhưng
với việc lựa chọn hình thức bưu chính có đảm bảo thì Công ty Đ1 phải đảm bảo
tất cả các cổ đông nhận được triệu tập và biết về thông tin họp ĐHĐCĐ bất thường
để họ thực hiện các quyền của cổ đông tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Đối chiếu với quy
định tại khoản 2 Điều 143 Luật Doanh nghiệp, HĐXX thấy quy trình triệu tập họp
ĐHĐCĐ bất thường của Công ty Đ1 là trái quy định tại Điều 143 Luật Doanh
nghiệp, theo tài liệu do chính Công ty Đ1 cung cấp thì có đến 322 cổ đông của
Công ty không nhận được Thông báo triệu tập họp ĐHĐCĐ vào ngày 22/4/2023.
Nên mặc dù có 36 cổ đông dự họp (trực tiếp và thông qua đại diện theo ủy quyền),
đại diện cho 9.657.720 cổ phần, tương ứng 51,18% tổng số cổ phần có quyền biểu
quyết của Công ty Đ nhưng do nhiều cổ đông chưa được triệu tập hợp lệ nên
ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 của Công ty Đ tiến hành không hợp pháp.
[2.4]. Một nội dung khác cần xem xét tới là bà Nguyễn Thanh T6 và Công
ty Đ1 đều là đại cổ đông của Công ty Đ với tổng số cổ phần sở hữu là 4.291.700
cổ phần, chiếm 22,75% vốn Điều lệ của Công ty Đ. Tuy nhiên, ngoài việc là đại
cổ đông của Công ty Đ, Công ty Đ1 còn vay nợ của Công ty Đ 26 tỷ đồng (cả gốc
và lãi) theo Hợp đồng cho vay tiền số 12/HĐ KĐT ký ngày 09/5/2018 và đã được
Công ty Đ gia hạn nhiều lần. Trước thời điểm diễn ra cuộc họp ĐHĐCĐ bất
thường thì Công ty Đ1 đang vi phạm nghĩa vụ thanh toán khoản nợ này cho Công
ty Đ. Công ty Đ đã khởi kiện Công ty Đ1 đến Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội. Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy đã thụ lý giải quyết vụ án này
theo thông báo thụ lý vụ án số 578/2022/TB-TLVA ngày 01/8/2022 và ra Quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 07/2022/QĐ-BPKCTT ngày
29/9/2022, phong tỏa tài sản là 2.800.000 cổ phần của Công ty Đ1 tại Công ty Đ.
Sau khi thay đổi thành viên HĐQT và Tổng Giám đốc theo Nghị quyết ĐHĐCĐ
ngày 22/4/2023 thì bà Nguyễn Thanh T6 (Chủ tịch HĐQT mới) đã đại diện Công
ty Đ ký đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty Đ đối với Công ty Đ1; đến
ngày 25/5/2023, HĐQT mới đã tiến hành họp, thông qua và ký phụ lục gia hạn 20
năm đối với khoản vay của Việt Tú đến tận ngày 02/6/2043. Như vậy, Cuộc họp
ĐHĐCĐ bất thường của Công ty Đ diễn ra trong bối cảnh HĐQT của Công ty Đ
và Công ty Đ1 đang có tranh chấp, xung đột về lợi ích. Vì vậy việc Công ty Đ1
và bà Nguyễn Thanh T6 nhân danh cổ đông lớn của Công ty Đ đứng ra tổ chức
cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường của Công ty Đ là không đảm bảo tính khách quan,
gây bất lợi, thiệt hại cho Công ty Đ và các cổ đông của Công ty Đ.
[2.5]. Xét thấy cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 của Công ty
Đ chưa đảm bảo đúng quy định về trình tự triệu tập đại hội thuộc trường hợp phải
hủy bỏ Nghị quyết ĐHĐCĐ theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Luật Doanh
nghiệp nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy Nghị quyết
ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023.
11
Căn cứ vào Nghị quyết cuộc họp ĐHĐCĐ nêu trên, Công ty Đ đã tiến hành
làm các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp để thay đổi người đại diện theo
pháp luật từ ông Zhu Z2 Lin sang ông Huang Hong J và đã được Phòng Đăng ký
Kinh doanh - Sở Kế hoạch Đầu tư thành phố H cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19. Mặc dù việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19 cho Công ty Đ đã được Phòng Đăng ký Kinh
doanh - Sở Kế hoạch Đầu tư thành phố H thực hiện theo đúng quy trình, phù với
quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều 4, Điều 50 Nghị định 01/2021/NĐ-CP
của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, nhưng với vi phạm trong việc ra Nghị
quyết ĐHĐCĐ bất thường ngày 22/4/2023 của Công ty Đ nên cần thiết phải hủy
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19 của Công ty Đ và hủy
bỏ con dấu thứ hai của Công ty Đ.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Zhu Zhi L không
phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định pháp luật.
HĐXX sẽ xác định lại án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn là ông Zhu Zhi L; Sửa một
phần Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 44/2023/KDTM-ST ngày 23
tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, cụ thể:
Căn cứ khoản 3 Điều 30, khoản 1 Điều 31, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản
1 Điều 37, điểm a khoản 3 Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015; Căn cứ Điều 115, Điều 138, Điều 139, Điều 140, Điều 141, Điều
142, Điều 143, Điều 144, Điều 145, Điều 151, Điều 152 Luật Doanh nghiệp năm
2020; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội. Xử:
1.1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Zhu Zhi L về việc: Buộc
Công ty TNHH Đ1 phải trả cho Công ty cổ phần Đ đô thị số tiền 20 tỷ đồng tiền
gốc và 6,6 tỷ đồng tiền lãi theo Hợp đồng vay tiền số 12/HĐ-KĐT ngày 09/5/2018
giữa Công ty cổ phần Đ và Công ty TNHH Đ1; Buộc ông Huang Hong J, bà
Nguyễn Thanh T6, ông Giang Nhược T4, ông Yang Xiao D và bà Phạm Quế L2
phải liên đới trách nhiệm bồi thường cho Công ty cổ phần Đ đô thị số tiền 26,6 tỷ
đồng; Buộc bà Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong J và ông Nguyễn Văn T phải
bồi thường cho Công ty cổ phần Đ 02 chiếc khóa đã phá của Công ty cổ phần Đ
đô thị là 03 triệu đồng; Buộc bà Nguyễn Thanh T6, ông Huang Hong J và ông
Nguyễn Văn T phải bồi thường cho ông Z1 Zhi Lin 60 triệu đồng.
12
1.2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Zhu Zhi L:
- Hủy Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 22/4/2023 của
Công ty cổ phần Đ.
- Hủy Giấy chứng doanh nghiệp thay đổi lần thứ 19 của Công ty cổ phần
Đ.
- Hủy con dấu pháp nhân thứ hai của Công ty cổ phần Đ mới được khắc
thêm theo Nghị quyết số 2604/2023/NQ-HĐQT ngày 12/5/2023 của Hội đồng
quản trị Công ty cổ phần Đ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
2. Án phí:
2.1. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Ông Zhu Zhi L không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Trả
lại cho ông Zhu Z2 Lin 300.000đ và 67.632.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm theo
các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 01696 ngày 22/5/2023 và số 01716 ngày
01/6/2023 của Cục Thi hành án Dân sự thành phố Hà Nội.
Công ty cổ phần Đ phải chịu 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm.
2.2. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Ông Zhu Zhi L không phải
chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm; trả lại cho ông Z1 Zhi Lin số tiền
2.000.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0022844 ngày 06/11/2023 tại Cục Thi hành án dân sự thành
phố Hà Nội.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND thành phố Hà Nội;
- VKSND thành phố Hà Nội;
- Cục THADS thành phố Hà Nội;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS
,
phòng HCTP.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Phạm Văn Tuyển
Tải về
Bản án số 18/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 18/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm