Bản án số 68/2024/KDTM-PT ngày 06/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 68/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 68/2024/KDTM-PT ngày 06/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 68/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/09/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 68/2024/KDTM-PT
Ngày 06 - 9 - 2024
V/v “Tranh chấp giữa thành viên
công ty với công ty”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thm phán:
Ông Nguyn Văn Tửu
Bà Hunh Thanh Duyên
Bà Lê ThTuyết Trinh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Phương- Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Thanh Hoa - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 06 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ
số: 51/2024/TLPT- KDTM ngày 29 tháng 7 năm 2024 về việc Tranh chấp
giữa thành viên công ty với công ty”, do Bản án kinh doanh thương mại thẩm
số: 24/2024/KDTM-ST ngày 27 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2811/2024/QĐ-PT ngày
25 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Đỗ Thị Hoàng O, sinh năm 1960; Địa chỉ: C, D33, T,
V, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương (có mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Văn D, sinh năm
1953; Đa ch: 2 N, phưng A, qun B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần T3; Địa chỉ: I N, phường T, Quận G, Thành
phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm
1976; Đa ch: SE khu phN, phưng D, thành phD, tnh Bình Dương (có
mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Phi Nhật H, sinh năm
1987; Địa ch: 13 khu nhà ở thấp tầng (phân khu B), T2, ấp D, P, huyện N,
Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Đỗ Thị Hoàng O.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 6 năm 2022 trong quá trình
giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:
Ngày 20 tháng 5 năm 2018, nguyên đơn đăng khóa học 02 ngày 16
17 tháng 6 năm 2018 làm chủ bất động sản cho thuê(khóa K65) của ông
Phi Nhật H với giá 19.998.000 đồng tại Công ty TNHH Đ. Ông Phi Nhật H
đã gợi ý cho nguyên đơn và những người học khác tham gia nhóm cổ đông Thiên
Thần của Công ty Cổ phần T3 (sau đây gọi tắt là: Công ty T3), nhận góp vốn đầu
tư = 100.000.000 đồng/suất, có ưu đãi chuyển khoản trong 02 ngày được hoàn lại
1.000.000 đồng. Ông H cam kết nếu đầu vào Công ty T3, lợi nhuận sẽ tăng
16.7 lần sau 03 năm. Ngày 16 tháng 6 năm 2018, nguyên đơn đã chuyển 1.000.000
đồng vào tài khoản V của ông Phi Nhật H để đặt cọc. Ngày 18 tháng 6 năm
2018, nguyên đơn đã đóng tiền cho đại diện Công ty T3 Phó Giám đốc Nguyễn
Thị Mưa T1 99.000.000 đồng (đóng tiền mặt ghi phiếu thu) để mua 01 suất đầu
tư. Ngày 18 tháng 7 năm 2018, sau khi giao sổ chứng nhận cổ phần cho nguyên
đơn, bà Nguyễn Thị Mưa T1 đã thu lại biên lai nhận tiền.
Cùng ngày 18 tháng 7 năm 2018, nguyên đơn nhận được Hợp đồng tặng
cho cổ phần đề ngày 18 tháng 6 năm 2018, theo đó ông Võ Phi Nhật H tặng cho
nguyên đơn 10.000 cổ phần của ông H tại Công ty Cổ phần Đ (sau đây gọi tắt là:
Công ty Đ), xác nhận của Công ty Đ sổ chứng nhận sở hữu cổ phần của
Công ty T3 ghi nhận ngày 18 tháng 6 năm 2018 nguyên đơn sở hữu 10.000 cổ
phần của Công ty T3.
Ngày 14 tháng 7 năm 2021, sau 03 m đầu góp vốn vào Công ty T3,
nguyên đơn đã liên hệ Công ty yêu cầu phân chia lợi nhuận, cổ tức… Tuy nhiên,
nguyên đơn được Công ty T4 số tiền góp vốn của nguyên đơn đầu tư đã được sử
dụng cho chi phí tiếp khách, thuê mặt bằng, thuê chuyên gia… không còn số
tiền này. Lúc này nguyên đơn mới phát hiện ra sự gian lận, sổ chứng nhận sở hữu
cổ phần sổ khống… được Công ty T3 biến hóa, phù phép để phát hành khống
với dấu mộc giáp lai của Công ty nhằm mục đích tạo niềm tin thu tiền huy
động vốn của nguyên đơn. Công ty T3 giải quyết nội bộ bằng cách đưa ra Đơn hỗ
trợ chuyển nhượng cổ phần và Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, đề nghị các cổ
đông chuyển sang đồng coin của Công ty T3. Nhận thấy nhiều người đã bị mất
tiền vì việc chuyển đổi này nên nguyên đơn không tham gia và cũng không muốn
người tiếp tay bán cổ phần khống cho người bị hại khác. Sau đó, nguyên đơn
đã ủy quyền luật đến làm việc với Công ty T3 để thu hồi tiền góp vốn lãi.
Sau nhiều lần hẹn gặp, luật của nguyên đơn cũng làm việc được với đại diện
Công ty T3 Công ty đã đồng ý thanh toán 300.000.000 đồng cho nguyên đơn
nhưng cho đến nay Công ty không thực hiện, như vậy xem như chưa đạt thỏa
thuận. Từ ngày 18 tháng 6 năm 2018 cho đến nay, Công ty T3 đã không minh
bạch tài chính nguyên đơn cũng không nhận được cổ tức từ 10.000 cổ phần
trên mặc dù giá trị Công ty T3 báo cáo tăng (tăng về vốn cũng như dự án). Công
ty T3 đã không làm đúng pháp luật và không đúng cam kết với cổ đông. Nguyên
đơn cho rằng Công ty T3 đã có hành vi lừa đảo, gian lận, cho tặng cổ phần khống
3
để chiếm đoạt số tiền 100.000.000 đồng của nguyên đơn. Nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu Công ty T3 trả lại cho nguyên đơn số tiền 100.000.000 đồng tiền lãi
04 năm được tính 200.000.000 đồng. Tổng số tiền yêu cầu 300.000.000 đồng.
Quá trình Tòa án giải quyết, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, căn cứ
điểm b, d, e khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy
định về quyền lợi của cổ đông phổ thông, nguyên đơn yêu cầu Công ty T3 hoàn
lại cho nguyên đơn giá trị của 10.000 cổ phần thời điểm hiện tại 25.000
đồng/01 cổ phần, tương đương 250.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền, nguyên
đơn sẽ hoàn trả cho Công ty T3 số cổ phần và hợp đồng cổ đông.
Bị đơn Công ty T3 ông Nguyễn Ngọc T người đại diện theo ủy quyền
trình bày: Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ
vào thỏa thuận Chương trình Kết Nghĩa Thiên Thần ngày 18 tháng 6 năm 2018
giữa nguyên đơn Công ty T3 thì nguyên đơn đồng ý tham gia chương trình với
chi phí 100.000.000 đồng trong thời gian 03 năm từ ngày 18 tháng 6 năm 2018
đến ngày 18 tháng 6 năm 2021 được hưởng các quyền lợi tại mục I cũng như
nghĩa vụ như quy định tại mục II của Chương trình. Theo đó, nguyên đơn đã
được tặng 10.000 cổ phần của Công ty Đ như mục I.5 được tặng 10.000 cổ phiếu
của Công ty cổ phần Đ - công ty cổ phần của Công ty Cổ phần T3 và sẽ được
chuyển đổi thành cổ phiếu của Big Group trước khi Big G niêm yết lên sàn chứng
khoán (IPO). Theo quy định tại Điều 126 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì
nguyên đơn có quyền chuyển nhượng, giao dịch; Công ty T3 đứng ra hỗ trợ tìm
đối tác mua lại số cphần trên cho nguyên đơn. Ngày 24 tháng 7 năm 2021, Công
ty T3 đã thông báo về việc hỗ trợ giới thiệu chuyển nhượng số cổ phần của nguyên
đơn cho người khác nhưng nguyên đơn từ chối. Việc nguyên đơn yêu cầu Công
ty hoàn lại số tiền 100.000.000 đồng là không có cơ sở vì mục II.2 của hợp đồng
quy định mức phí thành viên của Hội Thiên Thần mức ưu đãi với những quyền
lợi đặc biệt giá trị nêu trên, nên sẽ không được hoàn lại.
Người quyền, nghĩa vụ liên quan ông Phi Nhật H đơn đnghị
vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Nguyên đơn yêu cầu bị đơn mua lại giá trị của 10.000 cổ phần thời điểm
hiện tại là 25.000 đồng/cổ phần, tương đương 250.000.000 đồng.
- Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn chỉ
hỗ trợ thủ tục cho nguyên đơn bán cổ phần cho bên thứ ba.
Tại Bản án kinh doanh thương mại thẩm số: 24/2024/KDTM-ST ngày
27 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết
định:
Áp dụng khoản 4 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 3 Điều
38, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
4
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án,
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Đỗ Thị Hoàng O về
việc yêu cầu Công ty T3 mua lại 10.000 (mười ngàn) cổ phần của Đỗ Thị
Hoàng O trong Công ty T3 với giá thời điểm hiện tại 25.000 (hai mươi lăm
ngàn) đồng/cổ phần, tương đương 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng.
Ngoài ra, án thẩm còn quyết định về án phí kinh doanh thương mại
thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
- Ngày 27 tháng 02 năm 2024, nguyên đơn Đỗ Thị Hoàng O có đơn kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với nội dung:
Không đồng ý đối với nhận định và quyết định của án sơ thẩm; Tòa án cấp
thẩm chưa khách quan khi đánh giá chứng cứ, không xem xét toàn diện trình
bày của các bên, nhận định và áp dụng pháp luật chủ quan, không đúng với tình
tiết của vụ án. thế, O kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án
thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà O, buộc Công ty T3 mua lại
10.000 cổ phần của O sở hữu tại Công ty T3 với tổng giá trị 300.000.000 đồng.
Thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Đỗ Thị Hoàng O cùng người đại diện theo ủy quyền là ông Lê Văn
D trình bày: Giữ nguyên lý do kháng cáo cũng như lời trình bày như nội dung án
sơ thẩm đã nêu trên. Công ty T3 đã vi phạm nghiêm trọng quyền lợi của cổ đông,
từ ngày 18 tháng 6 năm 2018 cho đến nay, Công ty T3 đã không minh bạch tài
chính nguyên đơn cũng không nhận được cổ tức từ 10.000 cổ phần trên mặc
giá trị Công ty T3 báo cáo tăng (tăng về vốn cũng như dự án). Công ty T3 đã
không làm đúng pháp luật không đúng cam kết với cổ đông, không mời họp
đại hội đồng cổ đông thường niên hàng năm nên căn cứ quy định tại Điều 132
Luật Doanh nghiệp năm 2020, O ông D yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét,
buộc Công ty T3 mua lại 10.000 cổ phần của bà O theo giá 25.000 đồng/cổ phần
(tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi yêu cầu trong đơn kháng cáo từ mức giá 30.000
đồng/cổ phần thành mức giá 25.000 đồng/cổ phần).
- Người đại diện theo ủy quyền của Công ty T3 - Ông Nguyễn Ngọc T
trình bày: Bảo lưu lời trình bày như nội dung án sơ thẩm đã nêu trên, đồng ý với
quyết định của bản án thẩm, không đồng ý đối với yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ đến
thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử những người tham
gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không vi
phạm.
5
- Về nội dung: Khi giải quyết, Tòa án cấp thẩm đã xem xét, đánh giá
toàn diện chứng cứ, quyết định của a án cấp thẩm căn cứ, đúng quy
định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, không căn cứ mới làm thay đổi nội
dung vụ án. Theo đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của O,
giữ nguyên Bản án thẩm số 24/2024/KDTM-ST ngày 27 tháng 02 năm 2024
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện tại hồ được thẩm tra tại phiên
tòa; trên sở xem xét toàn diện c chứng cứ; ý kiến trình bày của các đương
sự; căn cứ vào kết quả tranh tụng phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục:
[1] Tòa sơ thẩm xét xử và tuyên án ngày 27 tháng 02 năm 2024, cùng ngày
27 tháng 02 năm 2024, nguyên đơn có đơn kháng cáo, nên kháng cáo của nguyên
đơn hợp lệ, được xem xét tại cấp phúc thẩm theo Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa thẩm đã xác định đúng theo
quy định tại khoản 4 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 3 Điều 38
và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Phi Nhật H đơn đề
nghị vắng mặt trong quá trình tố tụng nên Tòa án xét xử vắng mặt ông H theo quy
định tại khoản 1 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung:
Đối với kháng cáo của nguyên đơn bà Đỗ Thị Hoàng O, xét:
[1] Quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòathẩm, nguyên đơn
thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể:
Nguyên đơn yêu cầu Công ty T3 hoàn lại cho nguyên đơn giá trị của 10.000
cổ phần thời điểm hiện tại 25.000 đồng/cổ phần, tương đương 250.000.000
đồng, nên kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét buộc
Công ty T3 mua lại 10.000 cổ phần của nguyên đơn (bà O) sở hữu tại Công ty T3
với tổng giá trị 300.000.000 đồng là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bà O và ông D (người đại diện theo ủy
quyền của bà O) thay đổi yêu cầu kháng cáo, chỉ yêu cầu mức giá 25.000 đồng/cổ
phần, là đúng với yêu cầu khởi kiện ban đầu, nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm
chấp nhận xem xét trong phạm vi 25.000 đồng/cổ phần của O nếu căn cứ
chấp nhận.
[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự, có cơ
sở xác định:
6
Ngày 18 tháng 6 năm 2018, nguyên đơn tham gia Chương trình Kết Nghĩa
Thiên Thầncủa Công ty T3, theo thỏa thuận tại Mục I Chương trình, nguyên đơn
có quyền:
1) Được tham gia vào cộng đồng 300 nhà đầu chất lượng, được chọn
lọc kỹ lưỡng những người thành công để cùng nhau hợp tác kinh doanh và đầu
bất động sản trên cả nước; 2) Được chia sẻ cơ hội đtrở thành nhà đầu tư đầu
tiên, tham gia vào các dự án Bất động sản do Big Group tổ chức; 3) Được tư vấn
trực tiếp 1-1 với Mr V - Chủ tịch HĐQT Big Group trong thời gian 03 năm kể từ
ngày đăng kết nối thân thiết như anh em kết nghĩa; 4) Được tham gia các
buổi offline, đại hội, họp mặt để giao lưu kết nối, học hỏi các kiến thức giá trị về
doanh nghiệp và đầu tư từ các chuyên gia trong và ngoài nước do Big G mời về;
5) Được tặng 10.000 cổ phiếu của Công ty Cổ Phần Đ - Công ty cổ đông của
Công ty Cổ phần T3 sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu của Big Group trước
khi Big G niêm yết lên sàn chứng khoán (IPO)”.
Đồng thời, tại Mục II của Chương trình Kết Nghĩa Thiên Thầncòn quy
định mức phí thành viên của Hội Thiên T2 là mức ưu đãi với những quyền lợi
đặc biệt giá trị nêu trên nên sẽ không được hoàn lại”. Để tham gia Chương trình,
nguyên đơn Đơn đăng đã thanh toán mức phí 100.000.000 đồng tương
ứng với 01 suất đầu tư của Chương trình.
Thực hiện thoả thuận, ngày 18 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Công ty Đ, ông
Phi Nhật H sở hữu 1.430.000 cổ phần tương đương 14.300.000.000 đồng,
chiếm tỷ lệ 71,5% vốn điều lệ của Công ty Đ đã Hợp đồng tặng cho nguyên
đơn 10.000 cổ phần, trị giá 10.000 đồng/cổ phần, chiếm 0,5% vốn điều lệ của
Công ty Đ. Việc tặng cho cổ phần là phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 126
Luật Doanh nghiệp năm 2014: 5. Cổ đông quyền tặng cho một phần hoặc toàn
bộ cổ phần của mình tại công ty cho người khác; sử dụng cổ phần để trả nợ.
Trường hợp này, người được tặng cho hoặc nhận trả nợ bằng cổ phần sẽ cổ
đông của công ty”. Như vậy, nguyên đơn trở thành cổ đông của Công ty Đ.
Căn cứ Công văn số 9403/ĐKKD-T6 ngày 28 tháng 11 năm 2023 của Sở
Kế hoạch Đầu Thành phố H, Công ty Đ đã giải thể theo Quyết định số
01/2019/QĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019; Thông báo số 519144/20 ngày 08 tháng
6 năm 2020 của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H.
Ngày 02 tháng 3 năm 2020, Công ty Đ Thông báo số 02-BIGANGEL
gửi các cổ đông thông báo Công ty Đ sẽ tiến hành thủ tục giải thể; toàn bộ cổ phần
của cổ đông Công ty Đ sẽ được chuyển qua cổ phần của Công ty T3 với tỷ lệ
1:1. Cổ đông sẽ nhận được Sổ chứng nhận sở hữu cổ phần của Công ty T3 thay
cho số cổ phần tại Công ty ĐCông ty T3 đã cấp cho nguyên đơn Sổ chứng
nhận sở hữu cổ phần từ ngày 18 tháng 6 năm 2018 với số lượng 10.000 cổ phần,
nguyên đơn trở thành cổ đông của Công ty T3, bị đơn cũng xác định nguyên đơn
là cổ đông sở hữu 10.000 cổ phần của Công ty T3.
Căn cứ quy định tại Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 Điều 115
Luật Doanh nghiệp năm 2020; điểm d khoản 1 Điều 10 Điều lệ sửa đổi ngày 01
tháng 01 năm 2018 của Công ty T3, nguyên đơn được tự do chuyển nhượng cổ
7
phần của mình cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ đông, trừ trường
hợp quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2020”; khoản 2 Điều 11 Điều lệ Công
ty T3 quy định nghĩa vụ của cổ đông phổ thông “không được rút vốn đã góp bằng
cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công
ty hoặc người khác mua lại cổ phần”.
Tại phiên tòa thẩm, bị đơn không đồng ý mua lại cổ phần của nguyên
đơn chỉ đồng ý hỗ trợ thủ tục cho nguyên đơn bán cổ phần cho người khác.
Do đó, Tòa thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn căn
cứ. Tại cấp phúc thẩm, không căn cứ nào mới, nên Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của bà O, giữ nguyên án sơ thẩm.
[3] Với những nhận định trên, xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát
cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Nguyên đơn là người cao tuổi Đơn xin miễn giảm án phí nên căn cứ
điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án, miễn án phí kinh
doanh thương mại phúc thẩm cho nguyên đơn.
[5] Quyết định khác của án thẩm về án phí kinh doanh thương mại
thẩm không có kháng cáo, kháng nghị hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 4 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 3 Điều 38,
điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 296, khoản
1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị Hoàng O, giữ nguyên án sơ
thẩm.
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Hoàng O về
việc yêu cầu Công ty Cổ phần T3 mua lại 10.000 (mười ngàn) cổ phần của bà Đỗ
Thị Hoàng O trong Công ty Cổ phần T3 với giá thời điểm hiện tại là 25.000 (hai
mươi lăm ngàn) đồng/cổ phần, tương đương 250.000.000 (hai trăm năm mươi
triệu) đồng.
8
3. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Miễn án phí kinh doanh
thương mại phúc thẩm cho nguyên đơn Đỗ Thị Hoàng O.
4. Quyết định khác của án thẩm về án phí kinh doanh thương mại
thẩm không có kháng cáo, kháng nghị hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Các đương sự;
- Lưu VT (5), HS (2), 20b, (TK-PH).
TM. HI ĐNG XÉT XPHÚC THẨM
THM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyn Văn Tửu
Tải về
Bản án số 68/2024/KDTM-PT Bản án số 68/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 68/2024/KDTM-PT Bản án số 68/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất