Bản án số 35/2024/KDTM-PT ngày 19/06/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 35/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 35/2024/KDTM-PT ngày 19/06/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 35/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/06/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 35/2024/KDTM-PT
Ngày: 19 - 6 - 2024
V/v Tranh chấp giữa thành viên công
ty với công ty về vốn góp chia lợi
nhuận, tranh chấp giữa công ty với
thành viên công ty, tranh chấp về hợp
đồng chuyển nhượng vốn góp yêu
cầu hủy Giấy chứng nhận đăng
doanh nghiệp
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có :
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Trần Văn Mười
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Đắc Minh
Ông Trần Ngọc Tuấn
- Thư phiên tòa: Tiếu Phương Quyền - Thư Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hừng - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 6 m 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai ván kinh doanh thương mại thụ
số 98/2023/TLPT-KDTM ngày 19 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp
giữa thành viên công ty với công ty về vốn góp chia lợi nhuận, tranh chấp
giữa công ty với thành viên công ty, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng vốn
góp và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2023/KDTM-ST ngày 31
tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng bị kháng nghị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1494/2024/QĐ-PT ngày
27 tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Phùng Thị H, sinh năm: 1961; trú tại số C, đường T,
Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
2
Người đại diện hợp pháp:
+ Trần Thị Phương H1, sinh năm: 1982; trú tại số C, đường T,
Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh người đại diện theo ủy quyền
(Văn bản ủy quyền số 005530, quyển số 08TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng
C1, Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày 04/8/2020) (có mặt).
+ Ông Văn T, sinh năm: 1963; trú tại tổ C, Phường A, thành phố Đ,
tỉnh Lâm Đồng người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 006425,
quyển số 09TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh
chứng nhận ngày 03/9/2020) (vắng mặt).
- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn V; địa chỉ: K, Quốc lB, Đ,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
* Người đại diện theo pháp luật:
- Ông Hoàng Trọng N Chủ tịch Hội đồng thành viên của Công ty trách
nhiệm hữu hạn V (có mặt).
- Ông Đinh Công P (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền; Bà Nguyễn Thị Kiều T1, sinh năm 1983 (có
mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp bị đơn: Ông Nguyễn Thái N1,
Luật của Văn phòng luật Nguyễn Thái N1 thuộc Đoàn luật Thành phố
H (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Thị Xuân Q, sinh năm: 1993; trú tại số S P, Phường A,
Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
-Người đại diện theo ủy quyền Nguyễn Thị Kiều T1 sinh năm 1983 (có
mặt).
2. Ông Hoàng Trọng N, sinh năm: 1979; cư trú tại số I đường L, Phường A,
quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Thu D, sinh năm: 1988; cư trú tại
số A, đường T, Phường H, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh người đại diện
theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 08TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C2
chứng nhận ngày 25/8/2020) (vắng mặt).
3. Ông Hứa Vĩnh T2, sinh năm: 1957; cư trú tại số A, đường N, Phường B,
Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
4. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1954; trú tại số E, đường H, thị trấn
D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).
5. Ông Đinh Công P, sinh năm: 1978; trú tại số F L, phường B, quận B,
Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
3
6. Hoàng Nguyễn Trâm A, sinh năm: 1987; trú tại số A, đường B,
Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
7. Bà Nguyễn Thị P1, sinh năm: 1954; cư trú tại số A, đường B, Phường A,
quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
8. Ông Đỗ Văn P2, sinh năm: 1982; trú tại số F, đường C, Phường B,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).
9. Cháu Hoàng Gia H2, sinh năm: 2011, cháu Hoàng Gia P3, sinh năm:
2014; cùng trú tại P, Tòa A, chung A, quận B, Thành phố Nội; (đều
vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp: Trần Thị Phương H1, sinh năm: 1982; trú
tại P, Tòa A, chung A, quận B, Thành phố Nội người đại diện theo
pháp luật (có mặt).
10. Sở Kế hoạch Đầu tỉnh L; địa chỉ Trung tâm hành chính tỉnh L, số
C, đường T, Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện hợp pháp: Ông Tôn Thiện S, người đại diện theo pháp
luật - Giám đốc (vắng mặt).
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Phùng Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 14/8/2020, lời trình bày tại các bản tự khai
trong qtrình tham gia tố tụng của ông Võ Văn T người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn thì:
Năm 2017, Công ty trách nhiệm hữu hạn V (trụ sở công ty đã đặt tại khuôn
viên khu đất huyện L, tỉnh Lâm Đồng) ông Hoàng Trọng N góp vốn điều
lệ, chiếm tỷ lệ 52,381%, ông N giữ tư cách Chủ tịch Hội đồng thành viên và là 1
trong 2 người đại diện theo pháp luật của công ty.
Tháng 6 đến tháng 9/2017, Phùng Thị H góp vốn cho Công ty trách
nhiệm hữu hạn V (chuyển khoản cho ông N theo unhiệm chi ngày 19/6/2017
đưa tiền mặt trong năm 2017); ông N giao cho Giấy chứng nhận phần vốn
góp (không số, không ngày tháng năm) xác nhận góp vốn 5.000.000.000đ
(không nhớ ngày tháng cụ thể nhưng thời điểm nhận giấy này cũng trong năm
2017).
Các bên ký hợp đồng chuyển nhượng vốn trong đó có bà Phùng Thị H nhận
4,762% của ông T2 14,286% của ông P2 (có hợp đồng trong hồ đăng
thay đổi lần 6). Đến tháng 10/2017 thì Sở Kế hoạch và Đầu tỉnh L cấp Giấy
chứng nhận thay đổi lần 6 có nội dung thể hiện thành viên góp vốn của bà Phùng
Thị H 19,048%. Năm 2017, bà Phùng Thị H thành viên góp vốn điều lệ của
4
Công ty từ tháng 10/2017 với tỷ lệ 19,048% trên tổng số vốn điều lệ
10.500.000.000đ (mười tỷ năm trăm triệu đồng). Thời điểm đó, giá trị 19,048%
vốn điều lệ 2.000.000.000đ, nhưng H đã góp vốn với số tiền
5.000.000.00 (năm tỷ đồng). Tính đến cuối năm 2018, tài sản của công ty
gồm có quyền sử dụng đất số AN 949458 đối với diện tích 254,99ha và khu nhà
VIP, khu chăn nuôi, khu nhà sàn, thác nước và không có các khoản nợ nào.
Đến nay, ông N cũng chưa tổ chức một cuộc họp Hội đồng thành viên nào
để báo cáo kết quđầu tư, kinh doanh và tình hình tài chính của Công ty trong
năm 2016 và kế hoạch kinh doanh cho các năm tiếp theo. Điều này đã vi phạm
khoản 1 Điều 56 của Luật Doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ của Chủ tịch Hội
đồng thành viên theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Điều 14, Điều 71 Luật
Doanh nghiệp. Trong suốt năm 2019, ông N tự mình quản lý, điều hành, tự mình
khai thác, thu lợi mà không báo cáo hay hạch toán công khai, minh bạch sổ sách
kế toán với Hội đồng thành viên. Điều này đã xâm hại quyền lợi hợp pháp của
thành viên công ty, trong đó có bản thân H.
Nghiêm trọng hơn ông N đã tiến hành đăng ký tăng vốn điều lệ của công ty
thay đổi cấu trúc vốn, giảm tỷ lệ phần vốn góp của bà H mà không triệu tập
họp Hội đồng thành viên theo quy định của Luật Doanh nghiệp đã được
Phòng Đăng kinh doanh cấp Giấy chứng nhận vào ngày 02/7/2020. Thành
viên để thay đổi vốn điều lệ đều bị H từ chối thực chất không có. Từ cuối
năm 2019, ông N đã nhiều lần dụ dỗ, đe doạ bà H để yêu cầu bà H ký khống vào
biên bản họp Hội đồng thành viên theo giấy triệu tập họp, dù không tổ chức họp
Hội đồng thành viên nên không biết việc góp thêm vốn của các bên liên quan
thật hay không. Việc làm này của ông N đã vi phạm các quy định về quản lý,
điều hành Công ty được quy định trong Luật doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ
của người quản lý với vai trò là Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty.
Do đó, để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Phùng Thị H, yêu cầu
Tòa án giải quyết:
1. Tuyên hủy Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp do Sở Kế hoạch
Đầu tư tỉnh Lâm Đồng đăng ký thay đổi lần thứ 7, ngày 02/7/2020 đối với Công
ty trách nhiệm hữu hạn V.
2. Công nhận Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp do Sở Kế hoạch
Đầu tỉnh Lâm Đồng đăng thay đổi lần thứ 6, ngày 26/10/2017 đối với
Công ty trách nhiệm hữu hạn V là hợp pháp.
3. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 phần góp vốn điều lệ vào công ty
từ năm 2017 của H và chia lợi nhuận cho H từ năm 2017 cho đến nay với
phần góp vốn thực của H vào công ty 5.000.000.000đ (năm tỷ
đồng)/10.500.000.000đ (mười tỷ năm trăm triệu đồng) tổng vốn điều lệ của công
ty.
5
Theo đơn yêu cầu phản tố ghi ngày 27/4/2021, lời trình bày tại các bản
tự khai trong quá trình tham gia tố tụng của Nguyễn Thị Thu D
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn thì:
Công ty trách nhiệm hữu hạn V đăng hoạt động theo Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, mã số
doanh nghiệp: 5800501854, đăng ký lần đầu ngày 17/10/2006. Đăng ký thay đổi
lần 6, ngày 26/10/2017 về việc thay đổi thành viên. Theo đó, 02 thành viên
ông Hứa Vĩnh T2 ông Đỗ Văn P2 đã chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp
của mình trong công ty cho Phùng Thị H để rút tên ra khỏi công ty. Tổng giá
trị phần vốn góp do nhận chuyển nhượng của 02 thành viên này
2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng), chiếm tỷ lệ 19,048% vốn Điều lệ.
Sau khi biết được Phùng Thị H khởi kiện, Công ty đã soát lại phát
hiện bà H không phải là thành viên góp vốn của Công ty. Theo “Giấy xác nhận”
của chính H lập ngày 14/01/2019, H đã cam đoan xác nhận “Toàn bộ số
tiền tôi đã tham gia góp vốn đứng tên thành viên Công ty trách nhiệm hữu
hạn V là của 02 cháu ngoại của tôi. Việc tôi đứng tên với cách thành viên
góp vốn chỉ mang tính hình thức do 02 cháu tôi chưa đủ điều kiện để đứng tên
theo quy định của pháp luật. Mọi quyền và nghĩa vụ của tôi trong Công ty trách
nhiệm hữu hạn V chỉ thay mặt nhân danh 02 cháu ngoại của tôi để thực
hiện". Việc cam đoan xác nhận này của H phù hợp với Giấy tường trình của
ông Hứa Vĩnh T2 ngày 24/8/2020 trong hvụ án "Số tiền chuyển nhượng
phần vốn góp do ông Hoàng Trọng N chuyển trả cho tôi 500.000.00thông
qua Ngân hàng V2 - Chi nhánh T3, Đng N là bố đẻ 02 cháu ngoại bà H)".
Như vậy, đủ sở xác định khi nhận chuyển nhượng phần vốn góp làm
thủ tục đăng thay đổi nội dung đăng doanh nghiệp, Phùng Thị H đã
khai báo không trung thực, không chính xác nội dung hồ sơ đăng ký thay đổi nội
dung đăng doanh nghiệp. Hành vi này, đã vi phạm nghiêm trọng điều cấm
của pháp luật được quy định tại khoản 4 Điều 17 Luật doanh nghiệp năm 2014.
Đồng thời, 02 Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/HĐCNVG số
03/HĐCNVG cùng ngày 21/9/2017 bị hiệu do giả tạo. vậy: Công ty
trách nhiệm hữu hạn V đề nghị Tòa án xem xét giải quyết:
1. Xóa cách thành viên của Phùng Thị H trong Công ty trách nhiệm
hữu hạn V.
2. Tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/HĐCNVG
ngày 21/9/2017 giữa ông Đỗ Văn P2 với bà Phùng Thị H.
3. Tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 03/HĐCNVG
ngày 21/9/2017 giữa ông Hứa Vĩnh T2 với bà Phùng Thị H.
4. Công nhận phần vốn góp 2.000.000.000đ, chiếm tỷ l19,048% vốn điều
lệ cho 02 cháu Hoàng Gia H2, sinh năm 07/12/2011 và cháu Hoàng Gia P3, sinh
năm 18/10/2014.
6
Giành quyền cho công ty C3 được quyền liên hệ với Sở Kế hoạch Đầu
tỉnh L để đăng thay đổi nội dung đăng doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật.
- Theo Trần Thị Phương H1 người đại diện theo pháp luật của cháu
Hoàng Gia H2, cháu Hoàng Gia P3 thì: Với cách người giám hộ hợp pháp
của 02 (hai) trẻ Hoàng Gia H2 Hoàng Gia P3, không đồng ý với các yêu
cầu của bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn V bởi những lý do sau đây: Tư cách
thành viên của H được xác lập do nhận chuyển nhượng vốn góp từ hai thành
viên của Công ty ông Đỗ Văn P2 ông Hứa Vĩnh T2 theo quy định tại
Điều 53 Luật Doanh nghiệp 2014 đã được ghi tên vào sổ đăng thành viên
vào ngày 21/9/2017. Cùng ngày, ông Hoàng Trọng N với cách Chtịch Hội
đồng thành viên, đại diện theo pháp luật của Công ty đã c nhận và lập hồ
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp (được cấp Giấy chứng nhận đăng
doanh nghiệp thay đổi lần thứ 6 vào ngày 26/10/2017).
Nay, Công ty trách nhiệm hữu hạn V ông N lại phủ nhận chính những
văn bản, hành vi của mình đây là điều mâu thuẫn và vô lý. Năm 2017, số tiền bà
H bỏ ra nhận chuyển nhượng góp vốn 5.000.000.000đ (năm tỷ đồng),
Giấy chứng nhận phần vốn góp. Hơn nữa, cách thành viên của H được
chuyển giao từ tư cách thành viên hiện hữu trong Công ty của ông P2 và ông T2,
không phải xác lập từ việc thành lập mới hoặc tăng vốn điều lệ. Vì vậy, Công ty
hay đại diện theo pháp luật của Công ty không quyền yêu cầu xoá tên H.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật thì cũng đã hết thời hạn khởi kiện.
Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/HĐCNVG số
03/HDCNVG ngày 21/9/2017 giữa bà H với các ông P2, ông T2 hợp đồng đã
hiệu lực từ ngày 21/9/2017, tư cách thành viên của bà H đã được Công ty xác
nhận cùng ngày (tính đến ngày 27/5/2021 là 3 năm 8 tháng 6 ngày). Căn cứ Điều
132 Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 tđã hết thời hiệu khởi kiện, do đó,
các bên không còn quyền khởi kiện nữa. Chủ thể có quyền và lợi ích của hai hợp
đồng trên H, ông P2, ông T2. Việc chuyển nhượng được thực hiện theo
đúng thủ tục xác nhận của ông N cũng như Công ty. Ông P2, T2, H
không tranh chấp ng ty ông N lại đi tranh chấp yêu cầu tuyên hiệu
hợp đồng chuyển nhượng vốn góp không thỏa đáng không căn cứ pháp
luật.
Hiện 02 (hai) con của còn nhỏ, Gia H2 chưa tròn 10 tuổi, Gia P3 chưa
tròn 07 tuổi, chưa đủ tuổi thành niên nên xin Công ty, ông N đồng thời cũng
bố ruột của hai cháu, quan tiến hành ttụng không đưa các cháu vào các
tranh chấp, kiện tụng lẫn nhau giữa bố, m ngoại của các cháu. Theo
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn thì người được trực tiếp nuôi
dưỡng, chăm sóc hai cháu nên về mặt pháp lý, cũng đủ cách để thay
mặt các con trình bày quan điểm thay cho các cháu. Hiện nay một mình
nuôi hai con, không đồng cấp dưỡng của bố và vẫn còn nương nhờ mẹ (bà H) rất
nhiều. cho các cháu còn không hết nên việc sau này H cho lại các con
7
của phần vốn góp trị giá 5.000.000.000đ tại Công ty V đó việc nội bộ gia
đình, chuyện tình cảm bà cháu.
Với những do trên, đề nghị Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu
phản tố, trả lại đơn yêu cầu phản tố của bị đơn với do hết thời hiệu khởi kiện.
Trong trường hợp Tòa án không ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu
phản tố, đề nghị quý Tòa không chấp nhận tất cả yêu cầu phản tố của bị đơn như
đã nói ở trên.
- Theo người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Kế hoạch Đầu tỉnh
L thì: Trình tthủ tục Phòng Đăng kinh doanh - Sở K cấp giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 7 của Công ty TNHH V theo quy định tại
bộ thủ tục hành chính được Ủy ban nhân dân tỉnh L ban hành tại Quyết định số
2236/QĐ-UBND ngày 16/10/2019 về việc công bố danh mục thủ tục hành chính
lĩnh vực Kế hoạch Đầu thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, UBND
cấp huyện, UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Việc nguyên đơn Phùng Thị H yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đăng
doanh nghiệp đăng thay đổi lần thứ 7 ngày 02/7/2020, ý kiến của Sở Kế
hoạch và Đầu tư như sau: Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh căn cứ vào các quy định
của Luật Doanh nghiệp năm 2020 Nghị định s01/2020/NĐ-CP, ngày 04
tháng 01 năm 2021 của Chính phủ vđăng doanh nghiệp để tuyên án theo
quy định.
- Theo người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hứa Vĩnh T2 trình bày:
Theo hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 03/HĐCNVG ngày 21/9/2017,
ông đã chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp trong Công ty TNHH V với giá
chuyển nhượng là 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) cho Phùng Thị H,
sinh năm 1961, CCCD s 037161001203 đã nhận đủ tiền chuyển nhượng
500.000.000đ do ông Hoàng Trọng N chi trả.
Thực tế, bà Phùng Thị H không phải là người nhận chuyển nhượng toàn bộ
phần vốn góp này, hai cháu ngoại của Phùng Thị H Hoàng Gia H2,
sinh năm 2011 Hoàng Gia P3, sinh năm 2014. Đây hai con ruột của ông
Hoàng Trọng N và bà Trần Thị Phương H1.
Nay Phùng Thị H đơn khởi kiện xác định phần vốn góp của mình
nhận chuyển nhượng của ông là không đúng. Ông đề nghị Tòa án xem xét tuyên
xử hợp đồng chuyển nhượng phần vốn s03/HĐCNVG ngày 21/9/2017 "vô
hiệu" và ông không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
- Theo người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn P2 trình bày:
Theo hợp đồng chuyển nhượng vốn góp số 02/HĐCNVG ngày 21/9/2017, ông
đã chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp trong Công ty trách nhiệm hữu hạn V
với giá chuyển nhượng 1.500.000.000đ (Một tỷ năm trăm triệu đồng) cho
Phùng Thị H, sinh năm 1961, CCCD số 037161001203 đã nhận đủ tiền
chuyển nhượng 1.500.000.000đ do ông Hoàng Trọng N chi trả.
8
Thực tế, bà Phùng Thị H không phải là người nhận chuyển nhượng toàn bộ
phần vốn góp này, hai cháu ngoại của Phùng Thị H Hoàng Gia H2,
sinh năm 2011 Hoàng Gia P3, sinh năm 2014. Đây hai con ruột của ông
Hoàng Trọng N và bà Trần Thị Phương H1.
Nay Phùng Thị H đơn khởi kiện xác định là phần vốn góp của mình
nhận chuyển nhượng của ông không đúng. Ông đề nghị quý Tòa xem xét
tuyên xử Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn số 02/HĐCNVG ngày 21/9/2017
"vô hiệu" ông không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng
hiệu.
Tại Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 03/2023/KDTM-ST ngày
31/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:
Căn cứ:
- Các khoản 4, 5 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 161 Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015;
- Các Điều 116, 117, 122, 500 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Khoản 2 Điều 18, Điều 47, 48, 53, 54 Luật Doanh nghiệp năm 2014;
- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận việc rút yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn V
đối với việc công nhận phần vốn góp 2.000.000.000đ, chiếm tỷ l19,048% vốn
điều lcho cháu Hoàng Gia H2, sinh năm 07/12/2011 và cháu Hoàng Gia P3,
sinh năm 18/10/2014 .
1.1 Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này của Công ty trách nhiệm hữu
hạn V.
1.2 Quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại đối với yêu cầu này của
đương sự được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phùng Thị H về việc “Tranh
chấp giữa thành viên công ty với công ty về vốn góp, chia lợi nhuận yêu cầu
hủy Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp” đối với Công ty trách nhiệm hữu
hạn V.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn V về
việc“Tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng vốn góp” với bà Phùng Thị H.
3.1 Xóa cách thành viên của Phùng Thị H trong Công ty trách nhiệm
hữu hạn V.
9
Công ty trách nhiệm hữu hạn V được quyền liên hệ với Phòng đăng
kinh doanh - Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh L để làm thủ tục điều chỉnh xóa tư cách
thành viên của H điều chỉnh cấu trúc vốn góp trong Công ty trách nhiệm
hữu hạn V theo quy định của pháp luật.
3.2 Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/HĐCNVG
ngày 21/9/2017 giữa ông Đỗ Văn P2 với bà Phùng Thị H là vô hiệu.
3.3 Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 03/HĐCNVG
ngày 21/9/2017 giữa ông Hứa Vĩnh T2 với bà Phùng Thị H là vô hiệu.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và dành quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 03/9/2023, nguyên đơn bà Phùng Thị H đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
- Ngày 28/9/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân n cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định kháng nghị số 42/QĐ-VKS-KDTM, đề
nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xtheo hướng
hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2023/KDTM-ST ngày
31/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn
bảo lưu quyết định kháng nghị.
Nguyên đơn bà Phùng Thị H, người đại diện theo ủy quyền bà Trần
Thị Phương H1, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, không
đồng ý quyết định của bản án thẩm, và cũng phân tích toàn bcác chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án, đưa ra các chứng cứ chứng minh đề nghị hủy toàn bộ án sơ
thẩm để xét xử lại cho đúng quy định của pháp luật. Lý do: Bản án sơ thẩm đã vi
phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, nội dung vụ án làm ảnh hưởng đến
quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn V, người đại diện ông Hoàng
Trọng N, Nguyễn Thị Kiều T1 thống nhất đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm t nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là Luật sư Nguyễn Thái
N1 vắng mặt và gửi văn bản luận cứ bảo vệ, đnghị Hội đồng t xbác toàn
bộ nội dung kháng nghị kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án
thẩm.
10
Các đương sự không cung cấp hay bổ sung thêm chứng cứ mới, cũng
không thỏa thuận với nhau, chỉ yêu cầu Tòa xem xét giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục tố tụng: giai đoạn xét xử phúc thẩm những người tiến hành tố
tụng những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của B
luật Tố tụng Dân sự và tuân thủ đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm có thiếu
sót trong việc giải quyết vụ án, sai lầm trong việc áp dụng pháp luật về tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng vốn góp hiệu do vi phạm điều cấm của Luật; nhận
định, đánh giá chứng cứ không chính xác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Xét thấy, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu kháng cáo của của nguyên đơn
Phùng Thị H, là có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng
khoản 3 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, chấp nhận
Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐ-VKS-KDTM ngày 28/9/2023 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Phùng Thị H, tuyên huỷ toàn bBản án số
03/2023/KDTM-ST ngày 31/8/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để giải
quyết lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hván đã được thẩm tra tại phiên
tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét:
[1] Đơn kháng o của nguyên đơn bà Phùng Thị H Quyết định kháng
nghị của Viện Trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh trong hạn luật định hợp lệ được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết
theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐ-VKS-KDTM ngày
28/9/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh kháng cáo của nguyên đơn Phùng Thị H, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
Nguyên đơn bà Phùng Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên hủy
Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp do Sở Kế hoạch Đầu tỉnh Lâm
Đồng đăng thay đổi lần thứ 7, ngày 02/7/2020 đối với Công ty trách nhiệm
hữu hạn V; công nhận Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp do Sở Kế hoạch
Đầu tư tỉnh Lâm Đồng đăng ký thay đổi lần thứ 6, ngày 26/10/2017 đối với
Công ty trách nhiệm hữu hạn V hợp pháp; đồng thời buộc Công ty trách
11
nhiệm hữu hạn V1 phần góp vốn điều lệ vào công ty từ năm 2017 của H và
chia lợi nhuận cho bà H từ năm 2017 cho đến nay với phần góp vốn thực của
H vào công ty là 5.000.000.000đ (năm tđồng)/10.500.000.000đ (mười tỷ năm
trăm triệu đồng) tổng vốn điều lệ của công ty.
Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn V không đồng ý theo yêu khởi kiện
của nguyên đơn bà Phùng Thị Hòa H, và có yêu cầu phản tố đề nghị xóa tư cách
thành viên của Phùng Thị H trong Công ty trách nhiệm hữu hạn V; tuyên
hiệu hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/HĐCNVG ngày 21/9/2017
giữa ông Đỗ Văn P2 với bà H; tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng phần vốn
góp số 03/HĐCNVG ngày 21/9/2017 giữa ông Hứa Vĩnh T2 với H; công
nhận phần vốn góp 2.000.000.000đ, chiếm tỷ lệ 19,048% vốn điều lệ cho 02
cháu Hoàng Gia H2, sinh năm 07/12/2011 cháu Hoàng Gia P3, sinh năm
18/10/2014 nên các bên phát sinh tranh chấp.
Hội đồng xử án xét thấy: Đối với yêu cầu khởi kiện tuyên hủy Giấy chứng
nhận đăng doanh nghiệp do Sở Kế hoạch Đầu tỉnh Lâm Đồng đăng
thay đổi lần thứ 7, ngày 02/7/2020 đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn V của
nguyên đơn Phùng Thị H yêu cầu phản tcủa Công ty trách nhiệm hữu
hạn V về việc xóa tư cách thành viên của bà H trong công ty thì:
Theo hồ vụ án thể hiện: Ngày 21/9/2017, ông Hứa Vĩnh T2 lập hợp
đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 03/HĐCNVG cho Phùng Thị H với
giá trị theo hợp đồng 500.000.000đ chiếm 4,762% vốn điều lệ của Công ty V
ông Đỗ Văn P2 lập hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/HĐCNVG
cho bà Phùng Thị H với giá trị theo hợp đồng là 1.500.000.000đ chiếm 14,286%
vốn điều lệ của ng ty V.
Sau khi nhận chuyển nhượng, ngày 21/9/2017 Hội đồng thành viên của
Công ty V tiến hành họp và thống nhất việc thay đổi thành viên và tỷ lệ góp vốn
trong công ty. Theo đó, bà Phùng Thị H thành viên góp vốn vào công ty với
tỷ lệ 19,048% vốn điều lệ. Đến ngày 26/10/2017, Phòng đăng kinh doanh
Sở Kế hoạch Đầu tỉnh L đã cấp Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp
thay đổi lần thứ 6 với nội dung đã được Hội đồng thành viên Công ty V thông
qua tại Quyết định số 01/HDTV/2017 ngày 21/9/2017.
Như vậy, cách thành viên của bà Phùng Thị H được xác lập do nhận
chuyển nhượng vốn góp từ hai thành viên của Công ty V ông Đỗ Văn P2
ông Hứa Vĩnh T2 theo quy định tại Điều 53 Luật Doanh nghiệp 2014 và đã được
ghi tên vào sổ đăng thành viên vào ngày 21/9/2017. Ông Hoàng Trọng N với
cách Chủ tịch hội đồng thành viên, đại diện theo pháp luật của Công ty V đã
xác nhận lập Hồ thay đổi nội dung đăng doanh nghiệp (được cấp
GCNĐKDN thay đổi lần 6 vào ngày 26/10/2017) được cấp thẩm quyền
của tỉnh Lâm Đồng xác nhận theo đúng qui định của Luật doanh nghiệp.
Đến ngày 02/7/2020, thì Công ty V3 và đã được Phòng đăng ký kinh doanh
Sở Kế hoạch Đầu tỉnh L cấp Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp
12
thay đổi lần thứ 7; theo đó tăng số lượng thành viên góp vốn vốn điều lệ của
công ty. Trong đó thể hiện H góp số vốn là 5.000.000.000đ chiếm 10% vốn
điều lệ.
Nguyên đơn Phùng Thị H cho rằng việc ông Hoàng Trọng N Chủ
tịch Hội đồng thành viên của Công ty V đã tiến hành đăng tăng vốn điều lệ
của Công ty và thay đổi cấu trúc vốn, giảm tỷ lệ phần vốn góp của bà Phùng Thị
H mà không có triệu tập cuộc họp Hội đồng thành viên sai quy định của pháp
luật. Đồng thời, cũng không tham gia vào biên bản họp hội đồng
thành viên Công ty ngày 08/6/2020.
Tại Bản tự khai ngày 30/8/2021 (bút lục số 266) của Nguyễn Thị Thu D
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn thể hiện: “Đối với biên bản họp hội
đồng thành viên ngày 08/6/2020 thời gian đó ông Hoàng Trọng N nhờ dịch
vụ pháp để thực hiện việc thay tên Phùng Thị H trong biên bản họp hội
đồng thành viên nói trên nên chữ ký không phải là của bà H”.
Như vậy, căn cứ đxác định chữ trong biên bản họp hội đồng thành
viên số 01/2020/BB ngày 08/6/2020 không phải chữ của bà Phùng Thị H.
Do đó, việc lập các trình tự, thủ tục để được Sở kế hoạch đầu tỉnh L cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần thứ 7 vào ngày 2/7/2020 của Công ty V là
không đúng theo qui định của Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại Giấy xác
nhận ngày 14/01/2019” (bút lục số 235) H đã xác nhận “Toàn bộ số tiền tôi
đã tham gia góp vốn đứng tên thành viên Công ty TNHH V của 02 cháu
ngoại của tôi. Việc tôi đứng tên với tư cách thành viên góp vốn chỉ mang tính
hình thức do 02 cháu tôi chưa đủ điều kiện để đứng tên theo quy định của pháp
luật. Mọi quyền nghĩa vụ của tôi trong Công ty TNHH V, tôi chỉ thay mặt
và nhân danh 02 cháu ngoại của tôi để thực hiện". Quá trình giải quyết vụ án và
tại biên bản làm việc ngày 12/11/2021 bản thân Phùng Thị H cũng khẳng
định nội dung và chữ tại Giấy xác nhận ngày 14/01/2019” của Phùng
Thị H.
Điều này phợp với lời trình bày của những người chuyển nhượng phần
góp vốn cho Phùng Thị H ông Đỗ Văn P2, ông Hứa Vĩnh T2 đều khẳng
định việc không nhận số tiền chuyển nhượng vốn trực tiếp từ Phùng Thị
H, hai ông đều nhận tiền tông Hoàng Trọng N là cha ruột của hai cháu
Hoàng Gia H2 và cháu Hoàng Gia P3.
Đồng thời, vào thời điểm nhận chuyển nhượng vốn góp thì cháu Hoàng Gia
H2, sinh năm: 2011, cháu Hoàng Gia P3, sinh năm: 2014 cả hai đều chưa thành
niên nên theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm
2014 quy định: “…Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản
doanh nghiệp tại Việt Nam: đ, người chưa thành niên; người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không
cách pháp nhân..”. Bên cạnh đó, bà Phùng Thị H không đủ căn cứ để xác lập
người đại diện theo pháp luật theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân snăm
2015. Do đó, việc chuyển nhượng vốn góp giữa Phùng Thị H, ông Đỗ Văn
13
P2, ông Hứa Vĩnh T2 không phát sinh tranh chấp nhưng trên thực tế việc chuyển
nhượng phần vốn góp này chỉ nhằm mục đích để Phùng Thị H đứng tên h
cho 2 cháu ngoại là Hoàng Gia H2, Hoàng Gia P3.
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp giữa bà Phùng Thị H với
ông Đỗ Văn P2, ông Hứa Vĩnh T2 hiệu. Nguyên đơn đnghị áp dụng thời
hiệu là không có căn cứ để xem xét bởi lẽ đây là các giao dịch vi phạm điều cấm
của pháp luật nên không thể áp dụng thời hiệu.
vậy, căn cứ để xóa cách thành viên của Phùng Thị H trong
Công ty trách nhiệm hữu hạn V, nên việc H khởi kiện tuyên hủy Giấy chứng
nhận đăng doanh nghiệp do Sở Kế hoạch Đầu tỉnh Lâm Đồng đăng
thay đổi lần thứ 7, ngày 02/7/2020 đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn V là
không có căn cứ.
Công ty trách nhiệm hữu hạn V được quyền liên hệ với Phòng đăng
kinh doanh Sở kế hoạch Đầu tỉnh L để làm thủ tục điều chỉnh xóa tư cách
thành viên của nguyên đơn Phùng Thị H điều chỉnh cấu trúc vốn góp
trong Công ty trách nhiệm hữu hạn V theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Phùng Thị H xuất trình chứng
cứ “Ủy nhiệm chi” cho rằng chuyển tiền cho ông Hoàng Trọng N với số tiền
4.200.000.00để nhận chuyển nhượng vốn góp từ ông P2, ông T2. Tuy nhiên,
tại phiên tòa thẩm và phúc thẩm bản thân ông Hoàng Trọng N không thừa
nhận đây số tiền Phùng Thị Hòa c để nhận chuyển nhượng phần vốn
góp; đồng thời qua xem xét chứng cứ “Ủy nhiệm chi” nói trên thì không
căn cứ để xác định nội dung chuyển tiền là nhằm mục đích nhận chuyển nhượng
vốn góp của ông P2 ông T2. Hơn nữa, giữa các bên không tranh chấp
đối với số tiền này nên trong trường hợp tranh chấp thì đương sự quyền
khởi kiện bằng một vụ án khác theo thủ tục chung.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phùng Thị Hòa b Công ty
trách nhiệm hữu hạn V1 phần góp vốn điều lệ vào Công ty từ năm 2017 của
H yêu cầu chia lợi nhuận cho bà H từ năm 2017 cho đến nay với phần góp
vốn thực của H vào Công ty 5.000.000.000đ (năm tỷ
đồng)/10.500.000.000đ (mười tỷ năm trăm triệu đồng) tổng vốn điều lệ của
Công ty thì thấy rằng: Như đã phân tích, trên thực tế H cũng thừa nhận bà chỉ
là người đứng tên hộ cho 02 cháu ngoại của bà, nên H không có tư cách thành
viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn V. Do đó, việc H yêu cầu chia lợi
nhuận cho H từ năm 2017 cho đến nay là không có cơ sở để xem xét.
Hội đồng xét xử căn cứ vào các i liệu chứng cứ trong hồ vụ án và
qua lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm cho thấy Phùng
Thị H không phải là thành viên góp vốn vào Công ty trách nhiệm hữu hạn V,
H chlà người đứng tên hộ cho hai cháu Hoàng Gia H2 sinh năm 2011 cháu
Hoàng Gia P3 sinh năm 2014 cháu ngoại của bà H, khi xác lập hợp đồng
chuyển nhượng vốn của ông P2 và ông T2 cùng ngày 21-9-2017 lúc này cháu
14
H2, cháu P3 chưa đủ 6 tuổi. Hơn nữa theo quy định của pháp luật Phùng Thị
H không phải người đại diện theo pháp luật của hai cháu Hoàng Gia H2,
Hoàng Gia P3, H đứng tên xác lập thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
vốn góp hộ cho hai cháu đứng tên vốn góp hộ cho hai cháu trong Công ty
TNHH V, trong khi hai cháu H2 cháu P3 chưa đủ 6 tuổi không đúng với
quy định của pháp luật, án thẩm xử không chấp nhận yêu khởi kiện của
nguyên đơn bà Phùng Thị H là có căn cứ.
Từ những cơ sở phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận quyết
định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân nhân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
Phùng Thị H; giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại thẩm của Tòa án
nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do không được chấp nhận yêu cầu kháng cáo,
nguyên đơn Phùng Thị H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp
luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Không chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân nhân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Phùng Thị H.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 03/2023/KDTM-ST
ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Áp dụng:
- Các khoản 4, 5 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 161 Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015;
- Các Điều 116, 117, 122, 500 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Khoản 2 Điều 18, Điều 47, 48, 53, 54 Luật Doanh nghiệp năm 2014;
- Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận việc rút yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn V
đối với việc công nhận phần vốn góp 2.000.000.000đ, chiếm tỷ lệ 19,048% vốn
15
điều lcho cháu Hoàng Gia H2, sinh năm 07/12/2011 và cháu Hoàng Gia P3,
sinh năm 18/10/2014 .
1.1 Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này của Công ty trách nhiệm hữu
hạn V.
1.2 Quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại đối với yêu cầu này của
đương sự được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phùng Thị H về việc “Tranh
chấp giữa thành viên công ty với công ty về vốn góp, chia lợi nhuận yêu cầu
hủy Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp” đối với Công ty trách nhiệm hữu
hạn V.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn V về
việc“Tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng vốn góp” với bà Phùng Thị H.
3.1 Xóa cách thành viên của Phùng Thị H trong Công ty trách nhiệm
hữu hạn V.
Công ty trách nhiệm hữu hạn V được quyền liên hệ với Phòng đăng
kinh doanh - Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh L để làm thủ tục điều chỉnh xóa tư cách
thành viên của H điều chỉnh cấu trúc vốn góp trong Công ty trách nhiệm
hữu hạn V theo quy định của pháp luật.
3.2 Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/HĐCNVG
ngày 21/9/2017 giữa ông Đỗ Văn P2 với bà Phùng Thị H là vô hiệu.
3.3 Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 03/HĐCNVG
ngày 21/9/2017 giữa ông Hứa Vĩnh T2 với bà Phùng Thị H là vô hiệu.
4. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Án phí phúc thẩm:
Nguyên đơn Phùng Thị H phải chịu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), án
phí phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) đã nộp
(do ông Văn T nộp thay) theo Biên lai thu tạm ứng án ps0014977 ngày
14/9/2023 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
16
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Ngọc Tuấn
Nguyễn Đắc Minh
Tải về
Bản án số 35/2024/KDTM-PT Bản án số 35/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 35/2024/KDTM-PT Bản án số 35/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất