Bản án số 159/2024/DS-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 159/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 159/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 159/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 159/2024/DS-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hải Hậu (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 159/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chia thừa kế tài sản; Yêu cầu công nhận HĐ chuyển nhượng QSDĐ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HẢI HẬU
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 159/2024/DS-ST
Ngày: 16- 9-2024
V/v:“Chia thừa kế tài sản; Yêu cầu
công nhận HĐ chuyển nhượng QSDĐ”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Ngô Thị Hòe.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Trần Văn Kiêm;
Ông Lưu Văn Đê.
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Hương - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
- Đaị diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định tham
gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Huê - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh
Nam Định xét xử sơ thẩm công khai
vụ án thụ lý số: 41/2024/TLST- DS ngày 26
tháng 3 năm 2024 về “Tranh chấp chia thừa kế tài sản” và thụ lý yêu cầu bổ sung
số 09/2024/TLYCBSST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2024 về “Yêu cầu công nhận
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 150/2024/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa
số 105/2024/QĐST-DS ngày 05 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn N, sinh năm 1945. Địa chỉ: Tiểu khu 2, thị trấn
Đồng Lê, huyện TH, tỉnh QB.
- Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm 1967. Địa chỉ: Xóm 15, xã HT, huyện HH,
tỉnh NĐ.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị H1, sinh năm 1945. Địa chỉ: Thôn YX, xã LH, huyện TH, tỉnh
QB.
2. Ông Lê Văn S, sinh năm 1973. Địa chỉ: Xóm 15, xã HT, huyện HH, tỉnh
NĐ.
2
3. Ông Lê Văn T, sinh năm 1987. Địa chỉ: Số 009 HL, phường CL, thành phố
LC, tỉnh Là0 Cai.
4. Bà Lưu Thị K, sinh năm 1955. Địa chỉ: Xóm Lưu Loan, xã Hải T, huyện
HH, tỉnh NĐ.
5. Anh Lê Văn V, sinh năm 1981. Địa chỉ: Xóm Lưu Loan, xã Hải T, huyện
HH, tỉnh NĐ.
6. Anh Lê Văn Đ, sinh năm 1983. Xóm Lưu Loan, xã Hải T, huyện HH, tỉnh
NĐ.
7. Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1960. Địa chỉ: Tổ dân phố số 1, thị trấn Cồn,
huyện HH, tỉnh NĐ.
8. Ông Phạm Văn T2, sinh năm 1967. Địa chỉ: Thị trấn Đồng Lê, huyện TH,
tỉnh QB.
9. Bà Phạm Thị P, sinh năm 1957. Địa chỉ: Thị trấn Đồng Lê, huyện TH, tỉnh
QB.
10. Ông Phạm Văn T3, sinh năm 1973. Địa chỉ: 60/14R, ấp Tiền Lân 1, xã Bà
Điểm, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Bà Phạm Thị T4, sinh năm 1970. Địa chỉ: Tổ dân phố số 1, thị trấn Cồn,
huyện HH, tỉnh NĐ.
12. Bà Nguyễn Thị N1. Địa chỉ: Tổ 16, phường Đồng Quang, thành phố TN,
tỉnh TN.
13. Ông Lê Quang N2, sinh năm 1962. Địa chỉ: Số nhà 42, đường Việt Bắc, tổ
11, phường ĐQ, thành phố TN, tỉnh TN.
14. Bà Lê Thị K1, sinh năm 1965. Địa chỉ: Số nhà 52, đường số 1, chợ Đồng
Xoài, Tân Bình, thị xã ĐX, tỉnh BP.
15. Bà Lê Thu H2, sinh năm 1975. Địa chỉ: Số nhà 308A, phường Tân Lập,
thành phố TN, tỉnh TN.
16. Ông Lê Văn H3, sinh năm 1975. Địa chỉ: Tổ 16, phường Đồng Quang,
thành phố TN, tỉnh TN.
17. Bà Lê Thị Hồng D, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn TP, xã Cam Thành Bắc,
huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa.
18. Bà Lê Thị Hồng T5, sinh năm 1980. Địa chỉ: 97c/1, khu phố Thanh Lộc,
phường An Thạnh, thị xã TA, tỉnh BD.
19. Bà Lê Thị T6, sinh năm 1984. Địa chỉ: Thôn Yên Xuân, xã Lê Hóa, huyện
TH, tỉnh QB.
20. Bà Lê Thị T7, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn Yên Xuân, xã Lê Hóa, huyện
TH, tỉnh QB.
3
21. Bà Lê Thị L, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn Yên Xuân, xã Lê Hóa, huyện
TH, tỉnh QB.
22. Ông Lê Trung T8, sinh năm 1991. Địa chỉ: Yên Xuân, xã Lê Hóa, huyện
TH, tỉnh QB.
23. Ông Phạm Hồng X, sinh năm 1930. Địa chỉ: Thôn 1, xã NL, huyện TN,
tỉnh QN.
24. Ông Phạm Hồng S, sinh năm 1968. Địa chỉ: Thôn 1, xã NL, huyện TN, tỉnh
QN.
25. Bà Phạm Bích N3, sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn 1, xã NL, huyện TN, tỉnh
QN.
26. Ông Phạm Hồng 4, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn 1, xã NL, huyện TN, tỉnh
QN.
27. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1964. Địa chỉ: Xóm 15, xã HT, huyện HH,
tỉnh NĐ.
28. Ông Lê Văn H5, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Thêu, sinh năm 1970.
Địa chỉ: Xóm 15, xã HT, huyện HH, tỉnh NĐ.
- Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị M: Ông Lê Văn H - Là bị
đơn.
(Có mặt ông Năm, ông Hưng, bà Mão; ông Lê Văn S, bà Lưu Khuyên, ông
Thỏa, bà Trần Hà, anh Vỹ, ông Thế, ông Thanh, ông Tý, ông Nghị, ông Xuân, bà
Ngọc, ông Phạm Hồng S, ông Hiếu, bà Duyên, bà Thắm, bà Tươi, bà Thêu, bà Lợi,
bà Thắng, ông Hiệu, bà Thêu vắng mặt có lý do; bà Tuất, bà Phượng, bà Nguyên,
bà Lê Hà, bà Hồng, ông Hùng, bà Lê Khuyên, anh Đông vắng mặt lần 2 không lý
do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 28-11-2023 và lời khai trong quá trình tố tụng,
nguyên đơn ông Lê Văn N trình bày:
Cụ Lê Văn Rưỡng kết hôn với cụ Bùi Thị Tằm (tên thường gọi là Lê Thị
Rưỡng) sinh được 07 người con gồm: Bà Lê Thị Dậu, ông Lê Văn Hải, ông Lê
Văn Nhợi, bà Lê Thị Nhiên, ông Lê Văn N, ông Lê Văn Bốn và ông Lê Văn
Chủng. Cụ Rưỡng chết năm 1977, cụ Tằm chết năm 1994, trước khi chết không để
lại di chúc. Bố mẹ đẻ của cụ Rưỡng và cụ Tằm đều chết trước hai cụ. Ông Chủng
là liệt sỹ không có vợ con.
Bà Dậu chết năm 2015, có chồng là ông Phạm Viết Đồng (đã chết trước bà
Dậu) và 05 người con gồm: Bà Phạm Thị P, ông Phạm Văn T1, ông Phạm Văn T2,
bà Phạm Thị T4, ông Phạm Văn T3.
4
Ông Hải chết năm 2009, vợ cả là bà Trần Thị Hợi (đã ly hôn), vợ hai là bà
Trần Thị Thu Hà. Ông Hải, bà Hợi, bà Hà có bốn người con gồm: Ông Lê Văn
Đại, ông Lê Văn H, ông Lê Văn S, ông Lê Văn Thoả. Ông Đại chết năm 2021, có
vợ là bà Lưu Thị K và 02 con là Lê Văn V và Lê Văn Đ.
Ông Nhợi chết năm 2016, có vợ là Nguyễn Thị N1 và 05 người con gồm: Ông
Lê Thanh Nghị, bà Lê Thị K1, bà Lê Thị Hồng; bà Lê Thị Hà; ông Lê Văn H3.
Bà Lê Thị Nhiên chết năm 2002 có chồng là Phạm Hồng X và 03 người con
gồm: Bà Phạm Thị Ngọc, ông Phạm Hồng S, ông Phạm Hồng 4.
Ông Bốn chết năm 2016 có vợ là Phạm Thị Sen (đã ly hôn) và có 6 người con
gồm: Chị Lê Thị Hồng D, chị Lê Thị Hồng T5, chị Lê Thị T6, chị Lê Thị T7, chị
Lê Thị L, anh Lê Trung T8.
Quá trình chung sống, cụ Rưỡng, cụ Tằm tạo lập được khối tài sản chung
gồm: Thửa đất 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung diện tích 629m
2
(trong đó:
275m
2
đất ở; 200m
2
đất vườn; 154m
2
đất ao nuôi cá); các thửa đất số 13/2 tờ bản
đồ số 19 diện tích 271m
2
và thửa số 17/9, tờ số 19 xã Hải Trung 29m
2
đất lúa.
Sau khi cụ Rưỡng chết, các anh chị em trong gia đình đều lập gia đình ở
riêng, ông Bốn xây nhà trên đất của các cụ ở cùng cụ Tằm đến khoảng năm 1994
thì gia đình ông Bốn chuyển vào Quảng Bình sinh sống. Do ông Hải ly hôn với bà
Hợi, ông Hưng là con ông Hải được giao ở với ông Hải nhưng ông Hải cũng vào
Quảng Bình ở nên ông ông Bốn thương hại đã cho ông Hưng đến ở tại nhà đất của
ông Bốn đã xây trên đất cụ Rưỡng. Vì vậy, tài sản trên đất hiện chỉ còn lại ngôi gia
từ nhỏ xây trên nền móng nhà cũ của cụ Rưỡng; nhà ông Năm xây dựng chỉ còn lại
tường xây hết giá trị sử dụng và công trình nhà cấp bốn công trình phụ liền kề ông
Hưng, bà Mão đang sử dụng.
Do cụ Tằm chết năm 1994 nhưng đến năm 1997, Ủy ban nhân dân (UBND)
huyện Hải Hậu lại công nhận và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ) đối với tài sản cụ Tằm, cụ Rưỡng tạo lập cho riêng cụ Tằm nên
ông Năm đã làm đơn khiếu nại. Tại Quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày
09/7/2020, UBND huyện Hải Hậu đã thu hồi GCNQSDĐ số I974451 ngày
02/01/1997 tên bà Lê Thị Rưỡng (Tằm). Sau khi UBND huyện quyết định hủy,
ông Năm đã kê khai để được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 255, tờ bản đồ
số 18 xã Hải Trung vì ông là con duy nhất của cụ Rưỡng, cụ Tằm còn sống
nhưng không thực hiện được. Nay ông Năm đề nghị Toà án:
1. Công nhận Quyền sử dụng thửa đất số 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung
là tài sản chung hợp pháp của cụ Rưỡng và cụ Tằm.
2. Phân chia di sản thừa kế cụ Rưỡng, cụ Tằm để lại gồm các thửa đất: Thửa
255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung; thửa số 13/2 tờ bản đồ số 19 và thửa số 17/9,
tờ số 19 xã Hải Trung theo quy định pháp luật.
5
Do anh chị em ruột ông Năm đều đã chết, các cháu ông Năm không có nhu
cầu nhận di sản nên ông Năm đề nghị Tòa án giao toàn bộ quyền sử dụng các
thửa đất trên cho ông Năm quản lý sử dụng. Ông Hưng, bà Mão tự đến xây dựng
xin ở nhờ trên đất cụ Rưỡng nên ông Năm không phải bồi thường cho ông Hưng,
bà Mão. Ông Năm không đồng ý công nhận việc cụ Tằm chuyển nhượng cho ông
Hiệu, bà Thêu 12m
2
và không chấp nhận các yêu cầu khác của ông Hưng, bà
Mão.
Tại bản tự khai ngày 08/4/2024 và lời khai trong quá trình tố tụng, bị đơn ông
Lê Văn H trình bày: Ông Hưng công nhận lời khai của ông Năm về mối quan hệ
huyết thống, về tài sản cụ Rưỡng, cụ Tằm chết để lại. Đối với thửa đất 255 tờ bản
đồ số 18 xã Hải Trung: Ông Bốn ở cùng cụ Rưỡng, cụ Tằm; sau khi cụ Rưỡng chết,
cụ Tằm cho ông Bốn khoảng 1/2 thổ đất phía đông làm nhà ở. Năm 1994, sau khi
cụ Tằm chết, gia đình ông Bốn chuyển vào Quảng Bình sinh sống đã bán lại cho
ông Hưng, bà Mão phần nhà đã xây và đất đang ở có giấy chuyển nhượng viết tay.
Ông Năm đi bộ đội và thoát ly từ trước năm 1990. Gia đình ông Hưng, bà Mão vẫn
đóng thuế và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Ngoài ra, ông Hưng còn được
chứng kiến, trước khi cụ Tằm chết, cụ Tằm có chuyển nhượng cho ông Hiệu, bà
Thêu một phần đất phía đông thổ ông Hiệu ghi trong giấy rộng 3m dài 12 m. Việc
chuyển nhượng chỉ lập hợp đồng viết tay có chữ ký của cụ Tằm mà chưa làm thủ
tục sang tên. Thực tế, ông Hiệu, bà Thêu chỉ sử dụng phần đất 12m
2
đất cụ Rưỡng
như kết quả đo hiện trạng, phần còn lại do gia đình ông Hưng, bà Mão sử
dụng. Tổng diện tích thửa số 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung theo hồ sơ địa chính
là 629m², hiện trạng còn lại 596m, giảm 33m² (đất ao), ông Hưng đề nghị:
Công nhận di sản cụ Rưỡng, cụ Tằm để lại bằng nhau và bằng ½ tổng diện
tích đất còn lại còn lại là 596m² thuộc thửa số 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung
là 298m². Xác định các tài sản gồm: Quyền sử dụng thửa số 13/2 tờ bản đồ số 19
và thửa số 17/9, tờ số 19 xã Hải Trung là ruộng nông nghiệp tiêu chuẩn của cụ
Tằm đồng thời là di sản cụ Tằm để lại.
Ông Hưng nhận sử dụng phần di sản cụ Rưỡng để lại hết thời hiệu khởi kiện
diện tích 298m² và đề nghị được giao tại vị trí gia đình ông Hưng đang sử dụng
theo hiện trạng công trình. Phần di sản cụ Tằm để lại diện tích 298m² chưa hết thời
hiệu sau khi trừ đi phần diện tích 12m
2
đã chuyển nhượng cho ông Hiệu, bà Thêu
còn lại diện tích 286m
2
đề nghị chia theo pháp luật cho các thừa kế. Do hiện trạng
ông Hưng đang sử dụng khoảng ½ diện tích đất tương đương phần di sản hết thời
hiệu của cụ Rưỡng nên ông Hưng không nhận phần tặng cho từ các thừa kế khác,
đề nghị trả lại kỷ phần cho các thừa kế hưởng theo kỷ phần được chia. Phần được
hưởng từ bố đẻ là ông Hải, ông Hưng tự nguyện tặng cho ông Năm, không yêu cầu
ông Năm thanh toán giá trị. Đề nghị giao bằng hiện vật cho ông Năm phần đất còn
lại phía tây thổ cắt dọc theo chiều nam bắc vì ông Năm là con duy nhất còn sống
của cụ Rưỡng và cụ Tằm.
6
Tại bản tự khai, tất cả những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ
án đều có lời khai phù hợp với lời khai của ông Năm, ông Hưng về quan hệ huyết
thống, về di sản cụ Rưỡng, cụ Tằm để lại, nhất trí chia thừa kế di sản các cụ để lại
theo quy định pháp luật. Các con ông Bốn gồm chị Duyên, chị Thắm, chị Tươi, chị
Thêu, chị Lợi, anh Thắng đều xác định: Ông Bốn được cụ Rưỡng cho ½ thổ đất
xây nhà ở đến năm 1994 thì chuyển nhượng lại cho ông Hưng sử dụng nên phần
ông Bốn được chia đề nghị giao ông Hưng được toàn quyền sử dụng. Các con của
bà Dậu gồm ông Tý, ông Thế, ông Thanh đề nghị để lại phần di sản được chia xây
nhà từ họ. Các thừa kế của bà Nhiên gồm: Ông Xuân, ông Phạm Sơn, bà Ngọc,
ông Hiếu đề nghị: Tặng cho ông Hưng ½ di sản được chia, phần còn lại để lại xây
nhà từ họ. Ông Nghị (con ông Nhợi), ông Lê Sơn, bà Khuyên, anh Vỹ đề nghị Toà
án chia phần di sản ông Nhợi, ông Hải được hưởng từ cụ Rưỡng, cụ Tằm bằng
hiện vật. Ông Thỏa, bà Hà xin nhận phần được chia từ ông Hải bằng hiện vật và tự
nguyện tặng ông Hưng.
Tại bản tự khai ngày 06/8/2024, ông Lê Văn H5, bà Nguyễn Thị Thêu trình
bày: Năm 1976 cụ Rưỡng chết, cụ Tằm sinh sống cùng gia đình ông Bốn. Phía tây
thổ cụ Rưỡng là thổ đất vợ chồng ông Hiệu mua, đã nộp tiền mua đất cho UBND
xã Hải Trung và sử dụng từ năm 1990. Ông Bốn ở với cụ Rưỡng đến khoảng năm
1994 thì đưa vợ con vào Quảng Bình sinh sống bán lại phần đất được cụ Rưỡng
cho ông Hưng. Cũng thời điểm ấy, do nhu cầu sử dụng phù hợp hiện trạng, vợ
chồng ông Hiệu đã đề nghị cụ Rưỡng chuyển nhượng cho một phần đất chiều rộng
mặt đường giáp nhà ông Hiệu về phía đông là 3m dài 12m, diện tích 36m
2
với giá
160.000đ, có giấy nhượng đất viết tay có chữ ký của cụ Tằm. Cụ Tằm đã nhận tiền,
vợ chồng ông Hiệu cũng sử dụng đất từ đó cho đến nay nhưng chưa làm thủ tục tại
cơ quan có thẩm quyền. Do phía sau phần đất này là nhà từ nên vợ chồng ông Hiệu
chỉ sử dụng một phần đất diện tích 12m
2
như kết quả đo hiện trạng, phần còn lại do
gia đình ông Hưng sử dụng. Ông Hiệu, bà Thêu nhất trí yêu cầu của ông Hưng đề
nghị Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng đối với phần đất diện tích 12 m
2
giữa cụ Rưỡng và vợ chồng ông Hiệu, bà Thêu đồng thời công nhận phần đất này
thuộc quyền sử dụng của ông Hiệu, bà Thêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu phát biểu:
- Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Việc chấp
hành pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và
Hội đồng xét xử cũng như của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án đến
trước khi Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ các Điều 611, 612,
613,623,649, 650, 651, 652, 660 Bộ luật Dân sự: Chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật của ông Lê Văn N.
Xác nhận di sản thừa kế của cụ Lê Văn Rưỡng và cụ Bùi Thị Tằm để lại là
Thửa đất 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung diện tích còn lại là 596m
2
(giảm 33m
2
7
so với hồ sơ địa chính); di sản cụ Tằm để lại gồm thửa số 13/2 và thửa 17/9 cùng
thuộc tờ bản đồ số 19 xã Hải Trung (đất lúa). Công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng diện tích 12m
2
giữa ông Hiệu, bà Thêu và cụ Tằm.
.
Xác định hàng
thừa kế thứ nhất của cụ Rưỡng, cụ Tằm gồm ông Hải, ông Nhợi, bà Nhiên, bà Dậu,
ông Bốn, ông Năm. Do ông Hải, ông Nhợi, ông Bốn, bà Nhiên, bà Dậu đều chết
sau cụ Rưỡng, cụ Tằm nên vợ, chồng và các con hợp pháp của những người trên là
những người thừa kế quyền hưởng di sản do ông Hải, ông Nhợi, bà Nhiên, bà Dậu,
ông Bốn để lại. Áp dụng thời hiệu chia thừa kế, xác định phần di sản cụ Rưỡng để
lại diện tích 298m
2
thuộc thửa đất 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung hết thời hiệu
khởi kiện giao ông Hưng được quyền sử dụng. Di sản cụ Tằm để lại được trừ đi
diện tích 12m
2
đã chuyển cho ông Hiệu, bà Thêu còn lại diện tích 286m
2
thuộc
thửa đất 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung; do không tách được thành nhiều thửa
nên giao toàn bộ bằng hiện vật cho ông Năm. Cụ Rưỡng chết trước thời điểm chia
ruộng tiêu chuẩn nên không có đất ruộng, đất ruộng cụ Tằm không đương sự nào
có yêu cầu chia hiện vật nên giao toàn bộ cho ông Năm sử dụng. Ghi nhận sự tự
nguyện của ông Hưng tự nguyện tặng cho ông Năm phần di sản được chia từ ông
Hải. Đối với phần di sản các thừa kế của ông Nhợi, bà Nhiên, ông Bốn, ông Thỏa,
bà Hà tặng cho ông Hưng không nhận đề nghị giao lại cho các thừa kế này sở hữu,
sử dụng. Do phần đất còn lại không đủ điều kiện để tách thành nhiều thửa nên phần
di sản những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác được chia đề nghị giao
bằng hiện vật cho ông Năm sử dụng và thanh toán chênh lệch cho các thừa kế khác
theo kỷ phần được chia.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thanh, ông Thế,
ông Tý, ông Xuân, ông Phạm Sơn, ông Hiếu, bà Ngọc, chị Duyên, chị Thắm, chị
Tươi, chị Thêu, chị Lợi, anh Thắng, ông Hiệu, bà Thêu, ông Nghị, bà Trần Hà, ông
Thỏa, ông Lê Sơn, bà Lưu Khuyên, anh Vỹ có lời khai xin vắng mặt. Bà Tuất, bà
Phượng, bà Lê Hà, ông Hùng, bà Hồng, bà Lê Khuyên, bà Nguyên, anh Đông vắng
mặt lần hai không lý do. Căn cứ các Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự có tên trên là phù hợp.
[2] Về thời điểm mở thừa kế: Theo trích lục khai tử, cụ Lê Văn Rưỡng chết
ngày 12 tháng 12 năm 1977; cụ Lê Thị Rưỡng (Bùi Thị Tằm) chết năm 1994. Căn
cứ Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế ngày
30/8/1990 và Án lệ số 26/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao thông qua ngày 17/10/2018 thì thời điểm mở thừa kế của cụ Lê Văn Rưỡng
được xác định là ngày 10/9/1990. Thời điểm mở thừa kế của cụ Lê Thị Rưỡng
được xác định là ngày 20 tháng 8 năm 1994.
[3] Về diện và hàng thừa kế: Bố mẹ đẻ cụ Rưỡng, cụ Tằm đều chết trước cụ
Rưỡng, cụ Tằm. Cụ Rưỡng, cụ Tằm sinh được 07 người con chung gồm bà Dậu,
8
bà Nhiên, ông Hải, ông Nhợi, ông Năm, ông Bốn, ông Chủng nên 07 người con
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Rưỡng, cụ Tằm được hưởng di sản do hai cụ để
lại theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự . Do bà Dậu, bà Nhiên, ông Hải, ông
Nhợi, ông Bốn, ông Chủng đều đã chết (chết sau cụ Rưỡng, cụ Tằm) trong đó ông
Chủng liệt sỹ không vợ con nên ông Phạm Văn T3, ông Phạm Văn Tuất, bà Phạm
Thị P, ông Phạm Văn T1, ông Phạm Văn T2 được hưởng phần di sản của bà Dậu
được hưởng; bà Trần Thị Thu Hà, ông Lê Văn H, ông Lê Văn S, ông Lê Văn T, bà
Lưu Thị K, anh Lê Văn V, anh Lê Văn Đ được hưởng phần di sản của ông Hải
được hưởng; bà Nguyễn Thị N1, ông Lê Quang N2, bà Lê Thu H2, ông Lê Văn
H3, bà Lê Thị Hồng, Lê Thị K1 được hưởng phần di sản của ông Nhợi được
hưởng; ông Phạm Hồng X, bà Phạm Hồng Ngọc, ông Phạm Hồng S, ông Phạm
Hồng 4 được hưởng phần di sản của bà Nhiên được hưởng; chị Lê Thị Hồng D, Lê
Thị Hồng T5, Lê Thị T6, Lê Thị T7, Lê Thị L và anh Lê Trung T8 được hưởng
phần di sản của ông Bốn được hưởng theo quy định tại các Điều 613, 614, 650,
651 Bộ luật Dân sự.
[5] Về di sản của cụ Lê Văn Rưỡng và cụ Bùi Thị Tằm:
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thống nhất xác định: Di sản cụ
Rưỡng, cụ Tằm chết để lại gồm: Thửa đất 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung diện
tích 629m
2
(trong đó: 275m
2
đất ở; 200m
2
đất vườn; 154m
2
đất ao nuôi cá); thửa số
13/2 tờ bản đồ số 19 diện tích 271m
2
đất lúa và thửa số 17/9 tờ số 19 xã Hải Trung
diện tích 29m
2
đất lúa đã được cấp GCNQSDĐ số I974451 ngày 02/11/1997 tên bà
Lê Thị Rưỡng nhưng đã bị thu hồi theo Quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày
09/7/2020 của UBND huyện Hải Hậu. Kết quả đo hiện trạng, thửa đất 255 tờ bản
đồ số 18 xã Hải Trung còn lại 596m
2
giảm 33m
2
(đất ao) do sai số khi đo đạc. Vì
vậy, di sản cụ Rưỡng và cụ Tằm để lại trong khối tài sản chung được xác định
bằng 298m
2
. Cụ Tằm đã chuyển nhượng cho ông Hiệu, bà Thêu 12 m
2
(đất vườn)
nên di sản cụ Tằm còn lại là 286m
2
(trong đó: 138m
2
đất ở; 88m
2
đất vườn; 60m
2
đất ao nuôi cá). Do cụ Rưỡng chết trước thời điểm chia ruộng tiêu chuẩn nên thửa
số 13/2 tờ bản đồ số 19 xã Hải Trung diện tích 271m
2
đất lúa và thửa số 17/9 tờ số
19 xã Hải Trung diện tích 29m
2
đất lúa đã được cấp GCNQSDĐ số I974451 ngày
02/11/1997 tên bà Lê Thị Rưỡng là tài sản riêng của cụ Tằm nên thuộc di sản cụ
Tằm để lại.
[6] Về áp dụng thời hiệu khởi kiện:
Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu để người
thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế
đang quản lý di sản đó…”.
Cụ Lê Văn Rưỡng chết ngày 12/12/1977 nên thời điểm mở thừa kế di sản của
cụ Rưỡng được xác định là ngày 10/9/1990 theo quy định tại khoản 4 Điều 36
Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990. Tính đến thời điểm ông Năm khởi kiện (ngày
28/11/2023), thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ Rưỡng đã hết. Trước khi Toà
9
án ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc, bị đơn ông Lê Văn H yêu cầu Tòa án
áp dụng quy định về thời hiệu chia thừa kế để chia thừa kế tài sản cụ Rưỡng để lại.
Do yêu cầu áp dụng thời hiệu của ông Hưng đúng hạn, phù hợp quy định tại khoản
2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 149 Bộ luật Dân sự nên được Hội đồng
xét xử chấp nhận.
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều xác định: Từ năm 1994 đến
nay, ông Hưng là người thừa kế trực tiếp quản lý, sử dụng di sản cụ Rưỡng, cụ
Tằm để lại; đã xây nhà ở và các công trình phục vụ sinh hoạt trên đất; ông Năm,
ông Bốn, bà Dậu, ông Nhợi, bà Nhiên và các cháu đều biết rõ nhưng không ai có ý
kiến gì, giao trách nhiệm cho vợ chồng ông Hưng thờ cúng cụ Rưỡng, cụ Tằm. Vì
vậy, cần chấp nhận yêu cầu của ông Hưng, giao ông Hưng được sử dụng phần di
sản cụ Rưỡng để lại hết thời hiệu khởi kiện diện tích 298m
2
(trong đó: 137m
2
đất
ở; 100m
2
đất vườn; 61m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ bản đồ 18 xã Hải Trung
tên cụ Rưỡng là phù hợp với Điều 623 Bộ luật Dân sự.
Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 02/7/2024 thể hiện: Hiện trạng ông Hưng,
bà Mão sử dụng diện tích 291m
2
, ít hơn so với phần di sản cụ Rưỡng để lại giao
ông Hưng được quyền sử dụng là 7m
2
(đất ở). Phần đất này cùng với phần đất được
chia thừa kế, ông Hưng tự nguyện giao ông Năm sử dụng, không yêu cầu ông Năm
thanh toán giá trị. Xét yêu cầu của ông Hưng là tự nguyện, không trái pháp luật. Vì
vậy cần giao cho ông Hưng sử dụng phần đất phía đông thửa diện tích 291 m
2
(trong đó: 130m
2
đất ở; 100m
2
đất vườn; 61m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ
bản đồ 18 xã Hải Trung tên cụ Rưỡng. Phần di sản cụ Tằm còn lại là: Phần đất
diện tích 286m
2
(trong đó: 138m
2
đất ở; 88m
2
đất vườn; 60m
2
đất ao nuôi cá) thuộc
thửa 255 tờ bản đồ 18 xã Hải Trung tên cụ Rưỡng chưa hết thời hiệu khởi kiện sẽ
được chia cho các thừa kế của cụ Tằm theo quy định pháp luật.
Tại biên bản định giá ngày 02/7/2024, Hội đồng định giá đã xác định: Giá đất
ở là 5.100.000đ/m
2
; giá đất vườn ao là 2.500.000đ/m
2
; giá đất nông nghiệp (đất
lúa) là 55.000đ/m
2
. Do đó, phần đất giao cho ông Hưng sử dụng diện tích 291 m
2
(trong đó: 130m
2
đất ở; 100m
2
đất vườn; 61m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ
bản đồ 18 xã Hải Trung tên cụ Rưỡng trị giá 1.065.500.000đ. Di sản cụ Tằm gồm:
Phần đất diện tích 286m
2
(trong đó: 138m
2
đất ở; 88m
2
đất vườn; 60m
2
đất ao nuôi
cá) thuộc thửa 255 tờ bản đồ 18 xã Hải Trung tên cụ Rưỡng trị giá 1.073.800.000đ;
thửa số 13/2 tờ bản đồ số 19 xã Hải Trung diện tích 271m
2
đất lúa và thửa số 17/9
tờ số 19 xã Hải Trung diện tích 29m
2
đất lúa đã được cấp GCNQSDĐ số I974451
ngày 02/11/1997 tên bà Lê Thị Rưỡng tổng giá trị là 16.500.000đ; tổng cộng:
1.090.300.000đ.
[7] Chia di sản thừa kế của cụ Tằm:
Di sản cụ Tằm chia thành 06 suất cho 06 người con gồm: Bà Dậu, bà Nhiên,
ông Hải, ông Nhợi, ông Bốn, ông Năm. Mỗi suất thừa kế được chia diện tích
47,6m
2
đất thuộc thửa 255 tờ bản đồ 18 xã Hải Trung trị giá 178.966.000đ và 50m
2
đất lúa trị giá 2.750.000đ; tổng cộng 1.073.800.000đ;
10
Căn cứ vị trí, hình thể phần đất còn lại sau khi chia ông Hưng thì phần diện
tích 47,6 m
2
mà các thừa kế của bà Dậu, bà Nhiên, ông Nhợi, ông Hải, ông Bốn
được chia tại thửa 255 tờ bản đồ 18 xã Hải Trung không đủ điều kiện tách thửa
theo quy định của địa phương. Vì vậy, yêu cầu chia thừa kế bằng hiện vật của các
thừa kế khác của cụ Tằm không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Giao toàn bộ di
sản cụ Tằm để lại bằng hiện vật gồm: Phần đất diện tích 286m
2
(trong đó: 138m
2
đất ở; 88m
2
đất vườn; 60m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ bản đồ 18 xã Hải
Trung tên cụ Rưỡng trị giá 1.073.800.000đ; thửa số 13/2 tờ bản đồ số 19 xã Hải
Trung diện tích 271m
2
đất lúa và thửa số 17/9 tờ số 19 xã Hải Trung diện tích
29m
2
đất lúa trị giá 16.500.000đ; tổng cộng 1.090.300.000đ cho ông Năm sử dụng
và thanh toán bằng giá trị kỷ phần được hưởng cho các thừa kế của ông Nhợi, bà
Dậu, bà Nhiên, ông Hải, ông Bốn.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Nghị không đề nghị chia phần di sản cụ Nhợi
được hưởng cho ông Nghị và các thừa kế khác của ông Nhợi mà đề nghị được giao
toàn bộ phần di sản cụ Nhợi được chia cho ông Nghị quản lý; các thừa kế khác của
ông Nhợi gồm bà Nguyên, ông Hùng, bà Hà, bà Hồng không ý kiến đề nghị. Ông
Thanh, ông Thế, ông Tý không đề nghị chia phần di sản bà Dậu được hưởng cho
ông Thanh, ông Thế, ông Tý và các thừa kế khác của bà Dậu; các thừa kế khác của
bà Dậu là bà Tuất, bà Phượng không ý kiến đề nghị. Ông Xuân, ông Sơn, ông
Hiếu, bà Ngọc, chị Duyên, chị Thắm, chị Tươi, chị Thêu, chị Lợi, anh Thắng đề
nghị chia phần di sản bà Nhiên, ông Bốn được hưởng theo quy định pháp luật. Ông
Hưng, bà Hà, ông Sơn, ông Thỏa, bà Khuyên, anh Vỹ đề nghị chia thừa kế theo
quy định pháp luật. Vì vậy, giao toàn bộ kỷ phần thừa kế ông Nhợi được hưởng
cho ông Nghị quản lý; giao toàn bộ kỷ phần thừa kế ông Dậu được hưởng cho ông
Tý quản lý; giao toàn bộ kỷ phần thừa kế của bà Nhiên được hưởng cho ông Phạm
Hồng S quản lý; giao toàn bộ kỷ phần thừa kế ông Bốn được hưởng cho anh Lê
Trung T8 quản lý; di sản của ông Hải chia đều cho các thừa kế của ông Hải.
Trường hợp các thừa kế của bà Dậu, ông Nhợi, bà Nhiên, ông Bốn không tự thỏa
thuận phân chia phần di sản các ông/bà được chia từ di sản cụ Tằm thì được quyền
khởi kiện, Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ án khác.
Ông Sơn, bà Khuyên, anh Vỹ yêu cầu được nhận phần di sản được chia; ông
Thỏa, bà Hà tặng cho phần di sản được chia cho ông Hưng nhưng ông Hưng không
nhận. Chia thừa kế tài sản ông Hải được hưởng từ di sản cụ Tằm như đã nhận định
ở trên là phần đất diện tích 47,6m
2
đất thuộc thửa 255 tờ bản đồ 18 xã Hải Trung
và 50m
2
đất lúa có tổng giá trị bằng 181.716.000đ thành 05 suất thừa kế cho bà Hà,
ông Đại, ông Hưng, ông Sơn, ông Thỏa (bà Hợi đã ly hôn với ông Hải nên không
được hưởng) mỗi suất trị giá 36.343.000đ. Do các thừa kế của ông Đại gồm anh
Vỹ, anh Đông, bà Khuyên không yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản ông Đại
được hưởng nên tạm giao phần ông Đại được hưởng cho bà Khuyên quản lý. Phần
ông Hưng được chia ông Hưng tự nguyện tặng cho ông Năm.
11
Như vậy, trừ phần được chia và phần được ông Hưng tặng cho, ông Năm
còn phải thanh toán cho các thừa kế của ông Nhợi gồm: Ông Nghị, bà Nguyên, ông
Hùng, bà Hà, bà Hồng số tiền 181.716.000đ; thanh toán cho các thừa kế của bà
Dậu gồm: Ông Tý, ông Thanh, ông Thế, bà Tuất, bà Phượng số tiền 181.716.000đ;
thanh toán cho các thừa kế của bà Nhiên gồm: Ông Xuân, ông Sơn, ông Hiếu, bà
Ngọc số tiền 181.716.000đ; thanh toán cho các thừa kế của ông Bốn gồm: Chị
Duyên, chị Thắm, chị Thêu, chị Tươi, chị Lợi, ông Thắng (bà Sen đã ly hôn với
ông Bốn nên không được chia) số tiền 181.716.000đ; thanh toán cho các thừa kế
của ông Đại gồm bà Khuyên, anh Vỹ, anh Đông số tiền số tiền 36.343.000đ; thanh
toán cho ông Sơn, ông Thỏa, bà Hà mỗi người số tiền 36.343.000đ.
[8] Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí xem xét thẩm định là 10.000.000đ. Quá
trình giải quyết vụ án, ông Lê Văn N đã nộp tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại
chỗ số tiền 10.000.000đ. Tại phiên tòa, ông Hưng tự nguyện thanh toán cho ông
Năm ½ chi phí tố tụng. Do yêu cầu của ông Hưng là tự nguyện, phù hợp pháp luật
nên cần buộc ông Hưng phải thanh toán số tiền 5.000.000đ chi phí tố tụng cho ông
Năm.
[9] Về án phí:
Các đương sự phải nộp án phí có giá ngạch tính trên giá trị tài sản được chia
thừa kế.Tuy nhiên, ông Năm thuộc diện người cao tuổi, đã có đơn xin miễn án phí
nên được xét miễn án phí chia tài sản. Ông Hưng hoàn cảnh khó khăn được chính
quyền địa phương xác nhận nên giảm cho ông Hưng 1/2 tiền án phí phải nộp. Ông
Năm phải nộp án phí đối với phần di sản nhận tặng cho từ ông Hưng.
Đối với án phí yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất: Do yêu cầu của ông Hưng được Tòa án chấp nhận nên ông Hưng không phải
nộp án phí đối với yêu cầu này. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, ông Hưng tự
nguyện nhận nộp số tiền án phí yêu cầu công nhận hợp đồng và đề nghị trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 611, 612, 613, 614, 623, 649, 650, 651,652, 660 Bộ luật Dân
sự; Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự:
1. Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn N về việc chia thừa kế tài sản cụ Lê
Văn Rưỡng, cụ Bùi Thị Tằm để lại theo quy định pháp luật.
2. Xác định tài sản chung cụ Lê Văn Rưỡng, cụ Bùi Thị Tằm (tức Lê Thị
Rưỡng) để lại là thửa đất 255 tờ bản đồ số 18 xã Hải Trung diện tích 596m
2
(trong
đó: 275m
2
đất ở; 200m
2
đất vườn; 121m
2
đất ao nuôi cá), giảm 33m
2
(đất ao nuôi
cá) so với GCNQSDĐ số I974451 ngày 02/11/1997 tên bà Lê Thị Rưỡng nhưng đã
bị thu hồi theo Quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 09/7/2020 của UBND huyện
Hải Hậu. Nguyên nhân giảm do sai số khi đo đạc.
12
3. Xác định thửa số 13/2 tờ bản đồ số 19 diện tích 271m
2
đất lúa và thửa số
17/9 tờ số 19 xã Hải Trung diện tích 29m
2
đất lúa đã được cấp GCNQSDĐ số
I974451 ngày 02/11/1997 tên bà Lê Thị Rưỡng là tài sản riêng của cụ Bùi Thị
Tằm.
4. Xác định di sản thừa kế của cụ Rưỡng là phần đất diện tích 298m
2
(trong
đó: 137m
2
đất ở; 100m
2
đất vườn; 61m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ bản đồ
18 xã Hải Trung tên cụ Lê Thị Rưỡng. Phần di sản này đã hết thời hiệu khởi kiện.
5. Xác định di sản thừa kế của Bùi Thị Tằm là phần đất diện tích 298m
2
(trong đó: 138m
2
đất ở; 100m
2
đất vườn; 60m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ
bản đồ 18 xã Hải Trung tên cụ Lê Thị Rưỡng.
6. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Bùi Thị
Tằm và ông Lê Văn H5, bà Nguyễn Thị Thêu. Công nhận vợ chồng ông Hiệu, bà
Thêu được quyền sử dụng diện tích 12m
2
(đất vườn) thuộc thửa 255 tờ bản đồ số
18 xã Hải Trung tên cụ Lê Thị Rưỡng, ký hiệu S3 được giới hạn bởi các điểm
9,10,11,17,9.
7. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Lê Văn H tặng cho ông Lê Văn N phần
diện tích vượt quá hiện trạng sử dụng 7m
2
(đất ở) trị giá 35.700.000đ (ba mươi lăm
triệu bảy trăm nghìn đồng) và phần được chia thừa kế trị giá 36.343.000đ (ba mươi
sáu triệu ba trăm bốn ba nghìn đồng).
8. Chia di sản thừa kế cụ Rưỡng, cụ Tằm để lại:
8.1. Chia ông Lê Văn H được quyền sử dụng diện tích 291 m
2
(trong đó:
130m
2
đất ở; 100m
2
đất vườn; 61m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ bản đồ 18 xã
Hải Trung tên cụ Lê Thị Rưỡng, ký hiệu S2 được giới hạn bởi các điểm
3,4,5,6,7,8,3 trị giá 1.065.500.000đ (một tỷ không trăm sáu mươi lăm triệu năm
trăm nghìn đồng). Vợ chồng ông Hưng, bà Mão được sở hữu nhà cấp bốn, công
trình xây dựng trên phần đất được chia.
8.2. Chia ông Lê Văn N được quyền sử dụng: Phần đất diện tích 293 m
2
(trong đó: 145m
2
đất ở; 88m
2
đất vườn; 60m
2
đất ao nuôi cá) thuộc thửa 255 tờ bản
đồ 18 xã Hải Trung tên cụ Lê Thị Rưỡng, ký hiệu S1 được giới hạn bởi các điểm
1,2,3,8,9,10,11,12,13,14,1 trị giá 1.109.500.000đ (một tỷ một trăm linh chín triệu
năm trăm nghìn đồng) và được quyền sử dụng toàn bộ ruộng nông nghiệp tiêu
chuẩn của cụ Tằm gồm: Thửa số 13/2 tờ bản đồ số 19 diện tích 271m
2
đất lúa và
thửa số 17/9 tờ số 19 xã Hải Trung diện tích 29m
2
đất lúa tổng giá trị 16.500.000đ
(mười sáu triệu năm trăm nghìn đồng); tổng cộng 1.126.000.000đ (một tỷ một trăm
hai mươi sáu triệu đồng).
(Việc phân chia có sơ đồ vẽ kèm theo).
8.3. Ông Lê Văn N phải: Thanh toán cho ông Lê Quang N2 số tiền
181.716.000đ (một trăm tám mươi mốt triệu bảy trăm mười sáu nghìn đồng); thanh
toán cho ông Phạm Văn T1 số tiền 181.716.000đ (một trăm tám mươi mốt triệu
bảy trăm mười sáu nghìn đồng); thanh toán cho ông Phạm Hồng S số tiền
181.716.000đ (một trăm tám mươi mốt triệu bảy trăm mười sáu nghìn đồng); thanh
toán cho anh Lê Trung T8 số tiền 181.716.000đ (một trăm tám mươi mốt triệu bảy
13
trăm mười sáu nghìn đồng); thanh toán cho bà Trần Thị Thu Hà, bà Lưu Thị K,
ông Lê Văn S, ông Lê Văn T mỗi người số tiền 36.343.000đ (ba sáu triệu ba trăm
bốn ba nghìn đồng).
Ông Nghị, ông Tý, ông Sơn, anh Thắng, bà Khuyên có trách nhiệm tự nguyên
thanh toán hoặc thỏa thuận thanh toán phần di sản được hưởng với những người
cùng hàng thừa kế của ông Nhợi, bà Dậu, bà Nhiên, ông Bốn, ông Đại. Trường hợp
không tự thỏa thuận, một trong các đương sự thuộc diện và hàng thừa kế của ông
Nhợi, bà Dậu, bà Nhiên, ông Bốn, ông Đại được quyền khởi kiện Tòa án phân chia
phần di sản mà các cụ được chia như đã nhận định trong bản án.
8.4. Ông Lê Văn H đang quản lý, sử dụng toàn bộ di sản cụ Rưỡng, cụ Tằm
để lại nên có nghĩa vụ bàn giao phần tài sản ông Năm được chia và phần diện tích
ông Hiệu, bà Thêu được công nhận từ hợp đồng chuyển nhượng cho ông Năm, ông
Hiệu, bà Thêu sử dụng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
9. Chi phí tố tụng: Buộc ông Lê Văn H phải trả ông Lê Văn N 5.000.000đ
(năm triệu đồng) chi phí tố tụng.
10. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 3, khoản 7 Điều 27
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ
phí Toà án:
- Ông Lê Văn N phải nộp 3.602.000đ (ba triệu sáu trăm linh hai nghìn đồng)
án phí;
- Ông Lê Văn H phải nộp 21.982.000đ (hai mươi mốt triệu chín trăm tám
mươi hai nghìn đồng) và 300.000đ án phí yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất.
Ông Hưng đã nộp tạm ứng số tiền (ba trăm nghìn đồng) 300.000đ tại Biên lai số
0003275 ngày 07/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu. Ông
Hưng còn phải nộp 21.982.000đ (hai mươi mốt triệu chín trăm tám mươi hai nghìn
đồng) tiền án phí;
- Ông Lê Quang N2 phải nộp 9.085.000đ (chín triệu không trăm tám mươi
lăm nghìn đồng) án phí;
- Ông Phạm Văn T1 phải nộp 9.085.000đ (chín triệu không trăm tám mươi
lăm nghìn đồng) án phí;
- Anh Lê Trung T8 phải nộp 9.085.000đ (chín triệu không trăm tám mươi
lăm nghìn đồng) án phí;
14
- Bà Trần Thu Hà, bà Lưu Thị K, ông Lê Văn S, ông Lê Văn T mỗi người
phải nộp 1.817.000đ (một triệu tám trăm mười bảy nghìn đồng) án phí.
11. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án
trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- TAND tỉnh;
- VKSND huyện;
- Chi cục THADS huyện;
- UBND xã Hải Trung;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Thị Hòe
15
16
Tải về
Bản án số 159/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 159/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm