Bản án số 143/2024/DS-PT ngày 16/08/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng hợp tác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 143/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 143/2024/DS-PT ngày 16/08/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Thuận
Số hiệu: 143/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng hợp tác góp vốn thực hiện dự án
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN

Bản án số: 143/2024/DS-PT
Ngày: 16 - 8 - 2024
V/v tranh chấp hợp đồng góp vốn.

- - 
NHÂN DANH


- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hồng Thái
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Quản
Ông Lê Minh Tuấn
- Thư phiên tòa: Ông Đức Khang Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tham gia phiên tòa:
Bà Võ Thị Phương Linh – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 13 và 16 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 254/2023/TLPT-DS
ngày 25 tháng 12 năm 2023, về việc: “Tranh chấp hợp đồng góp vốn”, do Bản
án dân sự thẩm số 45/2023/DS-ST ngày 29 tháng 6 năm 2023 của Tòa án
nhân dân thành phố P bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử s
156/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bùi Thị Lệ T, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số A đường số
H, khu dân cư N, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Đoàn Thị Thu H, sinh năm 1984; Địa ch: S B N, phường T, Qun
A, Thành ph H Chí Minh (Văn bản y quyn ngày 14/01/2024);
2. Ông Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1990; Địa chỉ: Số F H, phường F,
Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản y quyn ngày 07/4/2022).
- Bị đơn: Công ty TNHH K; Địa chỉ: Số MN, phường G, thành phố V, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1971; Địa
chỉ: Số A L, phường I, thành phố V, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (Văn bản y quyền
ngày 22/3/2024).
- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty TNHH K.
Tại phiên tòa, có mặt ông Nguyễn Ngọc T1, bà Nguyễn Thị Kim L; còn lại
vắng mặt.
2

Theo Bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Bùi ThLệ
T và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 25/6/2009, Bùi Thị Lệ T hợp đồng số 193/HĐGV-KL góp
vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và nhận quyền sử dụng đất của Dự án Khu
biệt thự cao cấp Casa L thành phố P. Theo hợp đồng đã ký, nguyên đơn đã góp
vốn theo giai đoạn đối với biệt thự số E-20 diện tích 400m
2
(rộng 15,9m -
dài 24,2m). Giá trị vốn góp theo hợp đồng là 1.640.000.000 đồng. Bà Bùi Thị Lệ
T đã góp được 60% phần vốn theo thỏa thuận, tương đương 984.000.000 đồng.
Căn cứ phụ lục hợp đồng số 01 đính kèm hợp đồng về lịch trình góp vốn sẽ chia
thành 08 giai đoạn. Quá trình thực hiện hợp đồng, Bùi Thị Lệ T đã đóng đầy
đủ cho Công ty tới lần thanh toán thứ 05 và hai bên có thông báo, tương trợ nhau
không trở ngại gì. Tới đợt thanh toán thứ 06, theo quy định thì Bùi Thị Lệ
T sẽ phải tiếp tục đóng tiền 15% sau khi Công ty thực hiện bó vỉa (nơi chuyển
tiếp độ cao giữa mặt đường và vỉa hè). Thế nhưng thời gian này i Thị Lệ T
được thông báo lãnh đạo Công ty bị bắt xử hình sự nên mọi hoạt động bị
xáo trộn. T cũng kiên nhẫn chờ đợi Công ty thông báo nộp tiền khi đủ điều
kiện thanh toán đợt 06. Thế nhưng, kể từ cuối năm 2010 tới năm 2019, T
không nhận được bất kỳ thông báo nào của Công ty về việc thực hiện dự án,
dòng tiền, giao nền hay thông báo chấm dứt hợp đồng. Năm 2019, bà Bùi Thị Lệ
T và chồng thỏa thuận phân chia tài sản, chồng bà T xác nhận đây là tài sản riêng
của bà T nên đã cầm giấy tờ xuống Công ty TNHH K làm việc, bổ sung thông tin
thì được Công ty cho biết đã chấm dứt hợp đồng. T không đồng ý việc này,
đề nghị Công ty phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, giao trả lại nền đất số E-20
Khu biệt thự cao cấp Casa L thành phố P, bởi trong hợp đồng tại Điều 10 đã quy
định "Mọi thông báo, yêu cầu, khiếu nại hoặc thư từ giao dịch một bên gửi
cho bên kia theo hợp đồng này phải được lập thành văn bản gửi đến địa chỉ
của các bên...”. Từ sau khi kết thúc đợt thanh toán thứ 05, bà T không nhận được
bất kỳ thông tin nào từ phía Công ty TNHH K về việc thực hiện lịch thanh toán,
bàn giao nền đất theo quy định của hợp đồng đã ký. Nay Công ty đơn phương
chấm dứt hợp đồng đang xâm phạm nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của
T. T khởi kiện đề nghị Tòa án tuyên buộc: Công ty TNHH K tiếp tục thực
hiện hợp đồng số 193/HĐGV-KL ngày 25/6/2009 về việc góp vốn, nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thực hiện Dự án Khu biệt thự cao cấp Casa L thành
phố P phải khôi phục quyền lợi cho nguyên đơn liên quan tới nền biệt thự E-
20 Dự án Khu biệt thự cao cấp Casa L thành phố P. Buộc Công ty TNHH K phải
bồi thường thiệt hại cho T tương đương với giá trị tiền tại thời điểm hiện tại
trong trường hợp Công ty bán đất cho người khác.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
đơn xin xét xử vắng mặt gửi bản trình bày xác định yêu cầu: Hiện nay bị đơn
đã bán đất cho người khác nên yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng góp vốn số
193/HĐGV-KL ngày 25/06/2009 các Phụ lục kèm theo do lỗi của Công ty
3
TNHH K. Buộc Công ty TNHH K hoàn trả cho bà Bùi Thị Lệ T số tiền
984.000.000 đồng bồi thường thiệt hại cho Bùi Thị Lệ T số tiền
2.672.400.000 đồng theo g thị trường tại Chứng thư thẩm định giá số
0417/23/CT-VNJP ngày 17/04/2023 của Công ty Cổ phần Đ.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm, Công ty TNHH K vắng mặt,
không cung cấp tài liệu, chứng cứ, cũng không trình bày ý kiến về yêu cầu khi
kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sthẩm số 45/2023/DS-ST ngày 29 tháng 6 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố P đã quyết định:
Căn cứ vào: - Khoản 3 Điều 26; điểm a, b khoản 1 Điều 35; điểm c khoản
1 Điều 39; điểm g khoản 1 Điều 40; khoản 2, khoản 4 Điều 91; khoản 2 Điều 92;
Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điểm a, b khoản 2 Điều 7 khoản 1 Điều 39 Luật Kinh
doanh bất động sản năm 2006;
- Điều 127; Điều 128; Điều 410; Điều 697 Bộ luật Dân s
năm 2005;
- Điểm a, b khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Lệ T như sau:
- Tuyên bố hợp đồng góp vốn đầu xây dựng sở hạ tầng kỹ thuật
nhận quyền sdụng đất số 193/HĐGV-KL ngày 25/06/2009 giữa bà Bùi Thị Lệ
T với Công ty TNHH K là hợp đồng dân sự vô hiệu.
- Buộc Công ty TNHH K trả lại cho i Thị Lệ T số tiền đã nhận là
984.000.000 đồng (Chín trăm tám mươi bốn triệu đồng). Bồi thường thiệt hại
cho Bùi Thị Lệ T 2.672.400.000 đồng (Hai tỷ, sáu trăm bảy mươi hai triệu,
bốn trăm nghìn đồng).
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên lãi suất chậm thi hành án, án phí,
quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự theo quy định
của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 28/7/2023, bị đơn Công ty TNHH K kháng
cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm: Tuyên bố hợp đồng góp vốn đầu tư xây dựng
sở hạ tầng kỹ thuật nhận quyền sử dụng đất số 193/HĐGV-KL ngày
25/06/2009 giữa bà Bùi Thị Lệ T với Công ty TNHH K hiệu Công ty
TNHH K chỉ trách nhiệm trả lại cho Bùi Thị Lệ T số tiền vốn đã góp
984.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên kháng cáo của bị
đơn trình bày ý kiến: Thực tế Công ty đã đủ điều kiện để chuyển nhượng
đất từ năm 2015, sau đó Công ty đã gửi thông báo cho bà Bùi Thị Lệ T đến Công
4
ty để hợp đồng chuyển nhượng nhưng T không đến. Ngoài ra, quá trình
góp vốn, T đã vi phạm thời hạn góp vốn đợt 3, 4 và 5 được hai bên thỏa thuận
theo Phụ lục hợp đồng số 193/01/PL-HĐGV ngày 25/6/2009 từ đợt góp vốn
thứ 6 trở đi, bà T đã không góp vốn theo thỏa thuận. Như vậy, người vi phạm hợp
đồng T chứ không phải Công ty, nên đề nghị Hội đồng xét xchấp nhận
kháng cáo của bị đơn, tuyên hợp đồng hiệu Công ty chỉ trách nhiệm trả
lại bà T 984.000.000 đồng đã góp vốn.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đnghị Hội đồng xét x
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn trình bày ý kiến: Công ty cho rằng đã
gửi thông báo cho T đến hợp đồng chuyển nhượng đất nhưng không
cung cấp được tài liệu, chng cứ gì chứng minh đã gửi. Còn việc T không góp
vốn đợt 6 theo thỏa thuận do bên Công ty không thông báo gửi cho T
theo như thỏa thuận hai bên đã kết. vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giữ
nguyên Bản án sơ thẩm.
- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
1. Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục và
thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
2. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308,
khoản 1 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; Tuyên xử: Chấp nhận một phần kháng
cáo của bị đơn; Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 45/2023/DS-ST ngày 29/6/2023
của Tòa án nhân dân thành phố P theo hướng xác định nguyên đơn có lỗi 30%, bị
đơn lỗi 70% trên giá trị thiệt hại với số tiền 2.672.400.000 đồng. Buộc bị
đơn trả lại cho nguyên đơn 984.000.000 đồng nguyên đơn đã p vốn bồi
thường thiệt hại cho nguyên đơn số tiền tương ứng với lỗi của bị đơn.

[1] Về việc vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa, vắng mặt nguyên đơn
Bùi Thị Lệ T và người đại diện theo ủy quyền bà Đoàn Thị Thu H nhưng
mặt người đại diện theo ủy quyền khác là ông Nguyễn Ngọc T1; vắng mặt người
đại diện theo pháp luật của bị đơn Công ty TNHH K nhưng mặt người đại
diện theo ủy quyền Nguyễn Thị Kim L, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét
xử vụ án vắng mặt những người tham gia tố tụng này theo đề nghị của những
người tham gia ttụng mặt tại phiên tòa ý kiến của Kiểm sát viên p
hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH K, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
[2.1] Về dự án của Công ty TNHH K:
Ngày 13/12/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh B Công văn số 5495/UBND-
ĐTQH thống nhất quy hoạch phân lô công trình hạ tầng kỹ thuật khu vực hai bên
đường nhánh nối đường ĐT 706 hiện hữu và 706B với diện tích 244.779 m
2
bao
gồm Khu A, B, C, D, E, F và G.
5
Công ty TNHH K được Ủy ban nhân dân tỉnh B phê duyệt kết quả trúng
đấu giá quyền sử dụng (đất biệt thự) Khu B, C, G Khu F thuộc khu đất hai
bên đường nhánh nối đường 706 hiện hữu và 706B theo Quyết định số 3099/QĐ-
UBND ngày 04/12/2007 vviệc phê duyệt kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng
đất khu B, khu C, khu F khu G thuộc dự án khu đất hai bên đường nối đường
706 (đường N) và đường G (ĐT 716), thành phố P.
Ngày 03/12/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số
3308/QĐ-UBND về việc điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 3099/QĐ-UBND
ngày 04/12/2007.
Ngày 30/12/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số
3653/QĐ-UBND về thu hồi giao đất do trúng đấu giá quyền sử dụng đất của
Công ty TNHH K để đầu Dự án xây dựng khu biệt thự cao cấp tại phường P,
thành phố P. Ngày 05/5/2009, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số
1210/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 3653/QĐ-UBND ngày
30/12/2008.
Ngày 13/11/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số
3102/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phân công trình hạ
tầng kỹ thuật khu vực hai bên đường ĐT 706 hiện hữu 706B thuộc khu vực
dự án xây dựng Khu biệt thự cao cấp tại phường P, thành phố P của Công ty
TNHH K. Ngày 29/4/2009, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số
1185/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 3102/QĐ-UBND ngày
13/11/2008.
Ngày 17/02/2009, Ủy ban nhân dân tỉnh B Công văn số 636/UBND-
ĐTQH về việc cấp Giấy chứng nhận cho Công ty TNHH K.
Như vậy, đây là Dự án trúng đấu giá quyền sử dụng đất, quá trình triển
khai dự án được bàn giao mặt bằng đợt 1 vào tháng 8/2009, đến tháng 6/2013
bàn giao mặt bằng đợt 2. Dự án bắt đầu khởi công vào năm 2009.
Công ty TNHH K được Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất vào ngày 24/7/2009 ngày 30/9/2009. Vào năm 2012
năm 2015, Sở T3 thực hiện thủ tục tách thửa.
[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên và bị đơn đều thống nhất khai nhận:
Quá trình thực hiện dự án nêu trên, vào ngày 25/6/2009, Bùi Thị Lệ T
Công ty TNHH K đã hợp đồng số 193/HĐGV-KL góp vốn đầu tư xây
dựng hạ tầng k thuật nhận quyền sử dụng đất Phụ lục 1 số 193/01/PL-
HĐGV về lịch trình góp vốn.
Theo hợp đồng đã ký thì bà T góp vốn với Công ty TNHH K để đầu tư xây
dựng hạ tầng kỹ thuật và nhận quyền sử dụng lô đất biệt thự số E-20 có diện tích
400m
2
(rộng 15,9m - dài 24,2m) thuộc Dự án Khu biệt thự cao cấp Casa Lavanda
do Công ty TNHH K làm ch đầu tư. Giá trị vốn góp theo hợp đồng là
1.640.000.000 đồng.
6
Nguyên bị đơn đều thừa nhận hợp đồng số 193/HĐGV-KL hai bên đã
ký là hợp đồng góp vốn, mục đích để sau này khi Công ty TNHH K đủ điều kiện
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì hai bên stiến hành hợp đồng chuyển
nhượng, chứ đây không phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
[2.3] Xem xét nội dung của hợp đồng số 193/HĐGV-KL hai bên đã
lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên bị đơn tại phiên toà
phúc thẩm, đủ sở xác định đây là hợp đồng góp vốn tại thời điểm hai bên
ký kết hợp đồng này pháp luật không cấm, nên hợp đồng có hiệu lực thi hành đối
với các bên.
[2.4] Do đó, Toà án cấp thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án
là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng bất động sản và áp dụng pháp luật có liên
quan để tuyên bố hợp đồng hiệu chưa đúng bản chất tranh chấp của vụ án
và chưa đúng quy định của pháp luật.
[2.5] Về quá trình thực hiện hợp đồng:
Theo thỏa thuận tại Phụ lục 1 số 193/01/PL-HĐGV về lịch trình góp vốn
thì T sẽ góp vốn làm 8 đợt T đã góp được 5 đợt với tổng số tiền
984.000.000 đồng/1.640.000.000 đồng, tương đương 60% phần vốn góp theo
thỏa thuận.
Theo nguyên đơn thì sở dĩ nguyên đơn không tiếp tục góp vốn đợt thứ 6 là
do Công ty TNHH K không thông báo tại thời điểm đó người đại diện theo
pháp luật của Công ty TNHH K bị xử lý hình sự.
Còn Công ty TNHH K thì cho rằng việc bà T không tiếp tục góp vốn đợt 6
là vi phạm thỏa thuận được ghi nhận trong hợp đồng mà hai bên đã ký; Ngoài ra,
vào năm 2015, khi Công ty TNHH K đủ điều kiện chuyển nhượng đất, Công
ty đã thông báo cho bà T đến đtiến hành thủ tục ký hợp đồng chuyển nhượng
nhưng bà T không đến, nên Công ty mới chuyển nhượng lô đất cho người khác.
[2.6] Xét lời khai của hai bên đương sự nêu trên, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
Về trách nhiệm của nguyên đơn bà Bùi Thị Lệ T: Theo Phụ lục 1 số
193/01/PL-HĐGV về lịch trình góp vốn hai bên đã thỏa thuận thì T trách
nhiệm góp vốn đợt 6 sau 03 tháng kể từ ngày góp vốn đợt 5 và/hoặc khi Công ty
TNHH K bắt đầu giai đoạn bó vỉa. Tuy nhiên, theo thừa nhận của người đại diện
theo ủy quyền của bà T tại phiên tòa phúc thẩm thì kể từ sau ngày góp vốn đợt 5
(ngày 23/9/2010), T không tiếp tục góp vốn các đợt còn lại mãi đến ngày
04/7/2019 (tức gần 09 năm sau), T mới chủ động liên lạc với Công ty để hỏi
về tình hình chuyển nhượng lô đất và sau đó hai bên mới phát sinh tranh chấp.
Còn đối với Công ty TNHH K, Công ty cho rằng vào năm 2015, khi Công
ty đủ điều kiện chuyển nhượng đất, Công ty đã gửi thông báo cho Bùi Thị
Lệ T đến để tiến hành thủ tục hợp đồng chuyển nhượng đất, cụ thể: Vào
ngày 17/10/2015 gửi “Thư Thông báo số 12/TB-KL ngày 12/10/2015” ngày
12/7/2016 gửi Thư Thông báo số 10/TB-KL ngày 07/7/2016” lần lượt theo các
7
Phiếu gửi số 0372394763 sCH391226638 thông qua dịch vụ bưu chính của
Tổng Công ty Cổ phần B; Đồng thời cung cấp “Bảng kê chi tiết nợ” để chứng
minh. Tuy nhiên, trong “Bảng chi tiết nợ” chỉ thể hiện số Phiếu gửi ngày
gửi, không thể hiện nội dung gửi cho ai, gửi tài liệu gì. Tòa án cấp phúc thẩm
cũng đã tiến hành xác minh về các thông tin này, nhưng Tổng Công ty Cổ phần
B trả lời hiện không còn lưu giữ thông tin đối với các Phiếu gửi do Công ty
TNHH K cung cấp. Do đó, không có cơ sở chấp nhận ý kiến của Công ty TNHH
K về việc đã gửi thông báo cho bà T trước khi Công ty chuyển nhượng lô đất cho
người khác.
Như vậy, xét thấy cả hai bên đều thiếu thiện chí trong việc thực hiện hợp
đồng, nên cả hai bên đều lỗi dẫn đến hợp đồng không thể tiếp tục, trong đó
Công ty TNHH K do đơn phương không tiếp tục thực hiện hợp đồng, tự chuyển
nhượng đất E-20 cho người khác trong khi không ý kiến của T, nên
lỗi phần nhiều hơn và phải chịu trách nhiệm bồi thường tương ứng 60% thiệt hại.
[2.7] Về cách tính thiệt hại, Tòa án cấp thẩm xác định thiệt hại tương
ứng với tỷ lvốn góp T đã góp, cụ thể: Trị giá đất E-20 được định giá theo
giá thị trường hiện nay 6.094.000.000 đồng, bà T đã góp 984.000.000
đồng/1.640.000.000 đồng (tương đương 60%), nên tại thời điểm hiện nay tương
đương 3.656.400.000 đồng. Như vậy, thiệt hại được xác định bằng số tiền chênh
lệch 2.672.400.000 đồng (3.656.400.000 đồng - 984.000.000 đồng), nên như
nhận định vmức độ lỗi của hai bên tại mục [2.6] nêu trên thì Công ty TNHH
K1 phải trách nhiệm bồi thường cho T 2.672.400 đồng x 60% =
1.603.440.000 đồng.
[2.8] Từ các nhận định trên, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận một phần
kháng cáo của bị đơn ng ty TNHH K căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp
nhận tuyên hủy hợp đồng phụ lục hợp đồng hai bên đã theo yêu cầu của
nguyên đơn, buộc bị đơn trả lại số tiền nguyên đơn đã p vốn bồi thường
thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của bị đơn như đã nhận định trên.
[2.9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sửa
Bản án sơ thẩm, nên Công ty TNHH K kháng o không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH K; Sửa Bản án
dân sự thẩm số 45/2023/DS-ST ngày 29 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân
dân thành phố P.
Áp dụng: Điều 121; Điều 122; Điều 123; Điều 388; Điều 389; Điều 402;
Điều 405; Điều 408; Điều 412; Điều 425 Bộ luật Dân snăm 2005; Điều 357,
Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị
8
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Lệ T:
- Hủy bỏ hợp đồng góp vốn đầu xây dựng sở hạ tầng kỹ thuật
nhận quyền sử dụng đất số 193/HĐGV-KL và Phụ lục 1 số 193/01/PL-HĐGV về
lịch trình góp vốn cùng ngày 25/6/2009 giữa Bùi Thị Lệ T với Công ty
TNHH K.
- Buộc Công ty TNHH K trả lại cho Bùi Thị Lệ T số tiền đã góp vốn
984.000.000 đồng (Chín trăm tám mươi bốn triệu đồng) bồi thường thiệt hại
cho Bùi Thị Lệ T 1.603.440.000 đồng (Một tỷ, sáu trăm lẻ ba triệu, bốn trăm
bốn mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Lệ T về
việc yêu cầu Công ty TNHH K bồi thường thiệt hại cho bà Bùi Thị Lệ T
1.068.960.000 đồng (Một tỷ, không trăm sáu mươi tám triệu, chín trăm sáu mươi
nghìn đồng).
3. Về án phí:
- Buộc Bùi Thị Lệ T phải chịu 44.068.800 đồng (Bốn mươi bốn triệu,
không trăm sáu mươi tám nghìn, tám trăm đồng) án phí dân sự thẩm, nhưng
được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tm ng án phí dân s
thẩm đã nộp theo Biên lai thu s 0005412 ngày 12/02/2020 ca Chi cc Thi hành
án dân s thành ph P; Bùi Thị Lệ T còn phải nộp 43.768.800 đồng (Bốn
mươi ba triệu, bảy trăm sáu mươi tám nghìn, tám trăm đồng).
- Buộc Công ty TNHH K phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án
phí dân sthẩm về việc tuyên hủy hợp đồng 60.103.000 đồng (Sáu mươi
triệu, một trăm lẻ ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về bồi thường thiệt hại.
- Hoàn trả lại cho Công ty TNHH K 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)
tm ng án phí dân s phúc thẩm đã np theo Biên lai thu s 0018659 ngày
07/8/2023 ca Chi cc Thi hành án dân s thành ph P.
4. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
(16/8/2024).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
9
Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh B.Thuận;
- TAND thành phố P.Thiết;
- VKSND thành phố P.Thiết;
- Chi cục THADS thành phố P.Thiết;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ, Tổ HCTP, TDS;

 

Tải về
Bản án số 143/2024/DS-PT Bản án số 143/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 143/2024/DS-PT Bản án số 143/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất