Bản án số 135/2024/DS-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 135/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 135/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 135/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 135/2024/DS-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 135/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà B yêu cầu chị H bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm hại |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 135/2024/DS-PT
Ngày 19 - 12 - 2024
V/v:“Tranh chấp bồi thường
thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Anh Cường
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Trọng
Bà Nguyễn Thị Thu Hà.
- Thư ký phiên toà: Bà Trần Thị Thu Hương - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên tòa:
Bà Hà Thị Loan - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 133/2024/TLPT-DS ngày
20/11/2024 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DSST ngày 10 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 138/2024/QĐ-PT
ngày 02 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1950; địa chỉ: TDP T1,
phường N1, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà B: Luật sư Bùi Quốc H -
Luật sư Công ty Luật X;
Địa chỉ: Số 68 đường Ng, phường L1, thành phố V1, tỉnh Vĩnh Phúc, có
đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983; địa chỉ: TDP T1, phường
N1, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án cũng
như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị B trình bày:
Khoảng 08 giờ ngày 29/12/2022 tại TDP T1, phường N1, thành phố P,
tỉnh Vĩnh Phúc, do có mâu thuẫn tranh chấp về lối đi từ trước, ông Đoàn Văn Đ
(hàng xóm ngay sát nhà bà) đã dùng búa tạ đập phá bức tường mà gia đình bà đã
2
xây dựng từ trước, thấy vậy bà và con dâu là chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982
và cháu nội là anh Nguyễn Văn L, sinh năm 2004 đến can ngăn và nói lý lẽ với
ông Đ. Ông Đ và chị Nguyễn Thị H (con gái ông Đ) đứng bên trong đất nhà ông
Đ để đập tường từ phía trong ra nhưng không đập được nên họ đi ra phía trước
giáp cổng nhà bà để đập tường. Bà ra sức can ngăn yêu cầu ông Đ và chị H
không được đập tường do đây là tường rào gia đình bà xây dựng nhưng họ
không nghe nên giữa bà và ông Đ, chị H có lời qua tiếng lại với nhau, bà bị ông
Đ đẩy ngã ra lối đi bê tông trước cổng nhà bà. Cùng lúc đó, chị H giằng chiếc
búa tạ từ tay ông Đ lao đến thúc đầu búa trúng ngang cẳng chân trái bà, nện búa
vào bàn tay trái bà làm mu bàn tay trái của bà bị rách da chảy nhiều máu. Lúc
này con dâu và cháu nội bà lao vào can ngăn và giằng được búa từ trên tay chị
H. Chị H tiếp tục lao vào bà dùng chân tay đánh, cào cấu làm bà bị thương, trầy
xát khắp mặt và người, quá đau nên sau đó bà đã lịm đi không biết gì nữa, khi
tỉnh lại thì đã được con cháu đưa đi điều trị tại Bệnh viện K74 - P, con dâu và
cháu nội bà cũng bị thương trầy xát khắp người nhưng chỉ điều trị tại nhà.
Hành vi gây thương tích chị H khiến bà phải cấp cứu và chữa trị tại bệnh
viện 18 ngày, kết quả giám định thương tích 13%.
Để đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe cho mình và những người thân
trong gia đình, ngay sau khi xảy ra sự việc, ngày 01/01/2023 bà đã gửi “Đơn tố
cáo khẩn cấp” đến cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P, tỉnh Vĩnh
Phúc tố giác hành vi của chị H (con gái ông Đ). Sau khi cứu chữa tại bệnh viện
và có kết luận giám định thương tích bà đã tiếp tục gửi “Đơn yêu cầu bồi thường
thiệt hại” vào ngày 04/05/2023.
Trải qua 01 năm đằng đẵng chờ đợi kết quả giải quyết tin báo tố giác tội
phạm kể từ ngày bà gửi đơn “Đơn tố cáo khẩn cấp” đến cơ quan Cảnh sát điều
tra Công an thành phố P cùng các cơ quan có thẩm quyền khác, bà nhận được
“Quyết định không khởi tố vụ án hình sự” số 69/QĐ-ĐCSHS ngày 12/02/2024
của Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra - Thượng tá Hà Tuấn Long với nội
dung: “Không khởi tố vụ án hình sự đối với tố giác về tội phạm của bà Nguyễn
Thị B… về việc bị ông Đoàn Văn Đ, SN: 1954 và chị Nguyễn Thị H, SN:
1983…đánh gây thương tích ngày 29/12/2022”. Bên cạnh đó, phía chị H (con
gái ông Đ) cũng không hề có động thái gì về việc bồi thường thiệt hại đối với bà.
Do không đồng ý với nội dung của Quyết định không khởi tố vụ án hình
sự nêu trên bà đã làm đơn khiếu nại gửi đến Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều
tra Công an thành phố P và Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P nhưng cả hai
cơ quan đều không đồng ý với nội dung khiếu nại của bà, giữ nguyên Quyết
định không khởi tố vụ án hình sự số 69.
Theo kết quả giải quyết của cơ quan cảnh sát điểu tra - Công an thành phố
P, hành vi của chị H không có dấu hiệu phạm tội “Cố ý gây thương tích”, tuy
nhiên hành vi của chị H đã xâm phạm đến sức khỏe của bà, khiến bà phải cấp
cứu và chữa trị tại bệnh viện 18 ngày, kết quả giám định thương tích 13%. Quá
trình điều trị tại bệnh viện khiến tinh thần bà hoảng loạn, luôn sống trong tình
3
trạng mất ngủ, lo sợ. Bên cạnh đó, con gái bà là chị Nguyễn Thị N đã phải nghỉ
làm, đóng cửa hàng để chăm sóc bà nên chị N bị mất thu nhập trong suốt 18
ngày đó. Hiện chị N đã đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài.
Nay bà đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc chị Nguyễn Thị H (con gái ông
Đoàn Văn Đ) phải bồi thường thiệt hại cho bà các khoản là:
- Chi phí khám và thuốc thang: 5.507.897đ (Năm triệu năm trăm linh bảy
nghìn tám trăm chín mươi bảy đồng). Bà có bảng kê chi phí thuốc, dịch vụ y tế
nộp kèm;
- Chi phí bồi dưỡng sức khỏe (căn cứ theo điểm b Khoản 1 Điều 7 Nghị
quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao): (4.160.000 đồng : 26 ngày) x 18 ngày điều trị tại bệnh viện =
2.880.000đ (Hai triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng);
- Chi phí cho người chăm sóc bao gồm tiền đi lại, ăn uống (trung bình
20.000đ/suất ăn bình dân x 3 bữa/ngày = 60.000đ/ngày) và chi phí sinh hoạt khác:
18 ngày x 140.000đ = 2.520.000đ (Hai triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).
- Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bà (căn cứ theo điểm b
Khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao): 18 ngày x 160.000đ = 2.880.000đ
(Hai triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng);
- Bồi thường bù đắp tổn hại 13% về sức khỏe và tổn thất về tinh thần
(Khoản 2 Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015): 50 tháng lương tối thiểu x
2.340.000đ = 117.000.000đ (Một trăm mười bảy triệu đồng);
- Tiền thuê xe taxi 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).
Tổng cộng buộc chị H phải bồi thường cho bà B số tiền là 131.287.897đ (Một
trăm ba mốt triệu hai trăm tám bảy nghìn tám trăm chín bảy đồng).
Bị đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Khoảng 08 giờ 00 ngày 29/12/2022,
chị đang ở nhà thuộc Tổ dân phố Tân Minh, phường N1, thành phố P, tỉnh Vĩnh
Phúc thì nghe thấy tiếng đào đường phát ra từ sau nhà chị, chị đứng dậy đi ra
đường bê tông ngõ sau nhà thì nhìn thấy chị Nguyễn Thị H (tên gọi khác là
Thanh) là con dâu bà B hàng xóm đang cầm 01 chiếc xà beng đào lỗ trên đường
bê tông ở gần góc nhà chị. Chị có bảo “Chị đục đường làm gì? Chị không được
đào đường, không được lấn chiếm đường” thì chị Th bảo là: “Tao cứ đào đấy,
tao cứ lấn chiếm đấy, cái bức tường này là của nhà tao, tao cứ thích lấn chiếm”.
Chị có nói với chị Th là: “Của nhà chị xây, chị cũng không được lấn chiếm xây
trên đất của nhà tôi và bức tường này sớm muộn cũng phải phá đi”. Chị Th nói
lại là: “Tao cứ thích lấn chiếm, thằng nào tài thì cứ phá, tao thách mày phá”.
Lúc này, có cháu Nguyễn Văn L (Là con của chị Th) đứng cạnh chỗ chị Th.
Nghe vậy nên chị đi vào trong nhà rồi lấy ra 01 chiếc búa tạ bằng sắt đi ra đằng
sau nhà và đưa búa cho bố đẻ là ông Đoàn Văn Đ đang đứng ở khu vực bức
tường cạnh cổng nhà chị Th xây trước đó (bức tường nhà chị Th xây ngăn cách
phần đất phía sau nhà ông Đ với đường bê tông đi vào nhà chị Th) rồi ông Đ giơ
búa đập vào tường làm rơi mấy viên gạch tường thì chị Th và cháu L nhặt gạch
4
vừa rơi vứt vào phần đất phía sau nhà chị. Sau đó, ông Đ đi một mình sang
đường bê tông lối đi vào nhà chị Th còn chị đứng ở đất sau nhà mình cầm búa
đập 01 cái vào tường rồi cầm búa đi theo ông Đ. Khi đi đến vị trí ngay trước
cổng nhà chị Th thì chị có cầm búa định đập vào bức tường nhà chị Th thì bà
Nguyễn Thị B là mẹ chồng chị Th đi từ đâu đến vị trí sau lưng chị dùng tay kéo
tóc của chị và giúi đầu chị xuống. Đồng thời chị Th và cháu L cũng lao vào ghì
đầu chị xuống. Lúc này, chị bị kéo tóc nên ở tư thế khom lưng, mặt nhìn xuống
đất thì theo phản xạ chị cũng dùng hai tay khua khoắng cào cấu vùng vẫy không
biết có vào ai không. Thấy vậy, bố chị là ông Đ đứng cạnh đó liền tiến lại can
ngăn và hô bỏ ra không đánh nhau nữa. Lúc đó chị bị đánh dúi người xuống đất
thì chị có nhìn thấy chị Oanh là em dâu chị nhưng không đến can ngăn mà chạy
về gọi người sau đó thì có bà Bình và mọi người can ngăn hai bên không đánh
nhau nữa ai về nhà đấy. Sự việc sảy ra có nhiều người chứng kiến. Cơ quan điều
tra Công an thành phố P cũng điều tra sự việc, lấy lời khai những người có mặt
và thu thập tài liệu liên quan và quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Nay bà B nói chị gây thương tích cho bà B và đề nghị chị bồi thường các
khoản tổng cộng là 131.287.897đ quan điểm của chị là chị không gây thương
tích cho bà B nên không chấp nhận bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bà B.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DSST ngày
10 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết
định:
Căn cứ vào các Điều 584; khoản 4 Điều 585; khoản 1 Điều 586; khoản 1,
2 Điều 590; Điều 594 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 2, khoản 4 Điều 3; điểm
b, khoản 1, điểm b, khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày
06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòaán nhân dân Tối cao; khoản 6 Điều 26,
35, 39, 147, của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B, buộc chị
Nguyễn Thị H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị B các khoản chi phí hợp lý
do sức khỏe bị xâm phạm như sau:
- Tiền điều trị tại bệnh viện và tiền thuốc 2.341.448đ;
- Tiền bồi dưỡng sức khỏe; tiền thu nhập thực tế bị mất của người chăm
sóc bà B; chi phí cho người chăm sóc 3.680.000đ;
- Tiền tổn thất tinh thần 18.720.000đ;
Tổng cộng số tiền chị H phải bồi thường cho bà B là: 24.721.448đ.
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí, quyền kháng cáo và thi hành án cho các
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23 tháng 9 năm 2024, chị Nguyễn Thị H có
đơn kháng cáo với nội dung không đồng ý bồi thường cho bà B vì chị H không
gây thương tích cho bà B.
5
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vắng mặt, không có kháng cáo,
không có ý kiến gì về đơn khởi kiện, bị đơn vắng mặt và giữ nguyên nội dung
kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu
quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia
tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án
đã tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng
khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của chị
Nguyễn Thị H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 15/2024/DSST ngày 10 tháng 9
năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc. Chị H phải chịu án
phí phúc thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án
trên cơ sở thẩm tra, xem xét tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời khai của các đương sự, ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của chị Nguyễn Thị H làm trong thời hạn theo quy
định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa, nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn, bị đơn trong vụ án vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng
mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại
khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của chị Nguyễn Thị H về việc không
đồng ý bồi thường cho bà Nguyễn Thị B do chị H không gây thương tích cho bà
B, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1] Ngày 29/12/2022 giữa bà Nguyễn Thị B và chị Nguyễn Thị H có sảy
ra xô sát dẫn đến bà Nguyễn Thị B bị thương vùng mặt, trán, tay và chân phải đi
Bệnh viện K74 Trung ương điều trị. Theo Bản kết luận giám định pháp y số 19
ngày 21/01/2023 Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc kết luận tỷ lệ thương tật của
bà B là 13%. Bà B đã đề nghị cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P
khởi tố vụ án hình sự. Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh,
thu thập các tài liệu, chứng cứ và kết luận không khởi tố vụ án với lý do: Hành
vi của chị Nguyễn Thị H không cấu thành tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng. Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập các tài liệu liên quan đến sự việc
tại cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố P. Xét thấy, các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án được thu thập đầy đủ, khách quan, đúng quy định của pháp
6
luật thể hiện chị H có gây thương tích đối với bà B. Do đó, việc chị H kháng cáo
cho rằng chị không gây thương tích cho bà B là không có cơ sở chấp nhận.
[2.2] Xét lỗi của các bên thấy rằng: Theo kết quả kiểm tra, xác minh
nguồn tin về tội phạm của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P, xác
định: Quá trình xảy ra xô sát giữa bà B, anh L và chị H ngày 29/12/2022, anh
Nguyễn Văn L cùng bà Nguyễn Thị B có hành vi kéo tóc, dí đầu chị H xuống
làm chị H bị khom người để anh L có hành vi dùng tay phải đấm liên tiếp 02-03
cái vào đầu, vào mặt chị H. Sau đó, chị Nguyễn Thị H có hành vi dùng 02 tay
cào, cấu vào vùng trán, vùng mặt và chân tay bà B gây thương tích cho bà B.
Như vậy sự việc xảy ra bà B cũng có một phần lỗi, bà B không được bồi thường
phần thiệt hại do lỗi của bản thân bà gây ra theo quy định tại khoản 4 Điều 585
Bộ luật dân sự. Quá trình sự việc diễn ra không xác định được cụ thể bên nào có
lỗi nhiều hơn nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi hỗn hợp mỗi bên phải chịu
50% lỗi, chị H phải bồi thường 50% thiệt hại do chị gây ra cho bà B là phù hợp.
[2.3] Xét các khoản chi phí bồi thường, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Về chi phí khám, điều trị tại bệnh viện và tiền thuốc bà B đã cung cấp hóa
đơn cho Tòa án và đây là chi phí thực tế, hợp lý được chấp nhận. Tuy nhiên, có
02 hóa đơn thuốc ngày 06 và 13 tháng 01 năm 2023 ghi mua tại Nhà thuốc số 2
Khu đô thị TMS phường Hùng Vương, thành phố P không ghi tên người mua
hàng và ngày mua hàng, trên hóa đơn có dấu hiệu bị tẩy xóa nên không được chấp
nhận là 330.000 đồng + 495.000 đồng = 825.000 đồng. Do vậy, chi phí khám,
điều trị tại bệnh viện và tiền thuốc của bà B được chấp nhận là: 5.507.897 đồng -
825.000 đồng = 4.682.897đồng x 50% = 2.341.448 đồng.
Đối với tiền bồi dưỡng sức khỏe 2.880.000 đồng; tiền thu nhập thực tế bị
mất của người chăm sóc bà B 2.880.000 đồng; chi phí cho người chăm sóc
2.520.000 đồng. Mức yêu cầu trên là phù hợp với quy định pháp luật (về lương
tối thiểu vùng) nên được chấp nhận. Tuy nhiên, theo giấy ra viện do bệnh viện
74TW cung cấp thì bà B nhập viện điều trị ngày 29/12/2022 đến ngày
13/01/2023 thì ra viện, bà nằm điều trị tại Bệnh viện là 16 ngày nên chỉ được
chấp nhận bồi thường 16 ngày thực tế nằm viện. Cụ thể:
- Chi phí bồi dưỡng sức khỏe của bà B: 160.000 đồng x 16 ngày điều trị
tại bệnh viện = 2.560.000đ;
- Chi phí cho người chăm sóc (bao gồm tiền đi lại, ăn uống – trung bình
20.000đ/suất ăn bình dân, ngày ăn 03 bữa; và chi phí sinh hoạt khác): 16 ngày x
140.000 đồng = 2.240.000đ;
- Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bà B 16 ngày x 160.000
đồng = 2.560.000đ.
Tổng = (2.560.000 đồng + 2.560.000 đồng + 2.240.000đồng) x 50% =
3.860.000đồng.
Đối với khoản tiền thuê xe taxi, bà B xuất viện ngày 13/01/2023 tuy nhiên
ngày 16/01/2023 mới phát sinh hóa đơn thuê xe taxi tên hóa đơn thuê xe không
mang tên bà B nên hóa đơn thuê xe này không được chấp nhận.
7
Đối với yêu cầu của bà B yêu cầu chị H bồi thường thiệt hại về thể chất và
tinh thần là 50 tháng lương tối thiểu là 117.000.000 đồng. Xét nguyên đơn và bị
đơn cùng có lỗi, tỷ lệ thương tật của bà B là 13% nên cấp sơ thẩm buộc chị
Hưởng phải bồi thường cho bà B 08 tháng tiền tổn thất tinh thần do hành vi gây
tổn hại sức khỏe cho bà B. Số tiền cụ thể là 08 tháng nhân với lương cơ sở hiện
tại một tháng là 2.340.000đồng = 18.720.000đồng là phù hợp.
Tổng cộng số tiền chị H phải bồi thường cho bà B là: 2.341.448 đồng +
3.680.000đồng + 18.720.000đồng = 24.721.448đồng.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy Tòa án cấp sơ
thẩm đã xem xét, đánh giá lỗi và các chi phí thiệt hại buộc chị Nguyễn Thị H
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị B tổng số tiền
24.721.448đ (Hai tư triệu bảy trăm hai mốt nghìn bốn trăm bốn tám đồng) là phù
hợp nên không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của chị H, cần giữ nguyên
bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố P. Đề nghị của đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Vì kháng cáo không được chấp nhận nên
chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 15/2024/DSST ngày 10
tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc;
Căn cứ vào các Điều 584; khoản 4 Điều 585; khoản 1 Điều 586; khoản 1,
2 Điều 590; Điều 594 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 2, khoản 4 Điều 3; điểm
b, khoản 1, điểm b, khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày
06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; khoản 6 Điều 26,
147, 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B: Buộc chị
Nguyễn Thị H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị B các khoản chi phí hợp lý
do sức khỏe bị xâm phạm như sau:
- Tiền điều trị tại bệnh viện và tiền thuốc 2.341.448đồng;
- Tiền bồi dưỡng sức khỏe; tiền thu nhập thực tế bị mất của người chăm
sóc bà B; chi phí cho người chăm sóc; 3.680.000đồng;
- Tiền tổn thất tinh thần 18.720.000đồng;
Tổng cộng số tiền chị H phải bồi thường cho bà B là: 24.721.448đồng
(Hai tư triệu bảy trăm hai mốt nghìn bốn trăm bốn tám đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bà Nguyễn Thị B có đơn yêu
cầu thi hành án mà chị Nguyễn Thị H chưa thanh toán số tiền nêu trên, thì hàng
tháng chị H còn phải chịu lãi suất do chậm trả tiền của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
8
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
2. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 1.236.000đồng (Một
triệu hai trăm ba mươi sáu nghìn đồng).
Án phí dân sự phúc thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đồng (Ba
trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0004119 ngày 08/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Vĩnh
Phúc.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- VKSND thành phố P;
- TAND thành phố P;
- Chi cục THADS thành phố P;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Đỗ Anh Cường
Tải về
Bản án số 135/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 135/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 01/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm