Bản án số 100/2024/DS-ST ngày 12/09/2024 của TAND huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 100/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 100/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 100/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 100/2024/DS-ST ngày 12/09/2024 của TAND huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Đức Linh (TAND tỉnh Bình Thuận) |
Số hiệu: | 100/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | đồng ý |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐỨC LINH
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 100/2024/DS-ST
Ngày: 12-9-2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Mai Thuận.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Đức Binh và bà Nguyễn Thị Bình.
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông Bùi Chí Bảo – Thư ký Toà án
nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận tham gia
phiên toà: Ông Nguyễn Hải Lĩnh – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đức Linh xét
xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 295/2024/TLST-DS ngày 18 tháng 7
năm 2024, về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số 276/2024/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Đức Linh, giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Võ Văn T, sinh năm 1975 và bà Phạm Thị Dư, sinh năm
1979; nơi cư trú: Số 353, đường MêPu – Đa Kai, tổ 2, thôn 3, xã Sn, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hồ Vũ Hoàng Linh, sinh
năm 2002; Nơi cư trú: Số 129, đường Đào Duy Từ, thị trấn Võ Xu, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận.
- Bị đơn:
1/ Ông Phạm Quang Th, sinh năm 1969; nơi cư trú: Số 93, đường Điện Biên
Phủ, khu phố 5, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Th: Ông Nguyễn Phương Nam, sinh
năm 1981; nơi cư trú: Số 399, đường Cách mạng tháng tám, khu phố 1, thị trấn Võ
Xu, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
2/ Bà Phạm Thị Lệ, sinh năm 1970;
Nơi đăng ký HKTT: khu phố 5, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận;
2
Chỗ ở hiện tại: Khu du lịch Gran Work Phú Quốc, Gành Dầu, Phú Quốc,
Kiên Giang.
Tại phiên tòa, có mặt người đại diện hợp của nguyên đơn, bị đơn Phạm Thị
Lệ và người đại diện hợp của bị đơn Phạm Quang Th.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Vợ chồng ông T và vợ chồng ông Th, bà Lệ là chỗ anh em với nhau, vì cần
tiền làm ăn nên ông Th đã đến nhà tìm gặp vợ chồng ông T hỏi mượn số tiền là
600.000.000đồng.
Để làm tin thì ông Th có lập giấy vay tiền viết tay, qua đó ông Th đã vay của
vợ chồng ông T với số tiền 600.000.000đồng, thời hạn hoàn trả 05 năm tính từ ngày
16/12/2026.
Do thời gian gần đây vợ chồng ông T làm ăn thất bại nên muốn thu hồi số
tiền đã cho mượn nên có tìm gặp trực tiếp vợ chồng ông Th để yêu cầu trả số tiền
trên nhưng ông Th, bà Lệ luôn viện cớ để lánh mặt, né tránh việc hoàn trả tiền lại
cho chúng tôi.
Quá trình khởi kiện, ông T và bà Dư yêu cầu ông Th và bà Lệ phải trả số tiền
600.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Phạm Quang Th và người đại diện theo ủy
quyền trình bày:
Trước đây, vào ngày 13/8/2014 bà Phạm Thị Lệ (vợ cũ ông Th) có vay tiền
của bà Đỗ Thị Bích Liễu và ông Nguyễn Vĩnh Toàn, khi vay mượn ông Th không
biết cũng không có mặt, chỉ có bà Lệ lập giấy vay tiền viết tay và một mình đứng ra
ký nhận nợ số tiền là 30.500.000đồng, sau đó bà Lệ dùng số tiền vay để trả nợ cho
người khác.
Sau khi mượn nợ, bà Lệ đã không trả tiền lãi lẫn tiền gốc cho vợ chồng bà
Liễu, ông Toàn nên vợ chồng ông Toàn, bà Liễu làm đơn khởi kiện đến Tòa án
nhân dân huyện Đức Linh.
Đến ngày 24/6/2015, Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận ra
bản án số 23/2015/DS-ST về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, tại bản án
trên Tòa án tuyên buộc bà Lệ cùng ông Th phải liên đới trả nợ cho vợ chồng bà
Liễu, ông Toàn do lúc mượn nợ đang trong thời kỳ hôn nhân.
Sau khi có yêu cầu thi hành án, ông Th cùng bà Lệ đã đứng ra bán 5m đất
trong phần đất đang ở để trả nợ cho vợ chồng bà Liễu, ông Toàn.
Hiện nay, ông Th bị vợ chồng ông T, bà Dư khởi kiện về khoản nợ
600.000.000đồng mà ông Th đã mượn vào ngày 16/12/2016 để mua trâu bò và xây
nhà. Ông Th yêu cầu bà Lệ phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ chung khoản vay trên
cùng ông Th do lúc mượn nợ còn đang trong thời kỳ hôn nhân và việc mượn nợ để
làm kinh tế lo cho gia đình.
3
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Phạm Thị Lệ trình bày:
Năm 1992, bà Lệ kết hôn với ông Th. Do chung sống không hạnh phúc nên
ông bà ly hôn vào ngày 07/7/2017, tại Quyết định số 118/2017/QĐST-HN-GĐ Tòa
án nhân dân huyện Đức Linh về việc công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận
của các đương sự. Sau khi ly hôn thì giữa bà Lệ và ông Th đã tự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết ly hôn, con chung, chia một phần tài sản chung và đã giải
quyết dứt điểm nợ chung.
Nay, ông T và bà Dư (em ruột ông Th) đã tự lập giấy khống với nhau và đưa
đơn kiện ra Tòa án, bà Lệ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T và bà Dư
vì thực tế bà Lệ không mượn tiền ông bà, giấy nợ là do ông Th tự viết cho bà Dư,
ông T.
Tại phiên toà:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Th và bà
Lệ có nghĩa vụ liên đới trả cho vợ chồng nguyên đơn số tiền nợ vay gốc là
600.000.000đồng và không yêu cầu trả lãi đến thời điểm xét xử. Tuy nhiên, nguyên
đơn yêu cầu tính lãi kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi bị
đơn trả xong tiền nợ.
Bị đơn Phạm Quang Th đồng ý trả nợ theo yêu cầu của nguyên đơn, tuy
nhiên ông Th yêu cầu phân chia nghĩa vụ trả nợ cho cụ thể vì ông và bà Lệ hiện tại
đã ly hôn.
Bị đơn Phạm Thị Lệ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà
Lệ cho rằng đây là khoản nợ riêng của ông Th, bà Lệ không biết và không liên quan
đến khoản nợ này.
Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh tại phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng
xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố
tụng được pháp luật quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn, bị
đơn và người đại diện theo ủy quyền đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng
được quy định tại các Điều 70, 71, 72, 86 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu xem xét các tài liệu chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các bên đương sự tại phiên tòa hôm
nay, xét thấy việc nguyên đơn khởi kiện là hoàn toàn có cơ sở. Đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc cá nhân ông
Th có nghĩa vụ trả cho ông T và bà Dư số tiền nợ vay gốc là 600.000.000 đồng,
không giải quyết về tiền lãi phát sinh. Tuy nhiên, cần buộc ông Th phải chịu lãi
chậm trả trong giai đoạn thi hành án.
Về án phí: Buộc ông Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
(có bài phát biểu kèm theo)
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
4
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng bị đơn thanh toán tiền nợ vay; bị
đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại khu phố 5, thị trấn Dt, huyện Đức Linh,
tỉnh Bình Thuận.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015, Hội
đồng xét xử xác định đây là vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
[2] Về chứng cứ: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử công khai chứng cứ do đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn cung cấp sau khi ban hành Quyết định đưa vụ
án ra xét xử gồm: 01 đơn yêu cầu đề ngày 28/8/2024 của ông Phạm Quang Th, 01
bản sao lục bản án số 23 ngày 24/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, 01
bản án số 115 ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, 01 bản sao lục
đơn khởi kiện đề ngày 05/6/2017 của ông Phạm Quang Th, 01 bản sao lục bản khai
lập ngày 30/6/2017 của bà Phạm Thị Lệ, 01 bản sao lục bản khai của ông Phạm
Quang Th lập ngày 30/6/22017, 01 bản sao lục Quyết định số 118 ngày 07/7/2017
của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, 01 bản sao lục giấy nợ đề ngày 31/8/2014, để
cho các bên đương sự được tiếp cận. Tuy nhiện, các đương sự khác không yêu cầu
mở lại phiên họp công khai chứng cứ và tại phiên tòa cũng không giao nộp tài liệu,
chứng cứ mới để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Hội đồng xét xử
căn cứ tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp có trong hồ sơ vụ án và Tòa án
đã thu thập được theo khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án.
[3] Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và do các
đương sự cung cấp tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ án như
sau:
[3.1] Về tính pháp lý của giao dịch dân sự:
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản gốc của 01
giấy vay tiền đề ngày 16/12/2016; bị đơn Phạm Quang Th thừa nhận nội dung giấy
vay tiền mà nguyên đơn cung cấp là do chính ông Th viết và ký tên cho nguyên
đơn. Đây là tình tiết, sự kiện đã được các đương sự thống nhất thừa nhận nên thuộc
trường hợp không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015.
Theo nội dung thể hiện trong tài liệu do nguyên đơn cung cấp và được bị đơn
thừa nhận thì có cơ sở xác định đây là hợp đồng vay tài sản, lập thành văn bản, có
thỏa thuận thời hạn vay, không thỏa thuận lãi suất vay và các thỏa thuận khác. Tại
thời điểm xác lập giao dịch vay tiền hai bên đều đầy đủ năng lực hành vi dân sự,
các thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội; do đó giao dịch vay
tiền hiện qua giấy vay tiền đề ngày 16/12/2016 đảm bảo các quy định tại Điều 117,
118, 119 và 463 của Bộ luật dân sự, nên được pháp luật dân sự bảo vệ.
5
Căn cứ Điều 429 của Bộ luật dân sự năm 2015, nguyên đơn khởi kiện là
trong thời hạn luật định.
[3.2] Về xác định nghĩa vụ trả nợ vay:
Tại Điều 466 của Bộ luật dân sự quy định nghĩa vụ trả nợ của bên vay như
sau:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật
thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.”
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Phạm Quang Th thừa nhận có vay mượn
của vợ chồng nguyên đơn số tiền 600.000.000đồng, mục đích xây nhà, lo cho con
cái và mua trâu bò, nhưng bị đơn Phạm Thị Lệ không thừa nhận việc ông Th vay
tiền của ông T và bà Dư, bà Lệ cho rằng anh em của ông Th ngụy tạo tài liệu của
khởi kiện và bà Lệ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T và bà Dư. Tuy
nhiên, bà Lệ không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời khai của
bà là có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Căn cứ vào bản gốc giấy vay tiền lập ngày 16/12/2016, Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[3.3] Về xác định người có nghĩa vụ thanh toán: Quá trình giải quyết vụ án,
bà Lệ không thừa nhận khoản tiền mà ông Th vay của ông T và bà Dư, tuy nhiên
theo lời khai của bị đơn Th thì mục đích vay tiền là để xây nhà, lo cho con cái và
mua trâu bò; nhận thấy, việc ông Th thực hiện giao dịch vay tiền của vợ chồng
nguyên đơn được xác lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Th và bà lệ (ông bà kết
hôn năm 2003, ly hôn năm 2017), tuy nhiên bà Lệ không chứng minh được đây là
nghĩa vụ riêng của ông Th trong thời kỳ hôn nhân với bà Lệ; mặc khác, tại bản án
số 115 ngày 29/9/2023, Tòa án nhân dân huyện Đức Linh cũng đã chia đều giá trị
căn nhà cho bà Lệ và ông Th; theo tài liệu do ông Th cung cấp thể hiện trong thời
kỳ hôn nhân bà Lệ có mượn tiền của bà Liễu ông Toàn, giấy nợ cũng do bà Lệ tự
viết, nhưng Tòa án cũng đã buộc ông Th liên đới trả nợ, bên cạnh đó bà Lệ cho rằng
bà và ông Th ly thân từ cuối năm 2014 đến khi ly hôn (có xác nhận của trưởng khu
phố 5, thị trấn Dt; Th nhưng vào ngày 11/9/2024, Tòa án đã tiến hành làm việc với
ông Nguyễn Văn Thức, theo đó ông Thức thừa nhận chỉ xác nhận theo nội dung
đơn do bà Lệ yêu cầu, ông Thức không biết về tình trạng hôn nhân giữa bà Lệ và
ông Th từ năm 2014 đến năm 2017 (vì trong thời điểm này, ông Thức đang làm
Chủ tịch UBND thị trấn Dt), tại bản khai do bà Lệ xác lập tại Tòa án nhân dân
huyện Đức Linh vào ngày 30/6/2017 lưu trong hồ sơ hôn nhân và gia đình thụ lý số
220 ngày 28/6/2017 thì bà Lệ có khai như sau: “….từ năm 2013 đến 2016 mua bán
thua lỗ nên tôi có thâm một khoảng nợ nên vợ chồng tôi có sức mẻ…”, không có
nội dụng nào thể hiện việc ông Th và bà Lệ ly thân vào cuối năm 2014. Do đó, lời
khai của bà Lệ không có căn cứ để chấp nhận. Nguyên đơn yêu cầu ông Th và bà
Lệ liên đới thanh toán cho nguyên đơn số tiền nợ vay gốc 600.000.000 đồng là hoàn
toàn phù hợp quy định tại Điều 27, 30, 33 và 37 của Luật hôn nhân gia đình năm
2014.
6
Tại phiên tòa, bà Lệ cho rằng trong thời kỳ hôn nhân giữa bà và ông Th, ngoài
khoản nợ của bà Liễu, ông Toàn thì ông bà còn phát sinh nhiều khoản nợ khác,
nhưng tính đến thời điểm hiện tại thì bà Lệ là người trả lãi cho các chủ nợ nên các
chủ nợ chưa khởi kiện ra Tòa án; trường hợp bà Lệ có đầy đủ chứng cứ chứng minh
cho lời khai của mình là có căn cứ thì bà có quyền làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa
án phân chia nghĩa vụ trả nợ trong thời kỳ hôn nhân với ông Th, để giải quyết trong
vụ án dân sự khác.
[3.4] Về lãi suất: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn
không yêu cầu tính lãi đến thời điểm xét xử sơ thẩm, đây là sự tự nguyện của
nguyên đơn, có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận, không xem xét giải
quyết về tiền lãi phát sinh.
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn chịu lãi chậm trả trong giai đoạn thi hành án là có
căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 và
Điều 13 của Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về
lãi, lãi suất, phạt vi phạm, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn không
phải chịu án phí DSST. Buộc ông Th và bà Lệ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo
luật định.
[5] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh tại
phiên tòa về nghĩa vụ liên đới chưa phù hợp với những nhận định tại mục [3.3] của
bản án này; các đề nghị khác đều phù hợp với các nội dung còn lại của bản án này.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 92; Điều 93; Điều 95; Điều 235, khoản 1 Điều 147; Điều 161, Điều 262; Điều
271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 274, Điều 280, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của
Bộ luật dân sự 2015; Điều 27, 30, 33, 37 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi,
lãi suất, phạt vi phạm; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Võ Văn T và Phạm Thị Dư.
Buộc ông Phạm Quang Th và bà Phạm Thị Lệ có nghĩa vụ liên đới trả cho
ông Võ Văn T và bà Phạm Thị Dư số tiền nợ vay gốc là 600.000.000 (bằng chữ:
sáu trăm triệu) đồng.

7
Kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi
hành án xong tất cả các khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
2. Về án phí:
- Buộc ông Phạm Quang Th và bà Phạm Thị Lệ phải liên đới nộp số tiền
28.000.000 (bằng chữ: Hai mươi tám triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Án phí nộp
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
- Trả lại cho ông Võ Văn T và bà Phạm Thị Dư số tiền 14.000.000 (bằng
chữ: Mười bốn triệu) đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện Đức Linh theo các biên lai thu tiền số: 0004704 ngày 18 tháng 7 năm 2024.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng
cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để Tòa án cấp trên xét xử
theo trình tự phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Đức Linh;
- Chi cục THADS huyện Đức Linh;
- Lưu hồ sơ vụ án, tập án văn;
TM. HỘI ĐNG XT X SƠ THM
Thm phn – Ch ta phiên ta
Mai Thuận
8
+ 09 chứng từ giao dịch vào các
ngày 7/11/2023,
22/11/2023,
27/12/2023,
25/10/2022,
03/11/2022,
07/11/2022,
21/12/2022,
8/9/2022 (2 chứng từ)
+ 05 tài liệu gốc có nội dung mượn tiền đề
ngày 7/10/2022, (tiền mặt)
25/10/2022, (chuyển khoản)
03/11/2022, (chuyển khoản)
7/11/2022, (chuyển khoản)
11/5/2023, (tiền mặt)
30/01/2021, (tiền mặt)
02/1/2021, (tiền mặt)
24/1/2021, (tiền mặt)
22/4/2021, (tiền mặt)
27/1/2021, (tiền mặt)
15/4/2021, (tiền mặt)
20/9/2022, (tiền mặt)
08/9/2022 (chuyển khoản 2 lần: 01 lần 100Tr và 02 lần 40Tr)
và 21/12/2022 (chuyển khoản)
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 256/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Bản án số 215/2025/DS-PT ngày 04/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 211/2025/DS-PT ngày 03/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 195/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm