Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 15/04/2025 của TAND TX. Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2025/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 15/04/2025 của TAND TX. Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TX. Bỉm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa) |
| Số hiệu: | 10/2025/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 15/04/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | * Căn cứ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ BỈM SƠN Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
TỈNH THANH HOÁ
Bản án số:10/2025/HNGĐ-ST
Ngày 15- 4 - 2025
V/v: “Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Tống Thị Hà
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đỗ Đức Thẩm
Ông Vũ Văn Thoa
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Ngọc Lan - Thư ký Tòa án nhân dân (viết tắt:
TAND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tham
gia phiên tòa: Bà Lê Huyền Diệu - Kiểm sát viên
Ngày 15 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở TAND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số:
07/2025/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2025, về việc “Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2025/QĐXXST-
HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên toà số: 05/2025/
QĐST- HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2025 giữa:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1988
Địa chỉ: Số nhà A, ngõ A, đường H, khu phố C, phường B, thị xã B, Thanh
Hóa (có mặt)
Bị đơn: Anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1986
Địa chỉ: Số nhà A, ngõ A, đường H, khu phố C, phường B, thị xã B, Thanh
Hóa ( vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 03/02/2025 nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H trình
bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Ngọc T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và
được sự đồng ý của hai bên gia đình. Vợ chồng đăng ký kết hôn tại UBND phường
B, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hoà
thuận với nhau được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân bất
đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, không tôn trọng nhau, cuộc sống
vợ chồng không hòa thuận, không có tiếng nói chung và mạnh ai người đấy sống,
mục đích hôn nhân không đạt được. Nay thực sự vợ chồng không còn tình cảm và
không còn khả năng đoàn tụ nên chị làm đơn đề nghị TAND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh
Thanh Hóa giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Ngọc T.
- Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung: cháu đầu tên là Phạm Hà P (nữ) sinh
ngày 02/12/2011, cháu thứ hai tên là Phạm Hà A (nữ) sinh ngày 01/01/2015. Khi
ly hôn chị xin được nuôi cả hai cháu đến tuổi thành niên và có khả năng lao động
và chị không yêu cầu anh Phạm Ngọc T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại bản tự khai ngày 21/02/2025 anh Phạm Ngọc T trình bày:
- Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Thu H được UBND phường B, thị xã
B cấp giấy chứng nhận kết hôn. Trước khi kết hôn vợ chồng tự tìm hiểu nhau,
được sự nhất trí của hai bên gia đình và có tổ chức đám cưới theo phong tục địa
phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng cuối năm
2024 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng không hoà hợp tính cách
và lối sống. Trong mắt chị H bản thân anh còn nhiều khiếm khuyết không đáp ứng
được những kỳ vọng của chị H, anh đang cố gắng hoàn thiện bản thân mình hơn để
làm hài lòng vợ nhưng không được ghi nhận. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày một
giảm sút. Bản thân anh thì luôn yêu thương vợ con, nhưng chị H vẫn gọi đó là chưa
đủ, chính vì vậy vợ chồng luôn bất đồng quan điểm về mọi vấn đề trong cuộc sống.
Nay chị H làm đơn xin ly hôn, anh xét thấy mẫu thuẫn vợ chồng chưa đến mức
trầm trọng nên anh tha thiết xin được đoàn tụ, không nhất trí ly hôn.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung: cháu đầu tên là Phạm Hà P (nữ)
sinh năm 2011, cháu thứ hai tên là Phạm Hà A (nữ) sinh năm 2015. Nếu trường
hợp phải ly hôn anh không muốn việc ly hôn xáo trộn cuộc sống ảnh hưởng tâm lý
tình cảm của các cháu nên anh nhất trí giao cả 2 cháu cho chị H trực tiếp nuôi
dưỡng. Do chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên anh sẽ tự nguyện cấp
dưỡng theo khả năng của anh.
- Về tài sản: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại biên bản xác minh ngày 25/02/2025 ông Nguyễn Văn L trưởng khu phố
C, phường B, thị xã B cung cấp: Vợ chồng anh Phạm Ngọc T và chị Nguyễn Thị
Thu H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 2010. Trong quá trình
chung sống vợ chồng có hai con chung, một cháu hiện nay đang học lớp 8, còn một
cháu học lớp 4. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn như thế nào

chính quyền địa phương không nắm rõ vì anh T, chị H không báo cáo chính quyền
địa phương và cũng không đề nghị địa phương hoà giải về mâu thuẫn vợ chồng.
Nay chị H làm đơn ly hôn, ông đề nghị Toà án căn cứ theo quy định của pháp
luật để giải quyết đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Quá trình giải quyết vụ án ngày 27/02/2025 Tòa án đã tiến hành mở phiên họp
tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, tại buổi hoà giải các bên
không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án, chị H cương quyết xin ly
hôn. Anh T đề nghị Toà án cho anh thêm thời gian để chị H nhìn nhận lại mọi vẫn
đề, để anh có cơ hội thay đổi bản thân.
Ngày 07/3/2025 chị H có đơn đề nghị không tiến hành hoà giải. Chị H cho
rằng từ ngày hoà giải (ngày 27/02/2025) đến nay vợ chồng tuy sống chung cùng
nhà nhưng không nói chuyện với nhau, mà cuộc sống cứ tiếp diễn như vậy chị cảm
thấy rất mệt mỏi, áp lực nên chị làm đơn đề nghị Toà án không tiến hành hoà giải
mà đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H có mặt và anh
Phạm Ngọc T vắng mặt, nên Toà án xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (viết tắt: HĐXX), thư ký phiên tòa và của người
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời
điểm HĐXX nghị án.Việc chấp hành pháp luật của các đương sự phù hợp với quy
định của pháp luật.
+ Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H
- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Phạm
Ngọc T.
- Về con cái: Giao con chung của vợ chồng là cháu Phạm Hà P (nữ) sinh ngày
02/12/2011 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Hà A
(nữ) sinh ngày 01/01/2015 cho anh Phạm Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc
giáo dục cháu đến tuổi thành niên và có khả năng lao động, Hai bên không phải
cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản: Vợ chồng không đề nghị Tòa án giải quyết.
* Về án phí: Đề nghị buộc chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000đ án phí ly
hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa căn cứ vào ý kiến phát biểu đương sự và của Kiểm sát viên tại phiên tòa,
HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng:

[1.1] Xét về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Thu H khởi kiện yêu cầu
TAND thị xã Bỉm Sơn giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Ngọc T.
Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”;
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại
phường B, thị xã B, vì vậy thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã Bỉm
Sơn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39
Bộ luật tố tụng Dân sự;
[1.3] Về việc vắng mặt của đương sự: Tại phiên toà anh Phạm Ngọc T
vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227,
khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt
anh Phạm Ngọc T.
[2] Về yêu cầu của đương sự HĐXX thấy:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Phạm Ngọc T kết hôn
trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND phường B, thị xã B, tỉnh
Thanh Hóa đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng
phát sinh mâu thuẫn. Theo chị H trình bày nguyên nhân vì không hoà hợp
tính cách và lối sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không còn tôn
trọng nhau, cuộc sống vợ chồng không hòa thuận, không có tiếng nói
chung. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân
không đạt được nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với
anh Phạm Ngọc T. Về phía anh T trình bày tại bản tự khai và tại buổi hoà
giải cũng thấy mình có những khuyết điểm nhất định nhưng anh đang cố
gắng khắc phục và mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy
con cái nên người.
HĐXX thấy, kể từ ngày Toà án thụ lý (06/02/2025) đến nay đã hơn 2 tháng,
chị H và anh T mặc dù ở cùng nhà nhưng theo chị H hai bên không nói chuyện với
nhau, mà cuộc sống nếu cứ tiếp diễn chị cảm thấy rất mệt mỏi, áp lực, anh T cho
rằng mình còn nhiều khiếm khuyết không đáp ứng được những kỳ vọng của chị H,
bản thân anh đang cố gắng hoàn thiện bản thân mình hơn để làm hài lòng vợ nên
anh tha thiết xin được đoàn tụ.
Tại đơn đề nghị ngày 14/3/2025 và tại phiên toà chị H cho rằng việc
sống trong một nhà mà không khí gia đình ngột ngạt, khiến bản thân chị
không ổn định tinh thần công tác và các con cũng bị ảnh hưởng trong quá
trình học tập, chị mong muốn Toà án giải quyết rứt điểm vì lý do chị đã làm
đơn không hoà giải và mâu thuẫn của vợ chồng cũng không thể hoà giải

nên chị đề nghị giải quyết ly hôn nhằm ổn định tinh thần cho chị yên tâm
công tác để nuôi các con ăn học. Như vậy, việc chị H cương quyết xin ly
hôn chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn
nhân không đạt được. Nên chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Thu H ly hôn với
anh Phạm Ngọc T là phù hợp.
[2.2] Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung: cháu đầu tên là Phạm Hà P
(nữ) sinh ngày 02/12/2011, cháu thứ hai tên là Phạm Hà A (nữ) sinh ngày
01/01/2015. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà chị H xin được nuôi
cả hai cháu đến tuổi thành niên và có khả năng lao động và chị không yêu
cầu anh Phạm Ngọc T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tại bản tự khai anh
T trình bày: Nếu trường hợp phải ly hôn anh không muốn việc ly hôn xáo
trộn cuộc sống ảnh hưởng tâm lý tình cảm của các cháu nên anh nhất trí
giao cả 2 cháu cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Do chị H không yêu cầu cấp
dưỡng nuôi con nên anh sẽ tự nguyện cấp dưỡng theo khả năng của anh.
Tại buổi hoà giải anh đề nghị Toà án giải quyết mỗi người nuôi một cháu
theo nguyện vọng của các cháu.
HĐXX thấy, Hiện nay chị H đang làm giáo viên thu nhập bình quân mỗi
tháng khoảng 10 triệu đồng, anh T công tác tại công ty X, theo chị H khai
thu nhập bình quân của anh T khoảng 10 đến 11 triệu đồng, như vậy điều
kiện của hai vợ chồng đủ đảm bảo để nuôi dạy chăm sóc các cháu. Tuy
nhiên, do cả hai cháu là nữ và đều trên 7 tuổi, theo đơn nguyện vọng của
cháu Phạm Hà P cháu xin được ở với mẹ, cháu Phạm Hà A xin được ở với cả
bố và mẹ. Vì cháu Hà P đang trong độ tuổi dậy thì cần sự bảo ban, chăm
sóc của mẹ, nên để đảm bảo tốt quyền lợi cho các cháu cần giao cháu Hà P
cho chị H nuôi dưỡng, giao cháu Hà A cho anh T nuôi dưỡng đến tuổi
thành niên và có khả năng lao động, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi
con chung là phù hợp.
[2.3] Về tài sản chung của vợ chồng: Vợ chồng không yêu cầu Toà án
giải quyết nên miễn xét.
[3] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000đ án
phí ly hôn sơ thẩm.
Bởi những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:

* Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, khoản 2
Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, 273, 277 và Điều 280 Bộ luật tố tụng Dân
sự;
- Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình;
- Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 và tiểu mục 1.1 phần 1 mục II danh mục mức án phí lệ phí ban hành
kèm theo;
* Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H.
- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Phạm
Ngọc T.
- Về con cái: Giao con chung của vợ chồng là cháu Phạm Hà P (giới tính: nữ)
sinh ngày 02/12/2011 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu
Phạm Hà A (giới tính: nữ) sinh ngày 01/01/2015 cho anh Phạm Ngọc T trực tiếp
nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cháu đến tuổi thành niên và có khả năng lao động.
Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom,
chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của
người đó.
Vì quyền lợi của con cái, khi cần thiết, các bên đương sự được quyền làm đơn
xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung của vợ chồng: Vợ chồng không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ
chị H đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Bỉm Sơn ngày 06/02/2025 theo
biên lai thu số: 0004677. Như vậy, chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Nguyễn Thị Thu H, vắng mặt anh Phạm
Ngọc T.
Chị Nguyễn Thị Thu H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm (15/4/2025); anh Phạm Ngọc T vắng mặt được quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Toà án niêm yết
theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- VKSND thị xã Bỉm Sơn; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Đương sự;
- UBND phường Ba Đình (ĐK 02/11/2010);
- Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa;

- THA Dân sự thị xã Bỉm Sơn;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TỐNG THỊ HÀ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm