Bản án số 07/2024/HNGĐ-PT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Ninh Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2024/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 07/2024/HNGĐ-PT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Ninh Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 07/2024/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/12/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chị Huỳnh Thị H xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với anh Đinh Văn T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 07/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 17 - 12 - 2024
V/v Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bà Nguyễn Thị Phượng.
Các Thẩm phán:
+ Bà Trần Thị Sâm.
+ Ông Phạm Thanh Tùng.
- Thư phiên tòa: Thị Thùy Chinh Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình: ông Đặng Hồng -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 17/12/2024 tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự thụ lý số 13/2024/TLPT-HNGĐ ngày 05/11/2024 về “Ly
hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.
Do Bản án dân sự thẩm số 40/2024/HNGĐ-ST ngày 31/7/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xphúc thẩm số 08/2024/QĐ-PT ngày
18/11/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Huỳnh Thị H, sinh năm 1992.
Địa chỉ: thôn H, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
2. Bị đơn: anh Đinh Văn T, sinh năm 1983.
Địa chỉ: thôn H, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông Đặng Văn D - Luật
của Văn phòng L Cộng sự, thuộc Đoàn Luật tỉnh N. Địa chỉ: số A, đường
L, phố V, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
3. Người kháng cáo: anh Đinh Văn T (bị đơn).
2
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2024, trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn là chị Huỳnh Thị H trình bày:
Về quan hhôn nhân: chị và anh Đinh Văn T được tự do tìm hiểu và kết hôn
với nhau trên sở tự nguyện, đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân G,
huyện N, tỉnh Ninh Bình vào ngày 19/9/2022. Sau khi cưới, anh chị chung sống
cùng bố manh T. Anh chị chỉ sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh
mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không hợp nhau
về mọi mặt. Mẹ anh T thường xuyên chửi bới đánh đập chị, anh T cũng hùa theo
đánh chị nên ch đã bỏ về nhà mẹ đẻ từ tết âm lịch năm 2024 cho đến nay; khi đó
con chị mới được 3 tháng tuổi, gia đình anh T đã giữ cháu không cho chị đưa cháu
đi cùng. Hiện nay anh chị đã ly thân. Chị xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng,
không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị
được ly hôn anh T để cả hai ổn định cuộc sống riêng.
Về con chung: chị và anh T có 01 con chung, tên cháu là Đinh Đức T1, sinh
ngày 05/6/2023. Hiện cháu đang với anh T. Hàng ngày chị vẫn về nanh T để
chăm cháu. Chị xin được nuôi cháu yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con
2.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác.
Về tài sản chung, công nợ chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, bị đơn là anh Đinh
Văn T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: anh thống nhất với lời khai của chị H về thời điểm kết
hôn. Anh xác định vợ chồng anh không mâu thuẫn gì, việc chị H đi khỏi nhà
anh do cãi nhau với manh. Anh chị ly thân từ tết âm lịch cho đến nay. Nay
chị H xin ly hôn với anh nhất trí. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, anh T có quan
điểm không đồng ý ly hôn.
Về con chung: anh chị 01 con chung cháu Đinh Đức T1, sinh ngày
05/6/2023, hiện cháu đang với anh. Nếu ly hôn anh xin được nuôi cháu chị H
không đủ sức khỏe để nuôi cháu, chị H bị khuyết tật, đang hưởng trợ cấp xã hội,
không có công ăn việc làm nên không đủ kinh tế để nuôi con. Nếu anh được nuôi
cháu T1, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, công nợ chung: anh không yêu cầu giải quyết.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2024/HNGĐ-ST ngày 31/7/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình đã quyết định:
Căn cứ vào các điều 147, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Các điều 56, 81, 82, 83, 84, 110, 116 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản
6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Về hôn nhân: cho chị H ly n với anh T. Về nuôi con
chung cấp dưỡng nuôi con chung: giao cháu Đinh Đức T1, sinh ngày 05/6/2023
3
cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18
tuổi hoặc có thay đổi khác. Anh Đinh Văn T phải nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
chung cùng chị H mỗi tháng là 2.000.000 đồng. Thời điểm cấp dưỡng khi bản án
hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu T1 đủ 18 tuổi hoặc thay đổi khác. Ngoài
ra bản án còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo và điều kiện thi hành án cho
các đương sự.
Ngày 07/8/2024, anh T kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm về nuôi con và
cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xkhông
đúng quy định của pháp luật, không đảm bảo quyền lợi chính đáng của cháu T1.
Về sức khỏe, chị H là người mắc bệnh tâm thần, thường xuyên hành vi bạo lực
tấn công người thân, kể cả mẹ đanh và cháu T1 khi lên cơn. ChH đã được
quan thương binh hội lập danh sách, đưa vào diện người khuyết tật nặng, dạng
khuyết tật “Thần kinh tâm thần” theo Giấy xác nhận khuyết tật ngày
14/12/2020. Do đó, chị H không thể nuôi dưỡng cháu T1. Về điều kiện nuôi dưỡng
con: chị H không công việc thu nhập ổn định. Trong thời gian vợ chồng
chung sống, chị H chỉ đi làm các ng việc lặt vặt với mức thu nhập mỗi tháng
hơn 1.000.000 đồng. Về nơi ở: chị H có nơi ở duy nhất là nhà người anh trai mắc
nghiện ma túy, cũng có biểu hiện tâm thần, nhiều lần vô cớ vác gạch đá tấn công
người đi đường hàng xóm. Nếu giao cháu T1 cho chị H nuôi dưỡng thì cháu
T1 sẽ thêm một mối nguy hiểm bị tấn công bạo lực bị ảnh hưởng bởi môi
trường sống không lành mạnh, dễ bị tiêm nhiễm các tệ nạn xã hội. Anh T đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm: sửa bản án thẩm theo hướng giao cháu T1 cho anh T
trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu T1 đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con: anh
không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn: không đồng ý kháng cáo của bị đơn.
Bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có quan điểm:
vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình phát biểu ý kiến như sau:
trong quá trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư phiên tòa những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy
định của Bluật Ttụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều
308, Điều 309, khoản 2 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 81, 82,
83, 84 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014; Án lsố 54 ngày 07/9/2022 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận nội dung kháng cáo của anh T. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm
số 40/2024/HNGĐ-ST ngày 31/7/2024 của Toà án nhân dân huyện Nho Quan về
phần nuôi con chung. Giao cháu T1 sinh ngày 05/6/2023 cho anh T trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi
khác. Chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Án phí dân sphúc thẩm:
4
anh T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được trả lại tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm đã nộp và không phải chịu án phí sơ thẩm cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội
đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng.
[1.1] Đơn kháng cáo của anh T làm trong thời hạn pháp luật quy định
đúng hình thức, nội dung nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn cho rằng chị H mắc bệnh tâm thần. Hội đồng xét xử xét thấy: tại
mục 6 phần IV của Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 hướng
dẫn: …khi có chủ thể cho rằng một người là đương sự trong vụ án mất năng lực
hành vi dân sự thì Tòa án phải giải thích, hướng dẫn để hthực hiện quyền yêu
cầu tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân stheo quy định nêu trên…
trường hợp họ không yêu cầu thì Tòa án giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục
chung.
Tại phiên tòa, anh T thừa nhận anh đã được giải thích, hướng dẫn để anh
thực hiện quyền yêu cầu tuyên bố chị H mất năng lực hành vi dân sự nhưng anh
không có yêu cầu tuyên bố chị H mất năng lực hành vi dân sự. Do đó Tòa án giải
quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung.
[1.3] Về phạm vi xét xử phúc thẩm: sau khi xét xử sơ thẩm, anh T chỉ kháng
cáo Bản án thẩm về phần nuôi con chung cấp dưỡng nuôi con chung. Căn
cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét Bản án
sơ thẩm theo nội dung đơn kháng cáo của anh T.
[2] Về nội dung kháng cáo.
Về nuôi con chung: chị H anh T 01 con chung, tên cháu Đinh Đức
T1, sinh ngày 05/6/2023. Hiện nay cháu T1 đang ở ng anh T. Khi ly hôn, chị H
anh T đều nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T1. Hội đồng xét
xử xét thấy:
Trong vụ án này, chỉ mâu thuẫn vợ chồng, mâu thuẫn giữa chị H mẹ
đẻ anh T, chH tự ý về nhà bố mđẻ sinh sống, bỏ lại cháu T1 mới được 03
tháng tuổi cho anh T nuôi dưỡng. Mặc dù, khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân
Gia đình năm 2014định con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mtrực tiếp
nuôi, nhưng chH đã không nuôi cháu T1 từ khi cháu được 03 tháng tuổi.
Khi cháu T1 sống chung với anh T vẫn được anh T duy trì mối quan hệ với
chị H, vẫn tạo điều kiện cho chị H thăm nom con; bảo đảm sự ổn định về môi
trường sống của cháu T1. Cháu T1 đã quen với sự gắn bó, thân thiết của anh T.
Anh T có thu nhập ổn định nên anh T không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.
5
Anh T điều kiện, khả năng trong việc nuôi dưỡng con, khả năng bảo vcon
khỏi bxâm hại. Hiện tại, cháu T1 đã quen với điều kiện, môi trường sống
được anh T nuôi dưỡng, chăm sóc đảm bảo trong điều kiện tốt nhất; nếu giao
cháu T1 cho chị H nuôi dưỡng sẽ gây sự xáo trộn, ảnh hưởng đến sphát triển
bình thường của cháu.
Tại phiên toà, chị H thừa nhận: anh T chăm sóc cháu T1 tốt, đảm bảo cuộc
sống cho cháu, anh T cũng tạo điều kiện cho chị thăm cháu.
Tại Phiếu lưu huyết não ngày 22/7/2024 của Bệnh viện T2 thể hiện kết quả
đo lưu huyết não của chị H lưu huyết não hình ảnh thiếu máu não”. Tại
Phiếu điện não đồ ngày 22/7/2024 của Bệnh viện T2 thể hiện kết quả đo điện não
vi tính chị H điện não đồ ở trạng thái kích thích”. Tại Bệnh án tâm thần ngày
17/10/2020 của Bệnh viện T2 thể hiện: khi ra viện, chị H bệnh chính động
kinh cơn lớn”, bệnh kèm theo là “thiếu máu não”. Tại phiên tòa, chị H thừa nhận
chị bị yếu tay phải do bị di chứng của bệnh viêm não Nhật Bản hồi chị 4 tuổi.
Theo Giấy xác nhận khuyết tật ngày 14/12/2020 thể hiện chị H bị dạng
khuyết tật là “thần kinh tâm thần”, mức độ khuyết tật “nặng”. Tại Quyết định số
4326/QĐ-UBND ngày 23/8/2024 của y ban nhân dân huyện N đã quyết định
thực hiện thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đối với chị H, thời gian cắt giảm
là 01/8/2024, lý do cắt giảm: “thuyên giảm bệnh”.
Tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày
16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tán nhân dân tối cao quy định: người m
không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình là trường hợp
người mẹ thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) …. hoặc không thể trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Đối chiếu với quy định nêu trên, xét thấy chị H không thể trực tiếp trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T1; thuộc trường hợp không đủ điều
kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con quy định
tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Theo Án lệ số 54/2022/AL về xác định quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi
trong trường hợp người mkhông trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 07/9/2022
được công bố theo Quyết định số 323/QĐ-CA14/10/2022 của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao thì: trong vụ án Hôn nhân Gia đình tranh chấp về quyền
nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người mẹ tự ý bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ… người
con được người cha nuôi dưỡng, chăm sóc trong điều kiện tốt đã quen với
điều kiện, môi trường sống đó. Trường hợp này, Tòa án phải tiếp tục giao con
dưới 36 tháng tuổi cho người cha trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.
Hội đồng xét xử xét thấy tính chất, các tình tiết, sự kiện pháp lý trong v án
này tương tự như các tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Vì vậy, theo quy định
tại Điều 58, Điều 81 của Luật Hôn nhân Gia đình; khoản 3 Điều 5, Điều 15 của
6
Luật Trẻ emtheo Án lệ số 54/2022/AL, có đủ cơ sở xem xét toàn diện để xác
định: xuất phát từ quyền lợi về mọi mặt của cháu T1, Hội đồng xét xử phúc thẩm
giao cháu T1 cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng có căn cứ, đúng pháp
luật.
Toà án cấp thẩm giao cháu T1 cho chị H nuôi dưỡng không phù hợp,
chưa xem xét đầy đủ đến quyền lợi về mọi mặt của cháu T1.
Tại phiên toà, chị H trình bày mức thu nhập của chị H không phù hợp với
các tài liệu do chị H cung cấp cho Toà án. Do đó, Hội đồng xét xkhông
cơ sở để chấp nhận.
Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: mặc dù anh T đã được Tòa án giải thích việc
yêu cầu cấp dưỡng cho con là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Tuy
nhiên, anh T trình bày anh có khả năng, có điều kiện nuôi dưỡng cháu T1 trưởng
thành nên anh tự nguyện không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi cháu T1. Do đó,
chị Huỳnh Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
[3] Đối với việc nuôi con chung sau khi ly hôn: nếu chị H có đủ căn cứ cho
rằng anh T không còn đủ điều kiện nuôi con chung hoặc ngược đãi con chung t
chị H có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con chung
theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của anh T; sửa Bản án dân sự sơ thẩm về phần nuôi con chung và cấp
dưỡng nuôi con chung.
[5] Những quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không giải quyết, hiệu lực pháp luật kể t
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí dân sự:
Về án phí dân sự sơ thẩm: Hội đồng xét xử giao cháu T1 cho anh T nuôi
dưỡng nên anh T không phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con.
Về án phí dân sphúc thẩm: do yêu cầu kháng cáo của anh T được chấp
nhận nên anh T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 147, Điều 148 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014; Điều 5, Điều 15 của Luật Trẻ em năm 2016 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2018); Án lệ số 54/2022/AL được Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 07/9/2022 và được công bố theo Quyết
định số 323/QĐ-CA14/10/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; khoản 2
Điều 29 Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
7
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận kháng cáo của anh Đinh Văn T. Sửa Bản án dân sựthẩm số
40/2024/HNGĐ-ST ngày 31/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh
Ninh Bình về phần nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung. Tuyên xử:
1.1. Về nuôi con chung: giao cháu Đinh Đức T1, sinh ngày 05/6/2023 cho
anh Đinh Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi
cháu Đinh Đức T1 đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: anh Đinh Văn T không yêu cầu cấp dưỡng
nên chị Huỳnh Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị Huỳnh Thị H quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản
trở.
1.2. Về án phí dân sự thẩm: anh Đinh Văn T không phải nộp án phí cấp
dưỡng nuôi con.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: anh Đinh Văn T không phải nộp án phí dân
sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho anh Đinh Văn T 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0001353 ngày
09/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
3. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể t ngày tuyên án (ngày
17/12/2024).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 LuậtThi hành án
dân s tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
-TAND cấp cao tại Hà Nội;
-VKSND tỉnh Ninh Bình;
-Phòng KTNV-THA;
- TAND huyện Nho Quan;
-Chi cục THADS huyện Nho Quan;
-Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án. VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Phượng
Tải về
Bản án số 07/2024/HNGĐ-PT Bản án số 07/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2024/HNGĐ-PT Bản án số 07/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất