Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 10/2025/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Phúc
Số hiệu: 10/2025/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/04/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà H đề nghị được chia bằng hiện vật là quyền sử dụng đất với diện tích 281m2 có vị trí phía Đông giáp đường QL2C, phía Tây giáp cánh đồng, phía Bắc giáp mương, phía Nam giáp phần còn lại của thửa đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 10/2025/HNGĐ-PT
Ngày 23 - 4 - 2025
“V/v Chia tài sản sau ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Vũ Văn Mạnh
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Sơn;
Bà Nguyễn Thị Thu Hiền.
- Thư phiên toà: Ông Hoàng Phan - Thư Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên tòa:
Bà Hoàng Thị Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 18/2024/TLPT-HNGĐ ngày 05 tháng 11
năm 2024 về việc “Chia tài sản sau khi ly hôn”.
Do Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 25/2024/DS-ST ngày 08
tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương bị kháng cáo. Theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/QĐXX-PT ngày 31 tháng 12 năm
2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1969; địa chỉ: Khu A, Đ,
huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt;
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nguyễn Thị H: Ông
Nguyễn Khánh H1 Luật sư thuộc Văn phòng L; địa chỉ: Tổ dân phố Đ, thị trấn
V, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt;
- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1966; địa chỉ: Thôn T, Đ,
huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc có mặt;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Cụ Hoàng Thị B, sinh năm 1939, vắng mặt;
2. Cụ Nguyễn Thị N, sinh năm 1942, vắng mặt;
3. Ông Nguyễn Minh H2, sinh năm 1969, vắng mặt;
4. Ông Nguyễn Minh H3, sinh năm 1976, có mặt;
2
5. Bà Nguyễn Thị H4, sinh năm 1978, vắng mặt;
6. Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1982, vắng mặt;
7. Anh Nguyễn Minh H5, sinh năm 1982, vắng mặt;
Đều địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người giám hộ cho Nguyễn Thị H4:Anh Nguyễn Minh H5, sinh năm
1982; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;
8. Nguyễn Thị T2, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn N, Đ, huyện T,
tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;
9. Nguyễn Thị T3, sinh năm 1966; địa chỉ: Thôn H, Đ, huyện T,
tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;
10. Nguyễn Thị T4, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T,
tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt;
11. Ông Nguyễn Minh H6, sinh năm 1974; địa chỉ: T A, khu phố T,
phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt;
12. Chị Nguyễn Thị H7, sinh năm 1982; địa chỉ: Số A, ngách B, ngõ C,
phường M, quận H, Thành phố Hà Nội, vắng mặt;
13. Chị NThị S, sinh năm 1983; nơi trú: Thôn P, P, huyện B,
thành phố Hà Nội, vắng mặt;
14. Chị Ngô Thị S1, sinh năm 1987; nơi trú: Thôn P, P, huyện B,
thành phố Hà Nội, vắng mặt;
15. Anh Ngô Trường T5, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện
T, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.
Do có kháng cáo của bà Nguyễn Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện qtrình tố tụng nguyên đơn Nguyễn ThH
người đại diện theo ủy quyền ông Phạm Dương H8 trình bày:
H ông Nguyễn Minh T kết hôn với nhau từ năm 1987. Quá trình
chung sống, khoảng năm 1991, Hông T mua 01 quyền sử dụng đất của
Ủy ban nhân dân xã Đ với diện tích khoảng 562m
2
, địa chỉ thôn T, Đ, huyện
T, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngay sau khi nhận được đất tỦy ban nhân dân xã, từ năm
1993 đến năm 1997, bà H, ông T đã xây dựng nhiều công trình trên đất để sử
dụng như 04 gian nhà trên và giếng nước xây năm 1993, 04 gian nhà ngang xây
năm 1995, tường bao loan xây năm 1996...
Đến năm 2003, H ông T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn vậy ông
đã quyết định ly hôn và đã được Tòa án nhân dân huyện Tam Dương giải quyết
bằng Bản án số 02/2003/LH-ST ngày 21/01/2003. Tuy nhiên, trong quá trình
giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Tam Dương vẫn chưa thực hiện việc
3
phân chia tài sản chung của H và ông T quyền sdụng thửa đất số 54
thuộc tờ bản đsố 23 có diện tích 562m
2
nêu trên. Tính đến thời điểm hiện tại,
H và ông T cũng không thể thống nhất với nhau về việc phân chia quyền s
dụng đất nêu trên. Bà H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tam Dương chia tài sản
chung sau khi ly hôn quyền sử dụng thửa đất số 54 thuộc tờ bản đồ số 123
diện tích 562m
2
địa chỉ thôn T, Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. H đề nghị
được chia bằng hiện vật quyền sử dụng đất với diện tích 281m
2
vị trí phía
Đông giáp đường QL2C, phía Tây giáp cánh đồng, phía Bắc giáp mương, phía
Nam giáp phần còn lại của thửa đất.
Tại bản tự khai tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Minh T trình bày: Ông
và bà Nguyễn Thị Hòa kết H9 với nhau từ năm 1987, trong quá trình chung sống
ông H tạo lập được 04 gian nhà trên, 01 giếng nước xây năm 1993, 04
gian nhà ngang xây năm 1995, tường bao loan xây năm 1996....được xây dựng
trên thửa đất của bố đẻ ông là cụ Nguyễn Minh K. Trong cuộc sống xảy ra
nhiều mâu thuẫn nên đến năm 2003 ông H đã ly hôn. Tại bản án số
02/2003/LH-ST ngày 21/01/2003 Tòa án nhân dân huyện Tam Dương đã giải
quyết cho ông H được ly hôn, về tài sản chung của ông H xây dựng
trên thửa đất đã được Tòa án giải quyết xong, riêng đối với thửa đất diện tích
562m
2
H đề nghị Tòa án giải quyết đã không được Tòa án chấp nhận giải
quyết do thửa đất trên không phải của ông và bà H. Nguồn gốc thửa đất mà bà H
đang khởi kiện của bố mông cụ Nguyễn Minh K cụ Nguyễn Thị N sử
dụng từ năm 1985 (Đất thùng đấu nhận chuyển nhượng lại từ ông Nguyễn Văn
T6). Đến năm 1992, thửa đất trên đã được UBND Đ hợp thức giao cho cụ K
thu tiền, đến năm 1992 ông H có ra mượn để đun đốt gạch để bán. Đến
năm 2003, do đốt gạch bị ô nhiễm môi trường nên UBND xã cấm, thì ông trả lại
cho cụ K đất. Hiện nay thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Sau khi ông và H ly hôn thì cụ K chuyển nhượng lại cho ông 288m
2
đất xác nhận của khu vực, địa chính UBND cũng chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau 20 năm ly hôn, H khởi kiện đòi
phân chia thửa đất của bố mẹ ông nêu trên ông không đồng ý. Thực tế khi ly hôn
bà H đã đề nghị phân chia thửa đất trên nhưng Tòa án đã xác minh xác định thửa
đất trên thuộc hành lang đường Quốc lộ 2C và việc giao đất của UBND Đ
trái thẩm quyền nên đã không xem xét giải quyết. Nay H khởi kiện yêu cầu
chia thửa đất số 54 thuộc tờ bản đồ số 23, diện tích 562m
2
, địa chthôn T, xã Đ,
huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc,ông đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà H.
Tại biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Hoàng
Thị B trình bày: Cụ cụ Nguyễn Minh K chung sống với nhau vào khoảng
trước năm 1960, đến khoảng năm 1967 - 1968 cụ Nguyễn Thị N quan hệ
chung sống với cụ Nguyễn Minh K. Tuy nhiên cụ và cụ N sống khác nnhau,
người sống nhà trong người sống nhà ngoài.
4
Trong quá trình chung sống cụ c Nguyễn Minh Khai S2 được 07
người con là: Bà Nguyễn Thị S3 (chết năm 2006), Nguyễn Thị T2, bà
Nguyễn Thị T3, ông Nguyễn Minh H2, ông Nguyễn Minh H6, ông Nguyễn
Minh H3 chị Nguyễn Minh H10. Ngoài ra, cụ Nguyễn Minh K và cụ Nguyễn
Thị N sinh được thêm 05 người con gồm: Ông Nguyễn Minh T, Nguyễn Thị
T4, Nguyễn Thị H4, chị Nguyễn Thị T1, anh Nguyễn Minh H5. Chị H4 là
con ruột của cụ K cụ N, hiện nay chị cùng nhà với anh H5. Anh H5
người chăm sóc nuôi dưỡng chị H4, do chị H4 hạn chế vnhận thức. Tuy
nhiên chưa quan chức năng nào Tuyên bố chị H4 mất năng lực hành vi
dân sự.
Theo cụ được biết, năm 1985 cụ Nguyễn Minh K cNguyễn Thị N
nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn T6 cùng địa nơi cư trú thửa đất thùng
đấu thuộc khu vực Đ, thôn T, Đ, huyện T (Sau đó gia đình nhà ông T6
chuyển đi đâu cụ không nắm được, hiện nay cụ không biết địa chỉ của ông T6
đâu). Sau đó được Ủy ban nhân dân xã Đ hợp thức giao đất cho cụ K và cụ N sử
dụng thu tiền. Năm 1994, vợ chồng ông T, bà H mựơn một phần đất
trên để làm gạch. Khi mượn đất ông T có viết giấy và xác nhận của Ủy ban nhân
dân xã Đ. Đến năm 2002, ông T trả lại đất cho cụ Nguyễn Minh K với lý do là ô
nhiễm môi trường nên chính quyền địa phương không cho làm gạch. Trong năm
2003 cNguyễn Minh K cụ Nguyễn Thị N đã tách cho ông Nguyễn Minh T
một phần thửa đất (diện tích 288m
2
). Ông T đã xây dựng 03 gian nhà cùng
chuồng trại chăn nuôi trên đất và sử dụng từ đó cho đến nay. Do vậy cụ xác định
toàn bộ thửa đất diện tích 562m
2
là tài sản của cụ Nguyễn Minh K và cụ Nguyễn
ThN. Tuy nhiên, theo cụ được biết là toàn bộ thửa đất trên thuộc hành lang
quốc lộ 2C nên cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến
nay Nguyễn Thị H khởi kiện tranh chấp thửa đất trên của gia đình cụ. Quan
điểm của cụ không đồng ý đề nghị Toà án giải quyết theo đúng quy định
của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Nguyễn
Thị N trình bày: Cụ mẹ đẻ của ông Nguyễn Minh T, cụ cụ Nguyễn Minh
Khai S2 được 05 người con Nguyễn Minh T, Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị
H4, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Minh H5. Cụ K n cả cụ Hoàng Thị B.
Cụ K và cụ B 07 người con Nguyễn Thị S3, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị
T3, Nguyễn Minh H2, Nguyễn Minh H6, Nguyễn Minh H3 Nguyễn Minh
H10.
Thửa đất hiện nay H đang khởi kiện thửa đất của cụ cụ K ng
nhau mua của ông Nguyễn Văn T6 chỉ viết tay với nhau thửa đất này đất
thùng đấu do ông T6 khai hoang được. Vợ chồng cụ quản sử dụng đất từ
năm 1985 đến năm 1992 thì được UBND Đ chính thức giao đất cho cụ K
thu tiền. Vợ chồng cụ sử dụng đất đến năm 2003. Sau khi ông T H ly hôn
cụ K đã tách một phần diện tích đất cho ông T quản lý và sử dụng. Phần đất hiện
nay còn lại cụ vẫn đang quản sử dụng. Nay thửa đất trên thuộc hành lang
5
đường giao thông QL2C thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. H đơn khởi kiện cụ không đồng ý, đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Minh H2, ông Nguyễn Minh H3, Nguyễn ThT2, Nguyễn ThT3,
ông Nguyễn Minh H6 thống nhất trình bày: Bố mẹ các ông, cụ Nguyễn
Minh K cụ Hoàng Thị B sinh được 07 người con là: Nguyễn Thị S3,
Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3, ông Nguyễn Minh H2, ông Nguyễn Minh
H6, ông Nguyễn Minh H3 chị Nguyễn Minh H10. Ngoài ra cụ K còn
vợ hai c Nguyễn Thị N. Cụ K cụ N sinh được 05 người con là: Ông
Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị T4, bà Nguyễn Thị H4, chị Nguyễn Thị T1, anh
Nguyễn Minh H5. Về nguồn gốc quá trình sử dụng thửa đất trên các ông,
không có bổ sung gì với lời trình bày của cụ N cụ B. Đến nay bà Nguyễn Thị
H khởi kiện tranh chấp thửa đất trên của gia đình các ông, bà. Quan điểm của
các ông, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết
theo đúng quy đinh của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Minh H5, Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị T1 thống nhất trình bày:
Bố mẹ các ông, cụ Nguyễn Minh K và cụ Nguyễn Thị N. Cụ K cụ N
sinh được 05 người con là: Ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị T4, bà Nguyễn
Thị H4, chị Nguyễn Thị T1, anh Nguyễn Minh H5. Cụ K vợ cả cHoàng
Thị B sinh được 07 người con là: Nguyễn Thị S3, Nguyễn Thị T2, bà
Nguyễn Thị T3, ông Nguyễn Minh H2, ông Nguyễn Minh H6, ông Nguyễn
Minh H3 và chị Nguyễn Minh H10. Về nguồn gốc và quá trình sử dụng thửa đất
trên các ông, bà không có bổ sung gì với lời trình bày của cụ N và cụ B. Đến nay
Nguyễn Thị H khởi kiện tranh chấp thửa đất trên của gia đình các ông, bà,
quan điểm của các ông, bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện đề nghị
Toà án giải quyết theo đúng quy đinh của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị H4 do ông Nguyễn Minh H5 người đại diện hợp pháp trình bày:
Ông em ruột của Nguyễn Thị H4, sinh năm 1978, H4 bị tâm thần t
năm 2011. H4 cùng với ông từ thời điểm đó đến nay tại thôn T, Đ,
huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, ông người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc H4,
do H4 nhận thức hạn chế, H4 được hưởng chế độ trợ cấp bệnh tật từ năm
2012, hiện nay số tiền trợ cấp 670.000đ/1 tháng, ông người trực tiếp nhận
số tiền trên hàng tháng. Từ trước tới nay gia đình ông cũng chưa đưa H4 đi
giám định đxác định H4 bị hạn chế hành vi dân shay mất năng lực
hành vi dân sự tại sgiám định tâm thần o. Nay gia đình ông ng không
đề nghị Tòa án tiến hành tuyên bố bà H4 hạn chế năng lực hành vi dân sự hay
mất năng lực hành vi dân sự với H4 gia đình xét thấy không cần thiết. Do
H4 đang với ông và do ông trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên ông sẽ
6
người đứng ra làm đại diện cho bà H4. Ông nhất trí với lời trình bày của các anh
chị em trong gia đình và không bổ sung gì thêm.
Tại biên bản tự khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Ngô Thị S,
chị NThX anh Ngô Trường T5 thống nhất trình bày: Các anh, chị con
của Nguyễn Thị S3. S3 chết năm 2006. Theo như các anh, chđược biết,
ông ngoại của các anh, chị cụ Nguyễn Minh K 02 vợ là: Cụ Hoàng Thị B
và cụ Nguyễn Thị N. Cụ B với cụ K có sinh được 07 người con là: bà Nguyễn
Thị S3, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3, ông Nguyễn Minh H2, ông
Nguyễn Minh H6, ông Nguyễn Minh H3 và chNguyễn Minh H10. Cụ K cụ
N sinh được 05 người con là: Ông Nguyễn Minh T, Nguyễn Thị T4,
Nguyễn Thị H4, chị Nguyễn Thị T1, anh Nguyễn Minh H5.
Các anh, chị được biết bà Nguyễn Thị H vợ của ông T (đã ly hôn từ
năm 2003) khởi kiện tranh chấp thửa đất chia tài sản chung đối với ông Nguyễn
Minh T. Quan điểm của cácanh, chkhông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
H đnghị Toà án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị
H.
Với nội dung trên, tại Bản án hôn nhân gia đình thẩm số
25/2024/DS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Tam
Dương đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 157, khoản
1 Điều 165, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệphí Tòa án.
1. Không chấp yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H về việc chia tài
sản sau khi ly hôn đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ số 23,diện tích 562m
2
, địa
chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
2. V chi phí tố tụng: Nguyễn Thị H phải chịu chi phí xem xét, thẩm
định tại chđịnh giá tài sản là 4.100.000đ (Bốn triệu một trăm nghìn đồng).
Xác nhận bà Nguyễn Thị H đã nộp đủ.
3. Ván phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm,
nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.620.000đồng theo Biên
lai thu số: AA/2020/0001520 ngày 19 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành
án dân shuyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Hoàn trả lại Nguyễn Thị H số
tiền là 5.320.000đồng (Năm triệu ba trăm hai mười nghìn đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy
định của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 11 tháng 7 năm 2024, Nguyễn Thị H
kháng cáo yêu cầu sửa bản án thẩm số: 25/2024/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 7
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Tam Dương theo hướng chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
7
Tại phiên tòa phúc thẩm bà H Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án phúc thẩm
sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của để chia cho
1 diện tích đất 562 m
2
cho rằng đây thửa đất do ông T mua t
năm 1991; đã xây dựng nhiều tài sản trên đất, ngoài ra bà còn có 01 lần thế chấp
để vay vốn ngân ng thế chấp nhiều tài sản trong đó thửa đất của ông
T nêu trên; Giấy tờ thể hiện việc Ủy ban nhân dân Đ bán cho cụ K
không đúng; ông T trả đất cho cụ K cũng là cách để ông T trốn tránh không thực
hiện nghĩa vụ phân chia tài sản của vợ chồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư Tòa án và các đương sự như
sau: Trong quá trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm, Hội đồng xét xử,
Thư Tòa án đương sự đã chấp hành đúng đầy đủ các quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1
Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị
H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 25/2024/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Tam Dương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hvụ án được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị H làm
trong hạn luật định, được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Quá trình giải quyết vụ án H y quyền cho ông Phạm Dương H8,
sinh năm 1993, Văn phòng L, địa chỉ: Tổ dân phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh
Vĩnh Phúc tham gia tố tụng. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bà H tự nguyện
rút ủy quyền, không ủy quyền cho ông H8 nữa tmình tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền lợi của mình. Các đương sự người liên quan tòa đã triệu tập
nhiều lần nhưng không mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy
định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Nguyễn Thị H ông Nguyễn Minh T kết hôn với nhau từ m 1987,
mâu thuẫn vợ chồng nên đã ly hôn. Tại Bản án Hôn nhân gia đình thẩm số
02/2003/LH-ST ngày 21/01/2003 của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh
Vĩnh Phúc đã giải quyết cho ông T, H được ly hôn phân chia tài sản
chung. Tuy nhiên, Tòa án không giải quyết phân chia tài sản quyền sử dụng
thửa đất số 54 thuộc tờ bản đồ số 23, diện tích 562m
2
, địa chỉ tại thôn T, Đ,
huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Nay H cho rằng thửa đất số 54 nêu trên tài sản
chung của H, ông T, nên H yêu cầu được chia bằng hiện vật với diện tích
281m
2
đất trong diện tích 562m
2
đất nêu trên. Ông Nguyễn Minh T cho rằng
yêu cầu chia tài sản chung của Nguyễn Thị H không đúng tại Bản án số
8
02/2003/LH-ST ngày 21/01/2003, Tòa án đã giải quyết triệt để nội dung vụ án
về quan hệ hôn nhân và tài sản chung. Đối với phần diện tích đất thuộc thửa đất
số 54, tờ bản đồ số 23, diện tích 562m
2
, địa chỉ tại thôn T, Đ, huyện T, tỉnh
Vĩnh Phúc đất cấp trái thẩm quyền, nằm trong hành lang đường giao thông
Quốc Lộ B thửa đất này của bố đẻ ông cụ Nguyễn Minh K, nên ông T
không đồng ý với yêu cầu chia tài sản chung của bà Nguyễn Thị H.
Bản án số 02/2003/LH-ST ngày 21/01/2003 Tòa án nhân dân huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc đã nhận định đối với thửa đất số 54 như sau:“…Diện
tích đất 562m
2
cấp trái thẩm quyền, đất nằm trong hành lang quốc lộ B nên
không thể hợp thức để giao quyền sử dụng đất được nên Tòa án không giải
quyết…”. Như vậy, bản án số 02/2003/LH-ST đã giải quyết tài sản trên đất, còn
quyền sử dụng thửa đất số 54 bản án số 02/2003/LH-ST chưa giải quyết đây
đất hành lang giao thông cấp trái thẩm quyền. Tòa án thẩm thụ lý, giải
quyết vụ án chia tài sản sau ly hôn là có căn cứ.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Thị H, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
[3.1] Về nguồn gốc đất:
Quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân Đ thể hiện: Nguồn gốc thửa
đất hiện nay do ông Nguyễn Minh T đang quản sử dụng nguồn gốc
của cụ Nguyễn Minh K. Diện tích đất trước đây một phần diện tích đất
thùng đấu gia đình cụ K sử dụng. Năm 1992, Ủy ban nhân dân xã Đ đã hợp thức
giao quyền sử dụng đất cho hộ cụ Nguyễn Minh K (là bố đcủa ông Nguyễn
Minh T). Theo Nghị định 11/2010 ngày 24/02/2010 của Chính phủ thì thửa đất
của gia đình cụ Nguyễn Minh K thuộc chỉ giới quốc lộ B vậy không thể hợp
thức giao quyền sử dụng đất được nên việc giao đất trên trái thẩm quyền.
Theo bản đồ 299 và theo sổ mục kê được lập năm 1997 thì thửa đất số 54, tờ bản
đồ số 23, diện tích 562m
2
mang tên ông Nguyễn Minh K. Theo bản đồ VN B
diện tích đất trên tách thành 02 thửa với diện tích: thửa thứ nhất 788,6m
2
mang tên cụ Nguyễn Minh K thửa thứ hai 685,6m
2
mang tên ông Nguyễn
Minh T (thuộc thửa số 503, tờ bản đồ 37, diện tích đất tăng lên là bộ phận đo vẽ
đo cả phần diện tích đất nông nghiệp nhà cụ K). Năm 2003, cụ Nguyễn Minh K
đã làm thủ tục chuyển nhượng đất cho ông T xác nhận của UBND Đ, tuy
nhiên việc chuyển nhượng không hợp pháp chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thuộc đất quy hoạch hành lang đường.
Tòa án cấp thẩm đã tiến hành xác minh tại Sở giao thông vận tải tỉnh
V thể hiện: Quốc lộ B đoạn qua địa phận Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc hiện tại
đường cấp IV, chiều rộng nền đường 9m, chiều rộng mặt đường 8m. Theo
Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 01/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm
2025, Quốc lộ B qua địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc được quy hoạch với quy mô đường
cấp III-IV, 02-04 làn xe. Quyết định số 158/QĐ-TTg ngày 06/02/2024 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, tầm
nhìn đến năm 2035, Quốc lộ B qua địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc được quy hoạch với
9
quy đường cấp II-IV, 02-06 n xe. Như vậy đối chiếu với các quy định nêu
trên, đoạn tuyến QL.2C qua địa bàn Đ chiều rộng phần đất bảo vệ, bảo trì
đường b01, chiều rộng tối đa phần đất hành lang an toàn giao thông đường
bộ là 17m.
Ngoài ra, tại Bản án số 02/2003/LH-ST ngày 21/01/2003, Tòa án nhân
dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc đã giải quyết cho Nguyễn Thị H
ông Nguyễn Minh T được ly hôn giải quyết về phần tài sản của H ông
T tạo dựng trên thửa đất số 54, tờ bản đố số 23, diện tích 562m
2
, bản án đã
nhận định đối với thửa đất số 54 như sau:…Diện tích đất 562m
2
cấp trái
thẩm quyền, đất nằm trong hành lang quốc lộ B nên không thể hợp thức để giao
quyền sử dụng đất được nên Tòa án không giải quyết…”.
[3.2] Tại cấp phúc thẩm, H, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
cho H cho rằng thửa đất số 54, tờ bản đồ số 23, diện tích 562m
2
, địa chỉ thửa
đất thôn T, Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc là tài sản chung của H ông T,
do ông T, H mua của Ủy ban nhân dân Đ, huyện T từ năm 1991 với giá
khoảng 600.000đ, có giấy tờ mua bán và bà H cho rằng giấy tờ mua bán, chuyển
nhượng do ông T giữ. Ông T tại phiên tòa khẳng định không việc vợ chồng
mua thửa đất này nên không thể giấy tờ như H khai được, diện tích đất
trên là do bố ông là cụ K mua năm 1992, có giấy tờ có thu tiền của Ủy ban nhân
dân xã Đ và hàng năm cụ K nộp thuế cho Nhà nước đầy đủ.
H không cung cấp được bất cứ tài liệu, chứng cứ nào thể hiện thửa đất
yêu cầu chia là do vợ chồng mua có. Các tài liệu chứng cứ, lời khai
của đương sự; xác minh tại Ủy ban nhân xã Đ thể hiện Ủy ban nhân dân xã giao
thửa đất số 54, tờ bản đồ số 23, diện tích 562m
2
cho cụ K thu tiền. Như vậy,
không căn cứ o mới so với các tài liệu đã cung cấp tại cấp thẩm để
chứng minh rằng thửa đất trên là của bà H và ông T.
[3.3] H cho rằng thửa đất trên được ông xây tạo dựng một số i
sản trên đất, sau đó còn thế chấp các tài sản trên cho Ngân hàng nông nghiệp để
vay tiền nên bà cho rằng thửa đất này là của vợ chồng bà nên bà đề nghị chia tài
sản trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại thời điểm giải quyết ly hôn giữa bà H
ông T năm 2003, thì H đã đề nghị phân chia thửa đất này. Tòa án huyện T đã
xác minh thửa đất này được Ủy ban nhân dân Đ xác nhận là được Ủy ban
nhân dân giao cho ông K thu tiền; đất giao trái thẩm quyền, thuộc hành
lang đường nên không phân chia được. Điều đó cũng thể hiện đất này không
phải của vợ chồng ông T, H nên Tòa án chỉ chia tài sản trên đất. Đối với việc
thế chấp tài sản để vay vốn, tài liệu do H cung cấp cũng như Tòa án thẩm
thu thập thhiện: năm 1997, ông T vay vốn ngân hàng Nông nghiệp
4.000.000đ nhưng thế chấp nhiều tài sản cả đất nông nghiệp đất thổ cư.
Thửa đất thổ cư có chỗ thì ghi 02 sào, có chỗ ghi 730m
2
nhưng không có giấy tờ
thể hiện thửa đất ô, thửa nào; không giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng
đất kèm theo; đơn vay tiền chỉ thế chấp nhà cấp 4 bếp; tờ khai thế chấp chỉ
ước tính giá trị nhà cấp 4 bếp (Bl 13, 16, 17) . Mặt khác, cũng không tài
liệu, căn cứ nào thể hiện cụ K cho vợ chồng ông T, H đất; ông T, H đến
10
trước khi ly hôn năm 2003 chưa bao giờ tên trong sổ sách địa chính tại địa
phương thể hiện có thửa đất này. (Đến nay thửa đất số 54 trên vẫn chưa được
quan có thẩm quyền giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai).
Từ những phân tích, nhận định nêu trên việc H yêu cầu chia tài sản
chung với ông T thửa đất 54, tờ bản đồ 23, diện tích 562m
2
không căn
cứ. Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị
H căn cứ, đúng quy định pháp luật. Do vậy kháng cáo của nguyên đơn đề
nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là không có căn cứ để chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng, án phí:
Bản án thẩm đã quyết định về án phí thẩm chi phí tố tụng theo
quy định, các đương sự đồng ý và không kháng cáo về án phí, chi phí tố tụng mà
án sơ thẩm đã quyết định.
Về án p dân sự phúc thẩm: Kháng o của bà Nguyễn Thị H không
được tòa án chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị H. Giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số 25/2024/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 7 năm 2024 của Toà án
nhân dân huyện Tam Dương.
Căn cứ vào Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 157, khoản
1 Điều 165, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H về việc chia tài
sản sau khi ly hôn đối với thửa đất số 54, tờ bản đồ s23, diện tích 562m
2
, địa
chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
2. V chi phí tố tụng: Nguyễn Thị H phải chịu chi phí xem xét, thẩm
định tại chđịnh giá tài sản là 4.100.000đ (Bốn triệu một trăm nghìn đồng).
Xác nhận bà Nguyễn Thị H đã nộp đủ.
3. Ván phí:
Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự thẩm, nhưng được
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.620.000đồng theo Biên lai thu số:
AA/2020/0001520 ngày 19 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Hoàn trả lại Nguyễn Thị H số tiền
5.320.000đồng (Năm triệu ba trăm hai mười nghìn đồng).
Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sphúc thẩm, nhưng
11
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu số:
0007085 ngày 19 tháng 7 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
Các quyết định khác của án thẩm không kháng cáo, không bị kháng
nghị có hiệu lực pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Tam Dương;
- VKSND huyện Tam Dương;
- Chi cục T.H.A DS huyện Tam Dương;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Văn Mạnh
Tải về
Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT Bản án số 10/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất