Bản án số 05/2020/HNGĐ-ST ngày 12/05/2020 của TAND Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 05/2020/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 05/2020/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 05/2020/HNGĐ-ST ngày 12/05/2020 của TAND Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Sơn Trà (TAND TP. Đà Nẵng) |
Số hiệu: | 05/2020/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa bà T và ông C |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 12 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2020/QĐST-HPT ngày 19/3/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST-HPT ngày 16/4/2020 giữa:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Tố T. Sinh năm: 1991. Nghề nghiệp: Nhân viên tư vấn bảo hiểm. Địa chỉ: Tổ 72, phường T, quận S, TP Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn : Ông Cao Thanh C. Sinh năm 1992. Nghề nghiệp: Đầu bếp. Địa chỉ: K139/H37/71T, phường T, quận S, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/11/2019 được bà Phạm Thị Tố T nộp trực tiếp đến Tòa án ngày 04/12/2019, bản tự khai và tại phiên toà sơ thẩm hôm nay nguyên đơn – bà Phạm Thị Tố T có mặt trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Cao Thanh C kết hôn vào năm 2018. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng bà sống tại tổ 72, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là ông C thường xuyên vắng nhà, không quan tâm, chăm sóc gia đình và bà phát hiện ông C có quan hệ tình cảm trong thời kỳ hôn nhân với một người phụ nữ khác. Mặc dù đã được gia đình khuyên bảo nhưng ông C không nghe. Bà và ông C không còn tiếng nói chung, mâu thuẫn càng ngày càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện nay, bà và ông C không còn quan tâm đến nhau trong cuộc sống, đã sống ly thân. Nay xét về tình cảm, bà xác định không còn yêu thương ông C nữa nên xin Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Cao Thanh C.
- Về quan hệ con chung: Bà T xác định giữa bà và ông C có 01 con chung là Cao Kỳ N, sinh ngày 24/8/2018. Ly hôn, bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Cao Kỳ N cho đến khi con đủ 18 tuổi và yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung số tiền 3.000.000 đồng/ tháng đến khi con đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa hôm nay, bà thay đổi yêu cầu khởi kiện, bà không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung và nợ chung: Bà xác định không có Bị đơn ông Cao Thanh C từ khi Tòa án thụ lý cho đến khi xét xử không có mặt theo triệu tập của Tòa án, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và không tham gia phiên tòa nên không có ý kiến lưu hồ sơ vụ án Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà phát biểu về sự tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự. Theo đó: Thẩm phán, Thư ký, Hội Thẩm nhân dân, tuân thủ đúng pháp luật từ khâu thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ và mở phiên tòa xét xử. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc không tuân thủ quy định của pháp luật. Về nội dung : Xét thấy quan hệ hôn nhân của bà T và bà C đã thật sự trầm trọng, cuộc sống hôn nhân thực tế không còn tồn tại nên đề nghị HĐXX áp dụng điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam cho bà T được ly hôn ông C; về con chung: bà Tâm xác định giữa bà và ông C có 01 con chung là Cao Kỳ N, sinh ngày 24/8/2018. Ly hôn, bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa bà T không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con chung, ông C không có ý kiến, yêu cầu gì nên đề nghị HĐXX căn cứ điều 81, 82,83,84 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giao con chung là Cao Kỳ N, sinh ngày 24/8/2018 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi; về tài sản chung, nợ chung: Không đề cập giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: ông Cao Thanh C là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng nhưng không có mặt. Tại phiên tòa hôm nay ông Cao Thanh C vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt bị đơn
[2] Về nội dung: Bà Phạm Thị Tố T và ông Cao Thanh C kết hôn vào năm 2018. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số 124 do UBND phường Thọ Quang cấp ngày 15/6/2018.Do đó, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tại phiên tòa hôm nay bà T xác định từ năm 2019 đến nay tình cảm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo bà T trình bày là do ông C thường xuyên vắng nhà không quan tâm, chăm sóc gia đình và bà T phát hiện ông C sống không chung thủy, có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Gia đình hai bên đã khuyên nhủ, bà T đã tha thứ cho ông C nhưng ông C không nghe. Hiện nay, bà T và ông C đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau trong cuộc sống. Tại phiên tòa hôm nay, bà T xác định không còn tình cảm yêu thương ông C nữa nên xin Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Cao Thanh C. Đối với ông C có ý thức để mặc, không tham gia các phiên hòa giải, chứng tỏ không còn tha thiết với chính gia đình của mình. Đại diện tổ dân phố nơi bà T, ông C sinh sống xác định bà T và ông C sau khi kết hôn có sống tại tổ 72 phường Thọ Quang, Trong thời gian chung sống tại địa phương thì thấy ông C và bà T có mâu thuẫn, theo bà T báo cáo do ông C không chung thủy dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, ông C và bà T hiện đã ly thân không sống chung với nhau. Do vậy, HĐXX xét thấy mâu thuẫn của bà T, ông C đã đến mức trầm trọng, hai bên không còn mục đích xây dựng hạnh phúc chung nên, đã sống ly thân không quan tâm gì đến nhau nên không cần thiết phải duy trì cuộc hôn nhân mà thực tế đã không còn tồn tại mà cần giải quyết cho bà T được ly hôn với ông C là phù hợp quy định tại điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
[3]Về con chung: bà T xác định giữa bà và ông C có 01 con chung là Cao Kỳ N, sinh ngày 24/8/2018. Ly hôn, bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung. Xét việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng đều phải dựa vào quyền lợi mọi mặt của con, đảm bảo được sự phát triển của con cả về thể chất lẫn tinh thần, cháu Cao Kỳ N đang chung sống với bà T, ông C không có ý kiến gì về vấn đề nuôi con nên cần tiếp tục giao con Cao Kỳ N, sinh ngày 24/8/2018 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại điều 81 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Bà T không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.
[4]Về tài sản chung, nợ chung: bà Phạm Thị Tố T xác định không có. Ông Cao Thanh C không có ý kiến gì về các vấn đề này nên HĐXX không đề cập giải quyết. Sau này các đương sự có tranh chấp, khởi kiện tại Tòa án thì sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.
Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ nguyên đơn bà Phạm Thị Tố T phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Phạm Thị Tố T đối với ông Cao Thanh C về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung.
Tuyên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Phạm Thị Tố T được ly hôn với ông Cao Thanh C (Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Tố T đối với ông Cao Thanh C nên giấy chứng nhận kết hôn hôn số 124 do UBND phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng cấp ngày 15/6/2018 không còn giá trị pháp lý) - Về quan hệ con chung: Giao con Cao Kỳ N, sinh ngày 24/8/2018 cho bà Phạm Thị Tố T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Cao Thanh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung không ai được ngăn cản. Khi cần thiết vì quyền lợi của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung .
- Về tài sản chung, nợ chung: Không đề cập đến.
2. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Phạm Thị Tố T phải chịu, được khấu trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, biên lai thu số 0008282 ngày 16/12/2019.
Báo cho bà Phạm Thị Tố T biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/5/2020. Riêng ông Cao Thanh C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!