Bản án số 03/2024/LĐ-PT ngày 27/08/2024 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2024/LĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 03/2024/LĐ-PT ngày 27/08/2024 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Định
Số hiệu: 03/2024/LĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/08/2024
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hồ Tư H - Đào Thị Th DNTN Thiên Ph
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 03/2024/-PT
Ngày: 27 - 8 - 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng lao động
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Minh Dũng.
Các Thẩm phán: Ông Lê Xuân Hải.
Ông Nguyễn Văn Hiệp.
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Phương Thủy là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Xuân Hợp - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét x
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2024/TLPT-ngày 17 tháng 6 năm 2024
về việc “Tranh chấp hợp đồng lao động”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/LĐ-ST ngày 29 tháng 3 năm 2024 của
Toà án nhân dân thành phố Q bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xphúc thẩm số 149/2024/QĐXXPT-DS
ngày 01 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hồ H, sinh năm 1966; trú tại: Số B đường T, phường
B, thị xã A, tỉnh Bình Định. (có mặt)
- Bị đơn:Đào Thị T - Chủ Doanh nghiệp tư nhân T3. (có mặt)
Đại diện theo ủy quyền: Thị Thu N, chức vụ: Cán bộ phụ trách kinh
doanh của Doanh nghiệp tư nhân T3 (văn bản ủy quyền ngày 19/11/2015). (có mặt)
Địa chỉ trsở: B - B đường số A, Khu ng nghiệp P, phường T, thành
phố Q, tỉnh Bình Định.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn C; trú tại: Xóm S, thôn C, C, huyện P, tỉnh Bình Định.
(vắng mặt)
2. Ông Nguyễn Văn K; trú tại: Xóm S, thôn C, C, huyện P, tỉnh Bình Định.
(vắng mặt)
3. Ông Nguyễn Kim N1; trú tại: Xóm S, thôn C, C, huyện P, tỉnh Bình Định.
(vắng mặt)
4. Ông Hồ Văn P; trú tại: Số B đường N, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định.
(có mặt)
5. Ông Nguyễn n T1; trú tại: B - B đường số A, Khu Công nghiệp P,
phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định. (có mặt)
6. Ông Võ Xuân B; trú tại: Số I đường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định. (vắng
mặt)
- Người kháng cáo: Ông Hồ Tứ H1 nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Hồ Tư H, trình bày:
Ngày 19/12/2008 ông Đào Thị T - Chủ doanh nghiệp nhân T3 có thỏa
thuận lập biên bản ghi nhớ pháp lý với nội dung ông làm chức vụ Phó giám đốc cho
T3, Đào Thị T - Chủ T3 đồng ý trả mức lương lao động cho ông từ ngày
19/12/2008 đến khi thanh lý hợp đồng lao động là 5.000.000đ/tháng nhưng với thỏa
thuận nợ lương hàng tháng và hàng năm cho đến khi T3 hết khó khăn và đi vào hoạt
động chính. Đến ngày 02/01/2013 bà Đào Thị T - Chủ T3 và ông thỏa thuận lập
hợp đồng lao động số 01/HĐLĐ-TP ngày 02/01/2013 và phụ lục hợp đồng lao động
số 02-PLHĐLĐ-TP ngày 16/5/2013. Theo hợp đồng lao động trên thời hạn lao
động tngày 02/01/2013 cho đến ngày 31/12/2013 với chức vụ Phó giám đốc và
mức lương là 9.000.000đ/tháng. theo phụ lục hợp đồng ngày 16/5/2013 T cam
kết thực hiện chi trả hết tiền lương còn nợ ông từ ngày 19/12/2008 cho đến ngày
31/12/2012. Ông làm việc tại T3 đến hết ngày 15/7/2013 thì nghỉ, ông đã nhiều lần
yêu cầu Đào Thị T - Chủ DNTN Thiên Phú trả tiền lương còn nợ ông tngày
19/12/2008 cho đến ngày 15/7/2013 và các chế độ bảo hiểm hội cho ông nhưng
không được T chấp nhận.
Ông khởi kiện yêu cầu Đào Thị T - Chủ T3 phải trả cho ông số tiền lương
còn nợ là: 300.500.00(trong đó nợ lương từ ngày 19/12/2008 đến ngày 31/12/2012
là: 5.000.000đ x 48 tháng 12 ngày = 242.000.000đ, và nợ lương từ ngày 02/01/2013
đến ngày 15/7/2013 là 6 tháng 15 ngày là: 9.000.000đ x 6 tháng 15 ngày =
58.500.000đ) và tiền lãi chậm trả tính đến ngày 20/02/2020; và yêu cầu bà Đào Thị
T - Chủ T3 phải đóng tiền bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế bảo hiểm thất nghiệp
cho ông H theo quy định của pháp luật.
Tại phiên Tòa sơ thẩm ông H yêu cầu bà Đào Thị T - Chủ T3 phải có nghĩa vụ
trả cho ông tổng cộng là 600.000.000đ bao gồm tiền lương và tiền lãi phát sinh.
Bị đơn Đào Thị T - Chủ doanh nghiệp nhân T3 người đại diện theo
ủy quyền của T là Võ Thị Thu N thống nhất trình bày:
Ông Hồ H vào làm việc cho Doanh nghiệp nhân T3 từ ngày 19/12/2008
cho đến ngày 28/6/2013 thì ông Hồ Tư H tự ý nghỉ việc không làm cho T3 nữa. Từ
lúc ông Hồ Tư H bắt đầu làm việc cho đến khi ông H nghỉ việc, T3 đã chi trả lương
đầy đủ cho ông H. Hiện T3 không nợ lương của ông H vì khi ông H nhận lương của
T3 bảng thanh toán nhận lương phụ cấp từ bộ phận kế toán mà T3 đã cung cấp
bản sao cho Tòa án về hợp đồng lao động các bảng nhận lương của ông H. Nên
Doanh nghiệp tư nhân T3 không đồng ý bất k yêu cầu nào của ông Hồ Tư H T3
đã trtiền lương đầy đủ cho ông H. Tại phiên phúc thẩm bà Dào Thị T2 trình bày bổ
sung, T3 thành lập trên sở những người thân quen, theeo quy định Doanh nghiệp
tư nhân không có chức danh Phó giám đốc nhưng vì để dễ quản lý nên tự phong cho
ông H phó giám đốc doanh nghiệp, hàng tháng theo đề xuất chi lương của ông H
thì doanh nghiệp đưa toàn bộ lương cho ông H phát lương cho nhân viên và trong đó
lương của ông H, việc phát lương cho nhân viên lúc ông H ghi vào sổ tay
nhân ông H lúc ông H lập bảng lương giao nhân viên nên ông ông H chứ nhận
lương không sở. Hiện nay các chứng từ giao nhận lương nhân viên ông H
giữ không đưa lại cho doanh nghiệp.
Người làm chứng:
1. Ông Hồ Văn P, trình bày:
Ông làm việc tại T3, hiện nay ông không còn làm việc tại T3, ông không
nhớ làm việc từ thời gian nào đến thời gian nào, ông Hồ Tư H là bà con xa của ông,
ông H là Pgiám đốc điều hành doanh nghiệp, người giới thiệu ông vào làm việc
tại Doanh nghiệp T3 ông làm kỹ thuật san ủi mặt bằng, lương mỗi tháng 3.000.000đ.
Ông nhận lương theo hình thức nhận trực tiếp từ ông H vào cuối tháng ông vào
sổ tay của ông Hồ Tư H nên ông khẳng định các chữ ký trên bản lương không phải
là do ông ký.
2. Ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Kim N1 Tòa án cấp thẩm đã đến nhà
làm việc nhưng ông C1, ông N1 đã đi làm ăn xa.
3. Ông Nguyễn Văn K, trình bày: Làm bảo vtại Doanh nghiệp T3, làm khoản
01 đến 02 năm thì xin nghỉ không còn làm việc tại doanh nghiệp, khi còn làm việc
thì ông Hồ H phó giám đốc doanh nghiệp. Ông tổ trưởng tổ bảo vệ mức
lương hàng tháng khoản t1.300.000đ đến 1.500.000đ, hàng tháng ông đều nhận
lương đầy đủ chữa trong bảng thanh toán tiền lương năm 2008 2009 của
ông.
Tại bản án lao động thẩm số 01/2024/-ST ngày 29 tháng 3 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố Q quyết định:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hồ H yêu cầu Đào Thị T -
Chủ doanh nghiệp tư nhân T3 phải trả cho ông số tiền lương còn nợ và tiền lãi chậm
trả tính đến ngày xét xử tổng cộng là 600.000.000đ và yêu cầu bà Đào Thị T - Chủ
T3 phải đóng tiền bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế bảo hiểm thất nghiệp cho ông
H theo quy định của pháp luật.
2. Về chi phí giám định hết 5.050.000đ bà Đào Thị T đã tạm ứng: Ông Hồ
H nghĩa vụ hoàn trả lại 5.050.000đ cho bà Đào Thị T - Chủ doanh nghiệp tư nhân
T3.
Ngoài ra, bản án lao động sơ thẩm còn quyết định về án phí quyền kháng
cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 04/4/2024 ông Hồ H kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:
1. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân
sự.
2. Về việc giải quyết vụ án: Kết quả giám định các tài liệu ông H cung cấp
gồm Biên bản ghi nhớ pháp ngày 19/12/2008, Hợp đồng lao động 01/HĐLĐ-TP
ngày 02/01/2013 và phụ lục hợp đồng lao động số 02-PLHĐ-TP ngày 16/5/2013
không phải do bà T ký. Tuy nhiên, ông H yêu cầu giám định chữ của ông H trong
các bảng lương năm 2008 2009 do bị đơn cung cấp cho Tòa. Do đó đề nghị HĐXX
phúc thẩm căn cứ Điều 304 BLTTDS, điểm c khoản 1 Điều 259 BLTTDS cho tạm
ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ thì mới có thể giải
quyết được vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng ông
Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn K, Nguyễn Kim N1, Xuân B, nhưng đã được triệu
tập hợp lệ đến lần thứ hai nên theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bluật Tố tụng
Dân sự thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Hồ Tư H, HĐXX nhận thấy:
Theo ông Hồ H Ngày 19/12/2008, giữa ông Hồ Tư H Đào Thị T chủ
T3 có ký Biên bản ghi nhớ pháp lý với nội dung ông H làm việc tại T3 chức vụ Phó
giám đốc điều hành, thời hạn kể từ ngày 19/12/2008 đến khi kết thúc thanh hợp
đồng lao động, mức lương 5.000.000đ/tháng. Sau đó, giữa ông H và bà Đào Thị T -
Chủ T3 hợp đồng lao động số 01/HĐLĐ-TP ngày 02/01/2013 phụ lục hợp
đồng lao động số 02-PLHĐLĐ-TP ngày 16/5/2013. Theo hợp đồng lao động trên có
thời hạn từ ngày 02/01/2013 cho đến ngày 31/12/2013 với chức vụ Phó giám đốc và
mức lương 9.000.000đ/tháng. Đồng thời, theo phụ lục hợp đồng ngày 16/5/2013
T cam kết thực hiện chi trả hết tiền lương còn nợ ông H từ ngày 19/12/2008 cho
đến ngày 31/12/2012. Ông H làm việc tại T3 đến hết ngày 15/7/2013 thì nghỉ việc
nhưng bà T chưa trả nợ lương cho ông H. Do đó ông H khởi kiện yêu cầu Đào
Thị T - Chủ T3 phải trả cho ông số tiền lương còn nợ tiền lãi chậm trả tính đến
ngày xét xử sơ thẩm tổng cộng là 600.000.000đ (trong đó nợ lương từ ngày
19/12/2008 đến ngày 31/12/2012 là: 5.000.000đ x 48 tháng 12 ngày = 242.000.000đ,
và nợ lương từ ngày 02/01/2013 đến ngày 15/7/2013 là 6 tháng 15 ngày là:
9.000.000đ x 6 tháng 15 ngày = 58.500.000đ, còn lại là tiền lãi); ngoài ra ông H còn
yêu cầu Đào Thị T - Chủ T3 phải đóng tiền bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế và bảo
hiểm thất nghiệp cho ông theo quy định của pháp luật.
Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình ông H cung cấp bản gốc Biên
bản ghi nhớ pháp ngày 19/12/2008, Hợp đồng lao động 01/HĐ-TP ngày
02/01/2013 phụ lục hợp đồng lao động số 02-PLHĐLĐ-TP ngày 16/5/2013, Quyết
định bổ nhiệm Phó giám đốc điều hành ngày 01/12/2008 trên Biên bản ghi nhớ
pháp lý ngày 19/12/2008, Hợp đồng lao động 01/HĐLĐ-TP ngày 02/01/2013 phụ
lục hợp đồng lao động số 02-PLHĐLĐ-TP ngày 16/5/2013 ghi thỏa thuận nợ
lương của ông H.
Nhưng bà T cho rằng chữ ký của bà trên các tài liệu do ông H cung cấp là giả
không phải chữ ký của bà, doanh nghiệp đã trả lương đầy đủ cho ông H từ khi ông
H o làm việc cho doanh nghiệp đến khi ông H tý nghỉ việc, ông H là Pgiám
đốc doanh nghiệp (tự phong không có quyết định bổ nhiệm mục đích đông H thuận
lợi thay mặt bà T quản lý doang nghiệp) nên hàng tháng theo đề xuất chi lương của
ông H thì doanh nghiệp đưa toàn bộ lương cho ông H phát lương cho nhân viên
trong đó lương của ông H, việc phát lương cho nhân viên lúc ông H ghi vào sổ
tay cá nhân ông H mà chưa cung cấp lại cho doanh nghiệp.
Tòa án đã tổ chức giám định hai lần kết qutại kết luận giám định số 34/C09C-
DD ngày 08/01/2021 của V tại thành phố Đ tại kết luận giám định số 337/C09-P5
ngày 17/12/2021 của V Bộ C3 đều xác định chữ trên Biên bản ghi nhớ pháp
ngày 19/12/2008, Hợp đồng lao động 01/HĐLĐ-TP ngày 02/01/2013, phụ lục hợp
đồng lao động số 02-PLHĐLĐ-TP ngày 16/5/2013 Quyết định bổ nhiệm Phó giám
đốc điều hành ngày 01/12/2008 không phải chữ của bà Đào Thị T nên các tài liệu
chứng cứ ông H đưa ra để chứng minh Doanh nghiệp còn nợ tiền lương ông không
có cơ sở để chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Hồ Tư H không cung cấp được
thêm tài liệu, chứng cứ mới nào khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của
mình là đúng.
Xét lời khai người làm chứng do ông H yêu cầu, ông Nguyễn Văn K tổ
trưởng tổ bảo vệ mức lương hàng tháng khoản từ 1.300.000đ đến 1.500.000đ, hàng
tháng ông K đều nhận lương đầy đủ và vào bảng thanh toán tiền lương năm 2008
2009; Người làm chứng ông Hồ Văn P xác định ông P ông H quan hệ họ
hàng với nhau, ông H Phó giám đốc điều hành doanh nghiệp, người giới thiệu
ông P vào làm việc tại Doanh nghiệp T3, ông P làm kỹ thuật san ủi mặt bằng, lương
mỗi tháng 3.000.000đ, ông P nhận lương theo hình thức nhận trực tiếp từ ông H vào
cuối tháng ông P ký vào sổ tay của ông H nên ông khẳng định các chữ trên bản
lương không phải là do ông ký; Người làm chứng ông Nguyễn Văn T1 tại phiên tòa
phúc thẩm khẳng định trước đây ông T1 phó giám đốc doanh nghiệp ông H
cũng phó giám đốc, ông H người trực tiếp phát lương cho nhân viên trong doanh
nghiệp trong đó phần lương của ông H. Xét thấy lời khai của các nhân chứng
phù hợp với lời khai của T - Chủ DNTN Thiên P1 ng tháng doanh nghiệp
đều giao tiền lương cho ông H đi phát cho nhân viên trong đó có phần ông H và lúc
phát lương ông H chuẩn bị bảng lương cho nhân viên cũng lúc ông H chỉ
ghi vào sổ tay của ông H.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông H yêu cầu giám định tất cả các chữ ký của nhân
viên doanh nghiệp trên bảng lương năm 2008 2009 do bị đơn cung cấp cho tòa.
HĐXX xét thấy các chứng cứ do ông H cung cấp để khởi kiện doanh nghiệp còn nợ
lương ông H đã được Tòa án đưa đi giám định hai lần kết quả giám định xác định
chữ ký trên các chứng cứ này không phải của bà Đào Thị T - Chủ T3, đồng thời lời
khai của các nhân chứng xác nhận ông H là người phát lương cho doanh nghiệp như
nhận định nêu trên đủ sở đHĐXX bác đơn khởi kiện của ông Hồ H
không cần thiết phải ngừng phiên tòa để giám định theo yêu cầu của ông Hồ Tư H.
[3] Từ những nhận định nêu trên, xét thấy tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ
án đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Hồ H kháng cáo nhưng không
cung cấp được thêm tài liệu, chứng cứ mới nào khác đchứng minh cho yêu cầu
kháng cáo của mình đúng. Do đó HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân thành phố Q là phù hợp với quy định pháp luật.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hồ Tư H được miễn nộp theo Điều 11 của
pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/12/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
[5] Những quyết định khác của bản án dân sự thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX phúc thẩm căn cứ Điều 304 BLTTDS, điểm c khoản
1 Điều 259 BLTTDS cho tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu,
chứng cứ là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 15, 16 Bộ luật Lao động;
Căn cứ vào Điều 11 của pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án ngày 27 tháng 12 năm
2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Hồ H. Giữ nguyên bản án thẩm
số 01/2024/LĐ-ST ngày 29 tháng 3 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Q, tỉnh
Bình Định
2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Hồ H yêu cầu Đào Thị T - Chủ
doanh nghiệp tư nhân T3 phải trả cho ông số tiền lương còn nợ và tiền lãi chậm trả
tính đến ngày xét xử sơ thẩm tổng cộng là 600.000.000đ và yêu cầu bà Đào Thị T -
Chủ T3 phải đóng tiền bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế bảo hiểm thất nghiệp cho
ông H theo quy định của pháp luật.
3. Những quyết định khác của bản án dân sự thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hồ Tư H được miễn nộp.
5. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc b
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bình Định; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND thành phố Q;
- CCTHADS thành phố Q;
- Các đương sự; (Đã ký và đóng dấu)
- Lưu hồ sơ; Tòa Dân sự.
Phan Minh Dũng
Tải về
Bản án số 03/2024/LĐ-PT Bản án số 03/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2024/LĐ-PT Bản án số 03/2024/LĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất