Bản án số 03/2024/KDTM-PT ngày 24/08/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp về xây dựng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 03/2024/KDTM-PT ngày 24/08/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp về xây dựng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về xây dựng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Điện Biên |
Số hiệu: | 03/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/08/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng thi công công trình |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Bản án số: 03/2024/KDTM-PT
Ngày: 24-8-2024
“V/v Tranh chấp hợp đồng thi công
công trình”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thu Hương
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thị Thu Hằng và bà Nguyễn Thị Hòa
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Thu Thủy - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Điện Biên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Khánh Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 8 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 04/2023/TLPT-KDTM
ngày 27/11/2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng thi công công trình”. Do bản án
dân sự sơ thẩm số: 01/2023/KDTM-ST ngày 18/10/2023 của Tòa án nhân dân thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 04/2023/QĐ-PT ngày
27/12/2023; các quyết định hoãn phiên tòa và Thông báo mở lại phiên tòa số
05/TB-TA ngày 14/8/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Doanh nghiệp X; Địa chỉ: Số nhà 334, tổ dân phố 06, phường
M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Người đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Trí T,
chức vụ: Giám đốc (Có mặt).
2. Bị đơn: Công ty T; Địa chỉ trụ sở: Số nhà 335, tổ dân phố 08, phường T,
thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Người đại diện theo pháp luật: ông Bùi Đức G, chức vụ:
Giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền của ông Bùi Đức G: ông Đường Vinh H,
chức vụ: Phó giám đốc (Có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Phạm Ngọc H - Luật sư,
Công ty luật TNHH H; Địa chỉ trụ sở: Số 5, ngõ 53 NK, phường B, quận H, thành
phố Hà Nội (Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ban quản lý dự án các công
trình huyện M; Địa chỉ trụ sở: Thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Người đại

2
diện theo pháp luật: ông Nguyễn Gia T, chức vụ: Giám đốc (Có đơn xin xét xử
vắng mặt).
4. Người làm chứng:
- Ông Sùng Vả C; địa chỉ: Bản N, huyện M, tỉnh Điện Biên (vắng không có
lý do).
- Ông Phạm Thanh B; địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (vắng
có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Tại đơn khởi kiện ngày 03/4/2023 và quá trình giải quyết vụ án nguyên
đơn ông Đỗ Trí T trình bày:
Năm 2010, Doanh nghiệp X thi công gói thầu xây lắp số 4 thuộc Dự án đường
H-K-N, huyện M. Nhưng theo Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 10/10/2011 của Thủ
tướng Chính phủ nên công trình bị tạm dừng từ đó. Đến năm 2021, trong quá trình
chuẩn bị phê duyệt để tiếp tục thực hiện dự án năm 2022, doanh nghiệp có thoả
thuận và ký các loại văn bản có liên quan đến Chủ đầu tư Dự án và Công ty T.
Ngày 19/12/2021, Doanh nghiệp Xcó ký Biên bản thoả thuận (hợp tác liên doanh),
gói thầu xây lắp số 4 thuộc Dự án đường H-K-N, huyện M với Công ty T. Trong
Biên bản thoả thuận có nêu: Công ty T chấp nhận thanh toán cho Doanh nghiệp X
số tiền vật tư và khối lượng đã thi công mà chưa được Chủ đầu tư tổ chức nghiệm
thu với số tiền là: 3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng). Hai bên đã thoả thuận bằng
văn bản, khi thủ tục gói thầu được phê duyệt thì Công ty T ứng trước cho Doanh
nghiệp X là 1.500.000.000 đồng số tiền còn lại sẽ được thanh toán khi công trình
bắt đầu khởi công.
Số tiền 3.000.000.000 đồng mà Công ty T có trách nhiệm phải trả cho Doanh
nghiệp X không liên quan đến giá trị gói thầu và Chủ đầu tư Dự án. Khi thực hiện
Biên bản thoả thuận, Doanh nghiệp X đã thực hiện theo đúng thỏa thuận đã ký kết,
Công ty T đã tiến hành thi công. Cho đến nay, Công ty T đã thực hiện xong và hoàn
thành các hạng mục khối lượng còn lại của gói thầu và đã được nghiệm thu, thanh
quyết toán xong với chủ đầu tư vào tháng 12/2022 và đã được giải ngân toàn bộ giá
trị của công trình, thanh toán cả tiền bảo hành công trình.
Ngày 21/10/2022, Công ty T mới thanh toán cho Doanh nghiệp X số tiền là
65.000.000 đồng, từ đó đến nay đã nhiều lần Doanh nghiệp X yêu cầu Công ty T
thanh toán khoản nợ trên nhưng người đại diện theo pháp luật là ông Bùi Đức G viện
hết lý do này đến lý do khác không thanh toán số tiền còn lại cho doanh nghiệp theo
thỏa thuận. Nay Doanh nghiệp X yêu cầu Công ty T thanh toán cho doanh nghiệp
số 2 số tiền nợ gốc là: 2.935.000.000 đồng. Lãi phát sinh của khoản nợ như sau:
Theo Biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021, Công ty T thanh toán trước số
tiền là 1.500.000.000 đồng, do vậy lãi của số tiền 1.5000.000.000 đồng được tính

3
từ ngày 19/12/2021 đến ngày xét xử ngày 18/10/2023 là: 1.500.000.000đồng ×
1,245%/tháng : 30 ngày x 664 ngày = 413.340.000đồng.
Số tiền còn lại 1.435.000.000 đồng, lãi suất được tính từ khi thủ tục hoàn
thiện bắt đầu vào khởi công công trình ngày 30/9/2022 đến ngày xét xử 18/10/2023
là: 1.435.000.000 đồng x 1,245%/tháng : 30 ngày x 379 ngày = 225.703.975 đồng.
Tổng số tiền Công ty T phải trả cho Doanh nghiệp X là 3.674.049.750 đồng
trong đó tiền gốc là 2.935.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi phát sinh tạm tính đến
ngày xét xử ngày 18/10/2023 là: 639.043.975 đồng.
Tại văn bản trả lời ngày 10/5/2023 và trong quá trình giải quyết, bị đơn,
người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn Công ty T trình bày:
Doanh nghiệp X là nhà thầu thi công gói thầu xây lắp số 4, thuộc Dự án
đường H-K-N, huyện M, trong quá trình đang thi công bị tạm dừng theo chỉ thị số
1792/CTTTg ngày 10/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Đến năm 2021 để chuẩn
bị phê duyệt tiếp tục thực hiện gói thầu số 4, Dự án nói trên Doanh nghiệp X có đặt
vấn đề với Công ty T là Liên danh hợp tác tiếp tục thực hiện gói thầu số 4 này. Tại
Quyết định số 1323/QĐ-UBND ngày 20/10/2010 của UBND huyện M V/v phê
duyệt đơn vị trúng thầu Liên doanh xí nghiệp X tỉnh Điện Biên và Xí nghiệp xây
dựng số 15 tỉnh Điện Biên có.
- Giá trị khối lượng hợp đồng: 56.458.000.000 đồng.
- Thời gian tạm dừng theo chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 10/10/2011 của Thủ
tướng Chính phủ.
- Giá trị khối lượng hoàn thành: 12.205.000.000 đồng.
- Giá trị còn lại là: 44.253.000.000 đồng. Chính vì vậy, Công ty đồng ý chấp
nhận liên doanh hợp tác để tiếp tục thực hiện gói thầu số 4 của Dự án. Ngày
19/12/2021 hai bên có lập biên bản thỏa thuận (Hợp tác liên danh) với nội dung:
1. Doanh nghiệp X bàn giao lại cho Công ty T toàn bộ khối lượng các hạng
mục đã thi công (chưa được chủ đầu tư Ban QLDA các công trình huyện M
nghiệm thu khối lượng hoàn thành) công trình gói thầu số 4 thuộc Dự án đường H-
K-N, huyện M
2. Doanh nghiệp X chuyển nhượng lại cho Công ty T toàn bộ các loại vật tư
trên công trình bao gồm: Đá các loại: Khoảng 6000m
3
; Cống tròn đúc sẵn các loại:
400 cái; Cọc tiêu đúc sẵn: 2000 cái. Khối lượng bàn giao lại cho công ty 01 km đã
mở thông tuyến, 10 km hoàn thành 100%. Thực tế khối lượng 7km hoàn thành
được 70%, 4 km hoàn thành được 5%. Doanh nghiệp có trách nhiệm trình duyệt
thủ tục và bàn giao cho Công ty T thi công.
Sau khi hai bên ký kết Công ty T đã yêu cầu Doanh nghiệp X đến công trình
để bàn giao khối lượng đã thi công và số vật liệu. Nhưng ông Đỗ Trí T không thực
hiện bàn giao (giao, nhận) vật liệu cũng như khối lượng đã thi công. Đến ngày
22/10/2022, Doanh nghiệp X dựa vào biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021 để xác
định công nợ và cho rằng Công ty T còn nợ Doanh nghiệp X số tiền 2.935.000.000
đồng. Nhưng Công ty cho rằng: Giữa Công ty T với Doanh nghiệp X là quan hệ hợp

4
tác Liên doanh để tiếp tục thực hiện gói thầu số 4 thuộc Dự án đường H-K-N, huyện
M. Nên Doanh nghiệp và Công ty đều phải có trách nhiệm với gói thầu này. Vì
Công ty không phải là Công ty thầu ban đầu mà chỉ là hợp tác liên doanh bỏ công,
của ra để tiếp tục làm công trình thay cho doanh nghiệp. Còn thủ tục gói thầu doanh
nghiệp là người đứng đầu liên doanh phải có trách nhiệm đến khi hoàn thành công
trình. Đồng thời, thực tế giá trị hợp đồng điều chỉnh giảm, giá trị hợp đồng thực hiện
chỉ còn 29.850.000.000 đồng. Công ty nhiều lần yêu cầu ông Đỗ Trí T đến công
trình bàn giao khối lượng mà doanh nghiệp đã thi công và số vật liệu được ghi trong
biên bản thỏa thuận nhưng ông T không thực hiện. Nên Công ty T không có căn cứ
để xác nhận công nợ mà ông T gửi cho Công ty. Nay ông T gửi đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết buộc ông G phải trả tiền gốc và tiền lãi: 3.109.933.000 đồng
cho ông T là không đúng quan hệ pháp luật.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2023/KDTM-ST ngày
18/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, Quyết định:
1. Về áp dụng pháp luật:
- Áp dụng khoản 1 Điều 30; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; Điều 147, Điều 244, Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 117, Điều 119, Điều 357, Điều 440, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 24, Điều 306, Điều 319 Luật thương mại 2005;
- Áp dụng khoản 2, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của
Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án:
2. Tuyên xử:
2.1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn - Công
ty T có trách nhiệm trả cho nguyên đơn - Doanh nghiệp X tổng số tiền
3.549.052.991đồng; trong đó: 2.935.000.000 đồng tiền nợ gốc và 614.052.991
đồng tiền lãi phát sinh tạm tính đến ngày 18/10/2023.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, cho đến khi thi hành án xong
khoản tiền phải trả, bị đơn còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Không chấp nhận số tiền lãi do nguyên đơn yêu cầu vượt quá theo quy định
pháp luật là 24.990.984 đồng.
Đình chỉ xét xử đối với việc ông T yêu cầu trả lại 250 tờ giấy giao cho ông
Đường Vinh H, do ông T xin rút
2.2. Về án phí:
Bị đơn chịu 102.981.059 đồng án phí kinh doanh thương mại có giá ngạch.

5
Nguyên đơn phải chịu 1.249.550 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền
47.938.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số: 0002203 ngày 18/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Trả lại cho nguyên đơn số tiền là: 46.688.450 đồng
theo biên lai biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002203 ngày
18/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
3. Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án
của các đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 31/10/2023, bị đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa một phần bản
án sơ thẩm.Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên:
1. Tòa án cấp sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm nhìn chung đã thực hiện đúng các
quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, tuy nhiên còn có vi phạm
trong việc xác định mức tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm, cụ thể: Đây là vụ án
kinh doanh thương mại, theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh
mục án phí kèm theo, thì mức tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 2.000.000 đồng.
Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm xác định số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là
300.000 đồng là không đúng quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến việc thu,
nộp, quản lý tiền tạm ứng án phí, án phí dân sự phúc thẩm của cơ quan thi hành án
dân sự. Tuy nhiên, vi phạm này chưa đến mức nghiêm trọng và có thể khắc phục
được nên đại diện VKSND tỉnh Điên Biên đề nghị Hội đồng xét xử ghi rõ trong
Bản án để Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
2. Tòa án cấp phúc thẩm: Quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Thẩm
phán chủ tọa và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân thủ
đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Kháng cáo của bị đơn là đúng thời hạn quy định tại Điều 273 BLTTDS và
có đủ nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 272 BLTTDS. Tuy nhiên nội dung
đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ, vì:
Ngày 19/12/2021, giữa nguyên đơn và bị đơn đã giao kết Biên bản thỏa thuận
(hợp tác liên doanh) gói thầu xây lắp số 4 thuộc Dự án dường H-K-N, huyện M.
Tại thời điểm giao kết, những người tham gia ký kết đều có đầy đủ năng lực hành
vi dân sự và đều là người đại diện theo pháp luật của 02 doanh nghiệp tham gia ký
kết; việc giao kết là hoàn toàn tự nguyện, không ai bị ép buộc. Mục đích và nội
dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Hình thức của hợp đồng bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu của hai bên, phù hợp
với quy định tại Điều 119 BLDS 2015. Như vậy, Biên bản thỏa thuận giữa nguyên
đơn và bị đơn đảm bảo về mặt chủ thể, nội dung và hình thức theo Điều 117 Bộ
luật Dân sự 2015 nên có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm giao kết. Việc Tòa án
cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực của Biên bản thỏa thuận là có căn cứ.
6
Mặc dù giữa Doanh nghiệp X và Công ty T không có biên bản đối chiếu công
nợ và biên bản bàn giao khối lượng công trình, nhưng trên thực tế Công ty T đã sử
dụng số nguyên vật liệu do Doanh nghiệp X để lại và đã kế thừa khối lượng công
việc đã thi công của Doanh nghiệp X để tiếp tục thi công công trình, hoàn thành
các hạng mục, khối lượng còn lại của gói thầu và đã được nghiệm thu, thanh quyết
toán đầy đủ toàn bộ giá trị với chủ đầu tư vào tháng 12/2022. Việc Công ty T tiếp
nhận, sử dụng số vật tư do Doanh nghiệp X để lại được chứng minh bằng lời khai
của những người làm chứng là ông Phạm Thanh Bình và ông Sùng Vả Chống; phù
hợp với Biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021 do chính Công ty T soạn thảo, trong
đó ghi rõ số lượng vật tư mà Doanh nghiệp X chuyển nhượng lại cho Công ty T
(điều đó chứng tỏ Công ty T đã kiểm đếm đầy đủ số vật tư này trước khi thỏa
thuận với Doanh nghiệp X); và phù hợp với việc Công ty T phải tạm ứng cho
Doanh nghiệp X số tiền 65 triệu đồng vào ngày 21/10/2022 (vì nếu sau 01 năm mà
Doanh nghiệp X không thực hiện đúng thỏa thuận thì Công ty T đã không ứng tiền
như vậy). Ngoài ra, trong toàn bộ quá trình Công ty T thi công công trình, Doanh
nghiệp X không gây cản trở, khó khăn gì cho Công ty T. Như vậy, Doanh nghiệp
X đã thực hiện đúng Biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021, còn Công ty T chưa
thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán đã được thỏa thuận tại Biên bản nói trên, nên
việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
buộc bị đơn phải thanh toán cho Doanh nghiệp X số tiền 2.935.000.000 đồng nợ
gốc và 614.052.991 đồng nợ lãi là có căn cứ, đúng pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy nội dung yêu cầu của bị đơn trong đơn
kháng cáo không có căn cứ để chấp nhận. Vì vậy, đề nghị HĐXX phúc thẩm căn cứ
khoản 1 Điều 308 BLTTDS đề nghị HĐXX phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326 của UBTVQH và Danh mục án
phí kèm theo: Bị đơn phải chịu 2.000.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung yêu cầu
kháng cáo của bị đơn, lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm, ý
kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về quan hệ tranh chấp, thời hiệu, thẩm quyền giải quyết
Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tranh chấp liên quan đến hoạt động kinh
doanh thương mại mà cụ thể là hợp đồng thi công xây dựng giữa Doanh nghiệp X
và Công ty T cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng trong thi
công công trình”phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại, nguyên đơn
và bị đơn, cùng có địa chỉ tại thành phố Đ, tỉnh Điện Biên cấp sơ thẩm xác định
đây là vụ án Kinh doanh thương mại và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên theo khoản 1 Điều 30; khoản 3 Điều 26;
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự là
đúng quy định của pháp luật.
[2]. Xét thủ tục kháng cáo

7
Ngày 18/10/2023, Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên tuyên bản án
sơ thẩm, ngày 02/11/2023 Tòa án nhận được đơn kháng cáo của bị đơn, ngày
03/11/2023 bị đơn kháng cáo nộp cho Tòa án tạm ứng án phí phúc thẩm biên lai
tạm ứng án phí phúc thẩm. Theo quy định tại các Điều 271, 272, 273, 276 của Bộ
luật Tố tụng dân sự kháng cáo của bị đơnlà hợp lệ được chấp nhận để xem xét theo
thủ tục phúc thẩm.
[3]. Nội dung kháng cáo
Bị đơn kháng cáo không nhất trí toàn bộ bản án sơ thẩm số: 01/2023/KDTM-
ST ngày 18/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên với lý do
sau: Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Biên bản thỏa thuận trái pháp luật ngày
19/12/2021 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả
cho nguyên đơn số tiền: 3.549.052.991 đồng; trong đó 2.935.000.000 đồng tiền nợ
gốc và 614.052.991 đồng là không có cơ sở vì biên bản thỏa thuận mục đích bị đơn
ký để thực hiện xây lắp khối lượng công trình còn lại của gói thầu số 4 mà nguyên
đơn đang thi công dang dở và nguyên đơn chuyển nhượng lại số vật tư trên công
trình, do vậy biên bản thỏa thuận không phải là biên bản đối chiếu công nợ của
Công ty.
Không chấp nhận toàn bộ số vật liệu vì công ty không mua vật tư, vật liệu do
không có nguồn gốc hợp pháp. Số vật tư không được giao, nhận, kiểm đếm, không
có hóa đơn chứng từ theo nguyên tắc của Luật thương mại khi mua bán hàng hóa
phải có hóa đơn chứng từ giá trị khoảng 1.200.000.000 đồng. Không chấp nhận
khối lượng đã thi công chưa được nghiệm thu khoảng 800.000.000 đồng. Không
chấp nhận số tiền lãi phát sinh 614.052.991 đồng vì trong biên bản thỏa thuận
không ghi thời gian tạm ứng, thanh toán và tiền lãi. Theo biên bản thỏa thuận giá
trị hợp đồng là 56.458.000.000 đồng trừ đi giá trị khối lượng hoàn thành là:
12.205.000.000 đồng. Giá trị khối lượng còn lại là: 44.253.000.000 đồng thì Công
ty đồng ý thanh toán cho doanh nghiệp số tiền là: 1.000.000.000 đồng nhưng giá trị
thực tế còn lại là: 30.956.681.000 đồng nên Công ty đồng ý thanh toán cho doanh
nghiệp số tiền theo tỷ lệ % khoảng 700.000.000 đồng.
[4]. Xét nội dung kháng cáo
[4.1]. Về việc Biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021 trái pháp luật: Biên bản
thỏa thuận ngày 19/12/2021 giữa đại diện bên A (bên bàn giao): Liên danh xí
nghiệp xây dựng số II tỉnh Điện Biên do ông Đỗ Trí T là Giám đốc và Xí nghiệp
xây dựng số 15 tỉnh Điện Biên với đại diện bên B (bên nhận bàn giao) là Công ty T
do ông Bùi Đức G là Giám đốc, biên bản được lập thành văn bản theo quy định, do
ông Đỗ Trí T - Giám đốc Doanh nghiệp X và ông Bùi Đức G - Giám đốc Công ty
T ký, đóng dấu, biên bản được các bên thỏa thuận rõ ràng, cụ thể, mục đích và nội
dung của thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, có đối tượng, số
lượng, giá, phương thức thanh toán, quyền và nghĩa của các bên, trách nhiệm do vi
phạm phù hợp với quy định tại Điều 117, 119, Điều 398, 401của Bộ luật dân sự,
Điều 11; Điều 24; của Luật Thương mại, nội dung biên bản còn thỏa thuận “Nếu
có gì vướng mắc hai bên thông báo cho nhau để cùng giải quyết”. Sau khi ký kết
biên bản ngày 29/12/2022 nguyên đơn đã có văn bản số: 42/LD-DNII&CT15 gửi

8
UBND huyện M và Ban QLDA các công trình huyện M đề nghị cho phép bổ sung
nhà thầu phụ là Công ty T thi công phần khối lượng còn lại và hạng mục xử lý kỹ
thuật bổ sung (nếu có) trong gói thầu xây lắp số 4 Dự án đường H-K-N, huyện M
(BL227). Ngày 30/9/2022 Ban QLDA các công trình huyện M văn bản số: 39/BC-
DA, báo cáo kết quả thẩm định Công ty T có đủ năng lực thi công phần khối lượng
còn lại của các hạng mục (BL279-281). Ngày 30/9/2022, UBND huyện M có văn
bản số: 1425B/UBND-DA về việc chấp nhận bổ sung nhà thầu phụ đối với Công
ty T (BL282-283). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của theo biên bản thỏa
thuận, trong suốt thời gian từ ngày ký biên bản 19/12/2021 đến khi nguyên đơn khởi
kiện ngày 03/4/2023 bị đơn không có bất cứ một ý kiến phản hồi nào đối với
nguyên đơn về việc nguyên đơn vi phạm một trong các nội dung thỏa thuận trong
Biên bản ngày 19/12/2021 hoặc vướng mắc do không thực hiện được thỏa thuận để
hai bên cùng tháo gỡ, do vậy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn
về việc Biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021 trái pháp luật, khối lượng còn lại của
gói thầu xây lắp số 4 Dự án đường H-K-N, huyện M mà bị đơn được tiếp tục thi
công đã được chủ đầu tư quyết toán vào tháng 12/2022 và đã được giải ngân toàn bộ
giá trị của công trình, thanh toán cả tiền bảo hành công trình. Sau khi ký kết biên bản
thỏa thuận bị đơn mới chỉ thanh toán cho nguyên đơn số tiền 65.000.000 đồng số tiền
còn lại là: 2.935.000.000 đồng vẫn chưa thanh toán cho nguyên đơn làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của nguyên đơn do vậy việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4.2.]. Về việc bị đơn không chấp nhận số vật tư nguyên đơn nhượng lại
cho bị đơn gồm: Đá các loại: Khoảng 6000m
3
; Cống tròn đúc sẵn các loại: 400
cái; Cọc tiêu đúc sẵn: 2000 cái vì bị đơn không mua vật tư, vật liệu do không có
nguồn gốc hợp pháp, số vật tư không được giao, nhận, kiểm đếm, không có hóa
đơn chứng từ theo nguyên tắc của Luật Thương mại khi mua bán hàng hóa
phải có hóa đơn chứng từ: Trong biên bản thỏa thuận không có thỏa thuận về việc
này, mặt khác trong quá trình thực hiện bị đơn cũng không yêu cầu nguyên đơn
cung cấp các hóa đơn chứng từ đối với các vật tư, vật liệu đã giao cho bị đơn. Bị
đơn không đưa ra được chứng cứ chứng minh, toàn bộ số vật tư nguyên đơn
nhượng lại bị đơn không sử dụng hoặc không được thanh toán do lỗi của nguyên
đơn. Bị đơn cũng không lý giải được trong trường hợp bị đơn không sử dụng các
vật tư, vật liệu này thì các vật tư, vật liệu này hiện ai đang quản lý. Nguyên đơn
khai nhận số lượng vật tư là bên bị đơn đã cho cán bộ kỹ thuật xuống kiểm đếm số
lượng mới ghi vào biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021, phù hợp với lời khai của
người làm chứng về việc nguyên đơn có số nguyên, vật tư như trong biên bản thỏa
thuận và có việc các bên đã kiểm đếm để có được số liệu cụ thể từng loại nguyên
vật tư theo biên bản thỏa thuận. Đối với việc thi công và thanh toán quyết toán xong
vào ngày 09/12/2022, bên bị đơn đã thanh toán xong cả tiền bảo hành, công trình đã
được nhiệm thu đi vào sử dụng không vướng mắc gì nên không có căn cứ để Hội đồng
chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn về việc nguyên đơn không cung cấp cho bị
đơn hóa đơn chứng từ để thực hiện việc thanh, quyết toán công trình.
[4.3]. Về việc bị đơn không chấp nhận số tiền lãi phát sinh 614.052.991
đồng vì trong biên bản thỏa thuận không ghi thời gian tạm ứng, thanh toán và

9
tiền lãi: Mặc dù trong Biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021 nguyên đơn và bị đơn
không thỏa thuận về việc chịu lãi suất đối với số tiền bị đơn chậm thanh toán cho
nguyên đơn, nhưng theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy
định “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm
thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng
có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung
bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác” và tại khoản 1
Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả
tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm
trả” nên việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lãi là có căn cứ pháp luật.
Tại thời điểm giải quyết mức lãi suất trung dài hạn đối với nhu cầu cho vay
kinh doanh thông thường của Ngân hàng C là 9,5%/năm; của Ngân hàng N, chi
nhánh tỉnh Điện Biên là 10%/năm của Ngân hàng A, chi nhánh Điện Biên là
9,39%/năm. Như vậy, lãi suất quá hạn trung bình của 3 Ngân hàng thương mại trên
địa bàn tỉnh Điện Biên là: (9,5% + 9,39% + 10%): 3 x 1,5 = 14,445%/năm.
Số tiền chậm thanh toán mà bị đơn có nghĩa vụ phải thanh toán cho nguyên đơn
của khoản tiền 1.500.000.000 đồng lãi được tính từ ngày giữa nguyên đơn và bị đơn
ký kết Biên bản thỏa thuận ngày 19/12/2021 đến ngày xét xử ngày 18/10/2023 là:
1.500.000.000 đồng x 14,445%/năm x 668 ngày = 396.544.931 đồng.
Khoản tiền 1.435.000.000 đồng lãi được tính từ (ngày khởi công công trình)
ngày 30/9/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 18/10/2023 là 1.435.000.000 đồng x
14,445%/năm x 383 ngày = 217.508.060 đồng.
Tổng số tiền lãi bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn đến ngày xét xử sơ
thẩm 18/10/2023 là: 396.544.931 đồng + 217.508.060 đồng = 614.052.991 đồng.
Cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền lãi do vi
phạm nghĩa vụ thanh toán là đúng quy định, đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn do
vậy không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn, Hội
đồng xét xử giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày
18/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1
Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng, án
phí, lệ phí Tòa án.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí kèm theo, thì mức
tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 2.000.000 đồng. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm
xác định số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng là không đúng
quy định tuy nhiên vi phạm này chưa đến mức nghiêm trọng và có thể khắc phục
được Hội đồng xét xử yêu cầu Tòa án sơ thẩm nghiên túc rút kinh nghiệm.
- Do cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên việc chịu án phí dân sự
sơ thẩm của đương sự được giữ nguyên. Bị đơn kháng cáo không được chấp nhận

10
phải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Bị đơn đã
nộp tạm ứng án phí phúc thẩm là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số: 0000031 ngày 03/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Bị đơn còn phải nộp tiếp số tiền án phí kinh doanh
thương mại phúc thẩm còn thiếu là: 1.700.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn về việc sửa một phần bản
án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 18/10/2023 của
Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
2. Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST
ngày 18/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, cụ thể như
sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn - Công
ty T có trách nhiệm trả cho nguyên đơn - Doanh nghiệp X tổng số tiền
3.549.052.991 đồng; trong đó: 2.935.000.000 đồng tiền nợ gốc và 614.052.991
đồng tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm 18/10/2023.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, cho đến khi thi hành án xong
khoản tiền phải trả, bị đơn còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Không chấp nhận số tiền lãi do nguyên đơn yêu cầu vượt quá theo quy định
pháp luật là 24.990.984 đồng.
Đình chỉ xét xử đối với việc ông Đỗ Trí T yêu cầu trả lại 250 tờ giấy giao cho
ông Đường Vinh H, do ông T xin rút.
3. Về án phí:
3.1. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm
- Bị đơn chịu 102.981.059 đồng án phí kinh doanh thương mại có giá ngạch
- Nguyên đơn phải chịu 1.249.550 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền
47.938.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số: 0002203 ngày 18/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Trả lại cho nguyên đơn số tiền là: 46.688.450 đồng
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002203 ngày 18/4/2023 tại
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
11
3.2. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bị đơn phải chịu 2.000.000
đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Bị đơn đã nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:
0000031 ngày 03/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Điện
Biên. Bị đơn còn phải nộp tiếp số tiền án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm còn
thiếu là: 1.700.000 đồng.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (24/8/2024).
Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự báo cho người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự biết: Trong trường hợp bản án, quyết định được
thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Điện Biên;
- TAND TP. Đ;
- Chi cục THADS TP. Đ;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Đã ký
Đỗ Thu Hương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm