Bản án số 01/2025/HNGĐ ngày 04/03/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/HNGĐ
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/HNGĐ ngày 04/03/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hòa Bình |
Số hiệu: | 01/2025/HNGĐ |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | anh Đặng Thanh T và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị M và ông Trần Văn Thanh kháng cáo phần chia tài sản chung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Hoàng Ngọc Liễu
Các thẩm phán:
Ông Vũ Văn Túc
Bà Bạch Thị Hồng Hoa
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Việt Dũng – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hòa Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình tham gia phiên toà: Ông
Phạm Văn Minh - Kiểm sát viên
Ngày 04 tháng 03 năm 2025, tại trụTòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử
phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 08/2024/TLPT - HNGĐ
ngày 28 tháng 11 năm 2024 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản
chung khi ly hôn. Do bản án Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm số 15/2024/HNGĐ -
ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hòa Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 01/2025/QĐ – PT ngày
06 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Tuyết H, sinh năm 1983. Địa chỉ: khu T,
thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình.
2. Bị đơn: anh Đặng Thanh T, sinh năm 1979. Địa chỉ: khu T, thị trấn M,
huyện T, tỉnh Hòa Bình.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Đặng Văn T1, sinh năm 1956 và bà Trần Thị M, sinh năm 1956.
Cùng địa chỉ tại: khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T1: chị Đặng Thị T2, sinh năm 1980.
Địa chỉ: A khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 01/2025/HNGĐ - PT
Ngày: 04 - 03 - 2025
V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và
chia tài sản chung khi ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
- Bà Phạm Thị H1, sinh năm 1962. Địa chỉ: phố Đ, thị trấn V, huyện L, tỉnh
Hòa Bình.
- Anh Đặng Thanh T3, sinh năm 1982. Địa chỉ: khu T, thị trấn M, huyện T,
tỉnh Hòa Bình.
(Chị H, anh T, bà M, bà H1, chị T2 có mặt. Anh T3 có đơn xin xét xử vắng
mặt, ông T1 vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị
Nguyễn Thị Tuyết H trình bày: Tháng 10 năm 2007, chị H và anh Đặng Thanh T
kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q (nay là thị trấn
M), huyện T, tỉnh Hòa Bình. Thời gian đầu sống hạnh phúc, năm 2013 vợ chồng
phát sinh mâu thuẫn chị H mang con về nhà ngoại ở huyện L sinh sống nhưng
sau đó đã được hai bên gia đình hòa giải, vợ chồng lại quay về sống chung với
nhau. Năm 2017, bố mẹ chồng cho vợ chồng chị 01 thửa đất tại khu T, thị trấn M,
huyện T, tỉnh Hòa Bình để làm nhà. Sau đó, do vợ chồng không biết bảo ban nhau
làm ăn, muốn giàu nhanh nên chơi tiền ảo, chứng khoán và lan đột biến nhưng
đều thua lỗ, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh. Đến năm 2023, mâu thuẫn vợ chồng
ngày càng trầm trọng, chị H thuê nhà khác để ở, vợ chồng sống ly thân từ đó cho
đến nay. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt
được nên chị H xin ly hôn. Về con chung, vợ chồng có 03 con chung là cháu Đặng
Thanh Hà L1, sinh ngày 26/6/2008, cháu Đặng Nguyễn Trần N, sinh ngày
16/7/2011 và cháu Đặng Thanh H2, sinh ngày 25/11/2019. Khi ly hôn, chị H đề
nghị được nuôi dưỡng cả 03 con chung, đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con số tiền
3.000.000đ/ tháng cho đến khi các con trưởng thành. Về tài sản chung, chị H có
chung vốn với mẹ chồng là bà M mỗi người 105.000.000đ mua 01 mảnh đất của
ông Trần Văn Q tại xóm K, xã Q nay là khu A, thị trấn M với giá 210.000.000đ,
diện tích gần 180m
2
vào năm 2009. Ngoài ra, có 01 thửa đất số 84, tờ bản đồ số
63 tại khu T, thị trấn M, huyện T, trên đất có nhà xây 03 tầng kiên cố. Về nợ
chung, vợ chồng có vay của mẹ chồng là bà M số tiền 200.000.000đ, vay của mẹ
vợ là bà H1 số tiền 425.000.000đ, vay của ngân hàng H3 chi nhánh H4 số tiền
44.578.052đ (đến nay khoản nợ Ngân hàng đã được tất toán hết). Khi ly hôn, tài
sản chung và nợ chung, chị H đề nghị giải quyết theo pháp luật. Chị H tự nguyện
chịu toàn bộ án phí ly hôn.
Bị đơn anh Đặng Thanh T trình bày: Anh T và chị H kết hôn tự nguyện có
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q (nay là thị trấn M), huyện T, tỉnh Hòa
Bình vào tháng 10 năm 2007. Anh T công nhận lời khai của chị H về quá trình
3
chung sống là đúng sự thật. Về nguyên nhân mâu thuẫn, anh cho rằng có nhiều
nguyên nhân, chủ yếu là do kinh tế. Về con chung, vợ chồng có 03 con chung là
cháu Đặng Thanh Hà L1, sinh ngày 26/6/2008, cháu Đặng Nguyễn Trần N, sinh
ngày 16/7/2011 và cháu Đặng Thanh H2, sinh ngày 25/11/2019. Khi ly hôn, anh
T đề nghị được nuôi dưỡng cháu N và cháu H2, giao cháu L1 cho chị H nuôi
dưỡng và không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung, vợ chồng có 01 nhà xây 03
tầng kiên cố trên đất của ông bà nội và 01 xe mô tô Lead chị H đang sử dụng. Về
nợ chung, vợ chồng có nợ mẹ anh là bà M là 250.000.000đ, nợ mẹ đẻ chị H là bà
H1 số tiền 400.000.000đ và nợ ngân hàng H3 chi nhánh H4 số tiền 44.578.052đ
(khoản nợ ngân hàng này anh T đã thanh toán xong), đối với khoản nợ bà H1
25.000.000đ chị H trình bày, anh T không công nhận do đấy là khoản chị H vay
riêng, anh T không biết. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh T công nhận có nợ và đồng ý
trả cho bà H1 tổng số tiền là 425.000.000đ, không yêu cầu chia xe mô tô Lead
cũng như khoản tiền mà anh T đã trả nợ cho Ngân hàng hợp tác chi nhánh H4.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Đặng Văn T1 và bà Trần Thị M
trình bày: Ông T1, bà Mừng công N1 có bảo anh T, chị H về làm nhà trên đất của
ông bà nhưng đã tuyên bố rõ chỉ cho làm nhà để ở chứ không cho đất. Ông bà
cũng tuyên bố rõ “Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc thì cho, còn ly hôn thì
không”, đất vẫn là đất của ông bà và phải trả ông bà. Riêng phần đất chị H bảo có
chung tiền với bà M mua của ông Trần Văn Q là không đúng, nguồn tiền hoàn
toàn là tiền bà M bỏ ra, chị H không góp tiền mua chung. Đối với khoản tiền
250.000.000đ vợ chồng anh T, chị H vay của bà nên khi ly hôn vợ chồng phải có
trách nhiệm trả lại cho bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đặng Thanh T3 trình bày: Thửa
đất mà chị H cho rằng góp tiền cùng bà M mua của ông Trần Văn Q là không
đúng vì đất này hiện anh đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nguồn gốc là tiền của anh (khoảng 70%) còn lại là tiền bà M, không liên quan gì
đến chị H hay anh T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H1 trình bày: Năm
2017, biết ông bà T1, M cho vợ chồng H, T đất làm nhà, bà có nói ông bà nội cho
đất thì phần làm nhà ông bà ngoại giúp nhưng làm to thì cho to, làm nhỏ thì cho
nhỏ nhưng khi biết vợ chồng làm nhà to bà yêu cầu anh T viết giấy vay tiền, sau
anh T chị H vay thêm 100.000.000đ và lần cuối cả hai xuống đòi vay thêm nhiều
nhưng chỉ đưa thêm 25.000.000đ. Tổng nợ 425.000.000đ. Khi vợ chồng ly hôn
thì phải trả lại bà khoản tiền vay trên.
4
Bản án Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm số 15/2024/HNGĐ - ST ngày
23/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hòa Bình quyết định: Căn cứ Điều
51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật
Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147 và
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Tuyết H được ly hôn
với anh Đặng Thanh T.; Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Đặng
Thanh Hà L1, sinh ngày 26/6/2008, cháu Đặng Nguyễn Trần N, sinh ngày
16/7/2011 và cháu Đặng Thanh H2, sinh ngày 25/11/2019. Khi ly hôn giao cháu
Đặng Thanh Hà L1 cho chị Nguyễn Thị Tuyết H được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo
dục. Giao cháu Đặng Nguyễn Trần N và cháu Đặng Thanh H2 cho anh T trực tiếp
nuôi dưỡng giáo dục. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Đặng Thanh T chưa yêu
cầu chị Nguyễn Thị Tuyết H đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Quyền thăm
nom chăm sóc con chung đảm bảo theo pháp luật.
Về tài sản chung, công nợ chung: Giao cho anh Đặng Thanh T sở hữu ngôi
nhà 3 tầng được xây trên thửa đất số 84, tờ bản đồ 63 có địa chỉ tại khu T, thị trấn
M, huyện T, tỉnh Hòa Bình và có nghĩa vụ thanh toán cho chị H 1/2 giá trị căn
nhà theo kết quả định giá 490.394.000đ; Công nhận quyền sử dụng đất diện tích
135,4m
2
trên thửa đất số 84, tờ bản đồ 63 có địa chỉ tại khu T, thị trấn M, huyện
T, tỉnh Hòa Bình, trên đất có nhà 3 tầng thuộc quyền sở hữu của anh Đặng Thanh
T và chị Nguyễn Thị Tuyết H.
Khi ly hôn giao cho anh Đặng Thanh T được sở hữu quyền sử dụng diện
tích 135,4m
2
đất tại thửa số 84, tờ bản đồ số 63 có địa chỉ tại khu T, thị trấn M,
huyện T tỉnh Hòa Bình có tứ cận: Phía trước hướng Tây bắc giáp Quốc lộ F, phía
Đông Bắc (phần bên phải theo hướng nhà) giáp hộ ông Đỗ Thanh S; Phía Đông
Nam (phía sau nhà) và phía Tây Nam (phần bên trái theo hướng nhà) giáp ông
Đặng Văn T1, bà Trần Thị M; Đồng thời có nghĩa vụ thanh toán cho chị H 30%
giá trị quyền sử dụng đất theo kết quả định giá của Hội đồng định giá
454.944.000đ. Tổng 02 khoản: 945.338.000đ; Anh Đặng Thanh T được hưởng
50% giá trị nhà là 490.394.000đ và được hưởng 70% giá trị đất là 1.061.536.000đ.
Tổng: 1.551.930.000đ. Anh Đặng Thanh T có quyền liên hệ với các cơ quan nhà
nước để thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật.
Về nợ chung: Anh Đặng Thanh T có nghĩa vụ thanh toán trả cho bà Trần Thị
M số tiền 125.000.000đ, thanh toán trả cho bà Phạm Thị H1 212.500.000đ. Chị
5
Nguyễn Thị Tuyết H có nghĩa vụ thanh toán trả cho bà Trần Thị M số tiền
125.000.000đ, thanh toán trả cho bà Phạm Thị H1 212.500.000đ.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ
thẩm và 40.360.000đ, được khấu trừ vào số tiền 21.300.000đ tạm ứng án phí chị
đã nộp tại Chi cục Thi hành án huyện T theo biên lai số 0002813 ngày 26/4/2023,
nay được khấu trừ và phải nộp thêm 19.060.000đ. Anh Đặng Thanh T phải chịu
58.558.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 02/10/2024, bị đơn anh T kháng cáo bản án Hôn nhân và Gia đình với
nội dung không nhất trí việc Tòa án nhân dân huyện T buộc anh phải có nghĩa vụ
thanh toán cho chị H 50% giá trị ngôi nhà và 30% giá trị thửa đất số 84, tờ bản đồ
63 tại khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình vì đất là của bố mẹ anh không
phải của vợ chồng; thu nhập của chị H thấp nên việc anh phải thanh toán cho chị
H 490.394.000 đồng (50% giá trị ngôi nhà) là không có căn cứ. Ông T1 và bà M
kháng cáo xác định thửa đất số 84, tờ bản đồ 63 tại khu T, thị trấn M, huyện T,
tỉnh Hòa Bình là của ông bà, không nhất trí bản án Hôn nhân và Gia đình tuyên
chia cho chị Nguyễn Thị Tuyết H được hưởng giá trị thửa đất trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, những người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng
cáo.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T1, chị Đặng Thị T2 trình bày: Căn
cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của ông bà T1, M nếu chị H chứng
minh được việc tặng cho thì sẽ nhất trí nhưng nếu không chứng minh được thì
phải trả lại đất cho ông bà T1, M, hơn nữa việc tặng cho phải thể hiện bằng văn
bản, phải có sự nhất trí của các con và thực hiện thủ tục theo đúng quy định của
pháp luật. Căn cứ Điều 206, Điều 359 Bộ luật Hình sự, Điều 167 Luật Đất đai
năm 2013 và Điều 31, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình, thì đất này được xác
định là của ông T1, bà M. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại thửa đất này cho
bố mẹ chị.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án: Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm
phán và Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm được thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm chia tài sản chung là
thửa đất số 84 và căn nhà xây trên thửa đất số 84 tại khu T, thị trấn M, huyện T,
tỉnh Hòa Bình là có căn cứ, đúng quy định nên không có căn cứ chấp nhận kháng
cáo của bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, do bản án
6
sơ thẩm vi phạm về án phí cần căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
đề nghị Hội đồng xét xử Sửa bản án sơ thẩm số 15/2024/HNGĐ-ST ngày
23/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện T. Do bản án sơ thẩm bị sửa nên anh Đặng
Thanh T, ông Đặng Văn T1, bà Trần Thị M không phải chịu án phí phúc thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm;
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết H khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh
chấp về nuôi con, chia tài sản chung khi ly hôn. Bị đơn anh Đặng Thanh T có nơi
cư trú tại huyện T, tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện T xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp là Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản chung khi ly
hôn để thụ lý, giải quyết theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều
35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đơn
kháng cáo của anh Đặng Thanh T, bà Trần Thị M và ông Đặng Văn T1 trong hạn
luật định, hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.3]. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết H, bị đơn anh Đặng Thanh T, bà
Trần Thị M, bà Phạm Thị H1 có mặt. Ông Đặng Văn T1 vắng mặt nhưng có chị
Đặng Thị T2 là người đại diện theo ủy quyền và anh Đặng Thanh T3 có đơn xin
xét xử vắng mặt. Các trường hợp trên đều được Tòa án triệu tập hợp lệ và đã có
lời khai trong quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố
tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân, con chung, công nợ chung:
[2.1.1]. Năm 2017, chị Nguyễn Thị Tuyết H và anh Đặng Thanh T kết hôn
tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q (nay là thị trấn M), huyện
T, tỉnh Hòa Bình. Là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Thời gian đầu
vợ chồng chung sống hòa thuận, năm 2013 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đã được
hai bên gia đình hòa giải hàn gắn nên vợ chồng quay về đoàn tụ. Sau đó, vợ chồng
phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do kinh tế, đỉnh điểm đến đầu năm 2023 mâu
thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ đó. Xác định tình cảm vợ
chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H xin ly hôn, anh
T đồng ý ly hôn. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu này của chị H là có
căn cứ tuy nhiên do quá trình giải quyết vụ án (trước khi có Quyết định đưa vụ án
7
ra xét xử), anh T nhất trí ly hôn với chị H nên cần tuyên “Về quan hệ hôn nhân:
Chị Nguyễn Thị Tuyết H và anh Đặng Thanh T thuận tình ly hôn”.
[2.1.2]. Về con chung: tại phiên tòa sơ thẩm, vợ chồng thống nhất có 03 con
chung là cháu Đặng Thanh Hà L1, sinh ngày 26/6/2008, cháu Đặng Nguyễn Trần
N, sinh ngày 16/7/2011 và cháu Đặng Thanh H2, sinh ngày 25/11/2019. Khi ly
hôn, vợ chồng thống nhất, giao cháu Đặng Thanh Hà L1 cho chị H trực tiếp nuôi
dưỡng, giao cháu Nguyễn Trần N và cháu Đặng Thanh H2 cho anh T trực tiếp
nuôi dưỡng. Chưa ai có yêu cầu cấp dưỡng. Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định
tuyên giao các con theo đúng nguyện vọng của vợ chồng, của con chung, đã đảm
bảo quyền lợi của phụ nữ, trẻ em.
Về nợ chung: tại phiên tòa, vợ chống thống nhất có nợ bà Trần Thị M số tiền
250.000.000đ và bà Phạm Thị H1 số tiền 425.000.000đ. Các đương sự đề nghị
giải quyết theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm phân chia trách nhiệm
trả nợ, trong đó chị H và anh T mỗi người có trách nhiệm trả là 337.500.000đ
(trong đó trả bà M là 125.000.000đ và trả cho bà H1 212.500.000đ) là có căn cứ,
đúng quy định. Đối với khoản nợ của Ngân hàng H3 chi nhánh H4, trước khi mở
phiên tòa (ngày 18/9/2024) Ngân hàng đã có công văn gửi Tòa án về việc Hợp
đồng đã tất toán, hiện không còn liên quan đến vụ án do đó không xác định Ngân
hàng H3 chi nhánh H4 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Chị H và anh T nhất trí với bản án Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm về quan
hệ hôn nhân, về con chung, nợ chung và không kháng cáo phần này. Bà H1, bà M
không kháng cáo về trách nhiệm trả nợ của chị H và anh T. Những nội dung này
có liên quan đến chia tài sản chung song Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết các nội
dung trên theo đúng quy định.
[2.2]. Xét kháng cáo của anh Đặng Thanh T, bà Trần Thị M và ông Đặng
Văn T1 về phần chia thửa đất số 84, tờ bản đồ số 63 tại khu T, thị trấn M, huyện
T và kháng cáo của anh Đặng Thanh T về chia ngôi nhà xây 03 tầng trên đất. Hội
đồng xét xử xét thấy:
[2.2.1]. Căn cứ tài liệu và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, vợ
chồng có 01 nhà xây 3 tầng kiên cố trên thửa đất số 84, anh T và chị H đều thừa
nhận đây là tài sản chung có nguồn gốc từ tiền tiết kiệm của vợ chồng và vay nợ
của bà H1, bà M. Tòa án cấp sơ thẩm xác định 01 nhà xây 3 tầng là tài sản chung
của vợ chồng, được tạo lập trong thời gian anh T và chị H chung sống là có căn
cứ. Tòa án cấp sơ thẩm đã chia đôi tài sản chung này cho vợ chồng. Anh T kháng
cáo cho rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm chia đôi là không đúng vì tiền lương của
anh nhiều hơn chị H. Tòa án cấp phúc thẩm thấy rằng nguồn gốc hình thành nên
tài sản chung này là do tiền vay bà H1, bà M mà anh T, chị H mỗi người đều phải
8
có trách nhiệm thanh toán ngang nhau, tiền tiết kiệm từ tiền lương của hai vợ
chồng, ngoài tiền lương ra còn có thu nhập do kinh doanh quần áo, làm giỏ chả,
mặc dù anh T cho rằng tiền lương của anh cao hơn chị H nhưng quá trình chung
sống anh T là người đưa tiền lương (theo anh T số tiền khoảng 10.000.000đ) về
cho chị H để chị H thu vén chi tiêu trong gia đình rồi tiết kiệm. Vì vậy, việc Tòa
án cấp sơ thẩm chia đôi tài sản chung là nhà xây 3 tầng là phù hợp với công sức
đóng góp của chị H và anh T nên không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo
này của anh T. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm tính toán sai vì khi chia đôi giá trị nhà xây
thì mỗi bên đương sự được hưởng 960.788.837đ : 2 = 480.394.418đ (làm tròn:
480.394.400đ) nhưng cấp sơ thẩm lại tính là 490.394.000đ là không đúng, cần
điều chỉnh lại cho phù hợp. Do ngôi nhà không thể phân chia nên cấp sơ thẩm đã
giao cho anh T được sử dụng và có trách nhiệm thanh toán phần chênh lệch chia
tài sản chung là có căn cứ.
[2.2.2]. Đối với thửa đất số 84, tờ bản đồ 63 tại khu T, thị trấn M, huyện T,
tỉnh Hòa Bình, thấy rằng:
Nguồn gốc thửa đất là của ông T1, bà M điều này đã được các đương sự
khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án. Chị H thì cho rằng ông T1, bà M cho
đất để vợ chồng xây nhà nhưng ông T1, bà M và anh T đều cho rằng chỉ là cho
mượn đất để làm nhà, phần cho mượn chỉ là 4m chiều rộng nhưng anh T, chị H
đã cố tình xây 8m chiều rộng, thậm chí còn phá ngôi nhà của ông bà. Đại diện
theo ủy quyền của ông T1 (chị T2) còn cho rằng căn cứ vào giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là của ông T1, bà M nếu chị H chứng minh được việc tặng cho
thì sẽ nhất trí nhưng nếu không chứng minh được thì phải trả lại đất cho ông T1,
bà M, hơn nữa việc tặng cho phải thể hiện bằng văn bản, phải có sự nhất trí của
các con và thực hiện thủ tục theo đúng quy định của pháp luật. Việc các đương sự
có ý kiến là tặng cho hay cho mượn đều không thể hiện bằng văn bản mà chỉ bằng
miệng.
Tuy nhiên, căn cứ thực tế thấy rằng năm 2017, ông T1 và bà M đã đã đồng
ý cho anh T, chị H về thửa đất tại khu T, thị trấn M, huyện T để xây ngôi nhà 03
tầng kiên cố trị giá 960.788.837đ, mặc dù Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
vẫn mang tên hộ ông Đặng Văn T1 nhưng việc cho anh T, chị H xây dựng ngôi
nhà kiên cố không phải ngôi nhà tạm như người đại diện theo ủy quyền của ông
T1 khai tại tòa cho nên điều này là phù hợp với lời khai của chị H về việc bố mẹ
chồng cho đất và ngay trong lời khai của ông T1, bà M cũng thừa nhận nếu vợ
chồng không ly hôn thì ông bà cũng cho. Ông T1, bà M cho rằng mình đã phản
đối việc anh T, chị H xây nhà song không có tài liệu gì chứng minh và thực tế anh
9
T, chị H đã sử dụng đất từ khi xây dựng nhà ba tầng, không ai có ý kiến gì cho
đến khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn dẫn đến chị H làm đơn xin ly hôn. Chị T2 cho
rằng việc ông T6, bà M tặng cho đất phải được sự đồng ý của các con nhưng căn
cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện các đương sự đều khẳng định
đất là của ông T1, bà M, tại phiên tòa trong lời trình bày của chị T2 cũng đã khẳng
định là đất của bố mẹ mình nên việc tặng cho này không cần sự đồng ý của các
con. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định ông T1, bà M đã cho vợ chồng anh T, chị
H phần diện tích 135.4m
2
(theo biên bản trích đo ngày 25/4/2024 của Chi nhánh
văn phòng đăng ký đất đai huyện T) để xây nhà, có khuân viên riêng, sử dụng ổn
định. Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa đất trên là tài sản chung của vợ chồng là
đúng. Khi xem xét công sức đóng góp của các bên như nguồn gốc đất là của bố
mẹ anh T, công tôn tạo vun đắp nên khối tài sản nên anh T sẽ được chia phần hơn.
Tòa án cấp sơ thẩm chia cho anh T được hưởng 70% giá trị thửa đất còn chị H
hưởng 30 % giá trị là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của các bên. Do nhà trên đất
giao cho anh T sử dụng cũng như căn cứ vào giá trị anh T được hưởng nên giao
phần đất này cho anh T sử dụng và có trách nhiệm thanh toán tiền chênh lệch chia
đất cho chị H là có căn cứ. Do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo này của
anh T, ông T1 và bà M.
* Như vậy: Theo kết quả định giá, tổng giá trị tài sản chung của hai vợ chồng
là 2.477.268.837đ (trong đó 960.788.837đ là giá trị nhà và 1.516.480.000đ là giá
trị thửa đất), trong đó:
Chị H được sở hữu 50% giá trị nhà và 30% giá trị đất, cụ thể: 480.394.400đ
+ 454.944.000đ = 935.338.400đ
Anh Tuấn được sơ hữu 50 % giá trị và 30% giá trị đất, cụ thể: 480.394.400đ
+ 1.061.536.000đ = 1.541.930.400đ.
Do giao cho anh T được sử dụng nhà và đất nên anh T có trách nhiệm thanh
toán cho chị H 935.338.400đ.
[3]. Về án phí:
[3.1]. Án phí sơ thẩm:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Nghị quyết 01/2024/NQ – HĐTP
15/6/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định :”Trường
hợp trước khi mở phiên tòa, các bên đương sự tự nguyện ly hôn nhưng không thỏa
thuận được về con chung và tài sản chung mà Tòa án xét xử và ra bản án sơ thẩm
thì các đương sự phải chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu cầu xin ly hôn
(mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định); về quan hệ tài sản thì mức án phí
mỗi bên phải chịu tương ứng với giá trị phần tài sản mà mỗi bên được chia theo
10
quy định của pháp luật về án phí”. Đối chiếu quy định thì án phí giải quyết quan
hệ hôn nhân mà các đương sự chỉ phải nộp 50% mức án phí (trong đó chị H phải
nộp 75.000đ và anh T phải nộp 75.000đ). Do chị H tự nguyện nộp án phí ly hôn
nên chị H chỉ phải nộp là 150.000đ. Cấp sơ thẩm tuyên chị H nộp 300.000đ án
phí là không đúng.
Theo quy định tại điểm b khoản 7 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
thì “Trường hợp đương sự đề nghị chia tài sản chung, chia di sản thừa kế mà cần
xem xét việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản với bên thứ ba từ tài sản chung, di sản
thừa kế đó thì: Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản họ
được chia sau khi trừ đi giá trị tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba; các
đương sự phải chịu một phần án phí ngang nhau đối với phần tài sản thực hiện
nghĩa vụ với bên thứ ba theo quyết định của Tòa án.”.
Như vậy cấp sơ thẩm đã tính sai án phí chia tài sản chung, không tính tiền
án phí thực hiện nghĩa vụ với người thứ ba là hai khoản nợ mà vợ chồng anh T,
chị H phải có trách nhiệm trả cho bà M và bà H1 theo quy định, do đó cần phải
sửa lại án phí cho đúng. Cụ thể:
- Chị H được hưởng phần chia tài sản chung là 935.338.400đ, sau khi trừ đi
số tiền phải trả nợ là 337.500.000đ còn 597.838.400đ là phần được hưởng. Theo
quy định ở trên thì tiền án phí chia tài sản chung 597.838.400đ = 20.000.000đ +
(4% x 197.838.400đ) = 27.913.536đ; tiền án phí thực hiện nghĩa vụ trả nợ là
337.500.000đ (trong đó trả bà M là 125.000.000đ và trả cho bà H1 212.500.000đ)
x 5% = 16.875.000đ. Cộng cả hai loại án phí, chị H phải nộp là 44.788.536 đ.
- Anh T được hưởng giá trị phần chia tài sản chung là 1.541.930.400đ, sau
khi trừ đi số tiền 337.500.000đ còn lại 1.204.430.400đ là phần được hưởng. Theo
quy định ở trên thì tiền án phí chia tài sản chung 1.204.430.400đ = 36.000.000đ
+ (3% x 404.430.400đ) = 48.132.912đ; tiền án phí thực hiện nghĩa vụ trả nợ là
337.500.000đ (trong đó trả bà M là 125.000.000đ và trả cho bà H1 212.500.000đ)
x 5% = 16.875.000đ. Cộng cả hai loại án phí, anh T phải nộp là 65.007.912đ.
[3.2]. Án phí phúc thẩm: Do bản án Hôn nhân và Gia đình bị sửa nên anh T,
bà M, ông T1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
11
Căn cứ Điều 26, Điều 27 và Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Nghị quyết số 01/2024/NQ – HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của pháp luật trong giải
quyết vụ việc hôn nhân và gia đình.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Đặng Thanh T và người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn T1, bà Trần Thị M.
Sửa Bản án sơ thẩm số 15/2024/HNGĐ - ST ngày 23 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hòa Bình về án phí, cụ thể:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147,
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật
Hôn nhân gia đình;
1. Tuyên xử:
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết H và anh Đặng Thanh T
thuận tình ly hôn.
1.2. Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Đặng Thanh Hà L1,
sinh ngày 26/6/2008, cháu Đặng Nguyễn Trần N, sinh ngày 16/7/2011 và cháu
Đặng Thanh H2, sinh ngày 25/11/2019.
Khi ly hôn giao cháu Đặng Thanh Hà L1 cho chị Nguyễn Thị Tuyết H được
trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu L1 đủ 18 tuổi hoặc có quyết định
thay đổi nuôi con. Giao cháu Đặng Nguyễn Trần N và cháu Đặng Thanh H2 cho
anh T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi cháu N và cháu H2 đủ 18 tuổi
hoặc có quyết định thay đổi nuôi con.
Chấp nhận sự tự nguyện của anh Đặng Thanh T chưa yêu cầu chị Nguyễn
Thị Tuyết H đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.
Quyền thăm nom chăm sóc con chung đảm bảo theo pháp luật.
1.3. Về tài sản chung:
Giao cho anh Đặng Thanh T sở hữu ngôi nhà 3 tầng được xây trên thửa đất
số 84, tờ bản đồ 63 có địa chỉ tại khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình và có
nghĩa vụ thanh toán cho chị H 1/2 giá trị căn nhà theo kết quả định giá
480.394.400đ.
Công nhận quyền sử dụng diện tích 135,4m
2
đất tại thửa đất số 84, tờ bản đồ
63 có địa chỉ tại khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình, trên đất có nhà xây 3
tầng thuộc quyền sở hữu của anh Đặng Thanh T và chị Nguyễn Thị Tuyết H.
12
Khi ly hôn giao cho anh T được sở hữu quyền sử dụng 135,4m
2
đất tại thửa
số 84, tờ bản đồ số 63 có địa chỉ tại khu T, thị trấn M, huyện T tỉnh Hòa Bình
(theo bản trích đo ngày 25/4/2024 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện
T, tỉnh Hòa Bình), có tứ cận: Phía trước hướng Tây bắc giáp Quốc lộ F, phía Đông
Bắc (phần bên phải theo hướng nhà) giáp hộ ông Đỗ Thanh S; Phía Đông Nam
(phía sau nhà) và phía Tây Nam (phần bên trái theo hướng nhà) giáp ông Đặng
Văn T1, bà Trần Thị M; Đồng thời có nghĩa vụ thanh toán cho chị H 30% giá trị
quyền sử dụng đất theo kết quả định giá của Hội đồng định giá 454.944.000đ.
Tổng 02 khoản anh Đặng Thanh T phải thanh toán cho chị Nguyễn Thị
Tuyết H là: 935.338.400đ (Chín trăm ba mươi năm triệu, ba trăm ba tám nghìn,
bốn trăm đồng chẵn).
Anh Đặng Thanh T được hưởng 50% giá trị nhà là 480.394.400đ và được
hưởng 70% giá trị đất là 1.061.536.000đ. Tổng: 1.541.930.400đ (Một tỷ, năm trăm
bốn mươi mốt triệu, chín trăm ba nghìn, bốn trăm đồng).
Anh Đặng Thanh T có quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước để thực hiện
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
1.4. Về nợ chung:
- Anh Đặng Thanh T có nghĩa vụ thanh toán trả cho bà Trần Thị M số tiền
125.000.000đ, thanh toán trả cho bà Phạm Thị H1 212.500.000đ.
- Chị Nguyễn Thị Tuyết H có nghĩa vụ thanh toán trả cho bà Trần Thị M số
tiền 125.000.000đ, thanh toán trả cho bà Phạm Thị H1 212.500.000đ.
2. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Chị Nguyễn Thị Tuyết H tự nguyện chịu 150.000 đồng tiền án phí ly hôn
sơ thẩm và phải nộp 27.913.536đ tiền án phí chia tài sản chung và 16.875.000
đồng tiền án phí thực hiện nghĩa vụ trả nợ, được đối trừ vào số tiền 21.300.000
đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lại số 0002813 ngày 26/4/2023 tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Hòa Bình. Chị H còn phải nộp 23.638.536 đồng
(Hai mươi ba triệu, sáu trăm ba mươi tám nghìn, năm trăm ba mươi sáu đồng
chẵn) án phí dân sự sơ thẩm.
+ Anh Đặng Thanh T phải nộp 65.007.912đ tiền án phí dân sự sơ thẩm (trong
đó: 48.132.912 đồng tiền án phí chia tài sản chung và 16.875.000đ tiền án phí
thực hiện nghĩa vụ trả nợ), được đối trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp theo biên lại số 0000678 ngày 11/10/2024 tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện T, tỉnh Hòa Bình. Anh T còn phải nộp 64.707.912đ (Sáu mươi tư
13
triệu, bảy trăm linh bảy nghìn, chín trăm mười hai đồng chẵn) án phí dân sự sơ
thẩm.
- Về án phí dân sự phúc thẩm:
+ Anh Đặng Thanh T, bà Trần Thị M, ông Đặng Văn T1 không phải chịu án
phí phúc thẩm.
+ Hoàn trả lại cho ông Đặng Văn T1 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai số 0000676 ngày 11/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện T, tỉnh Hòa Bình.
+ Hoàn trả lại cho bà Triệu Thị M2 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai số 0000677 ngày 11/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện T, tỉnh Hòa Bình.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của
pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi
suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (04/3/2025) ./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- TAND huyện T;
- VKSND huyện T;
- Chi cục THADS huyện T;
- UBND thị trấn M;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA; tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Hoàng Ngọc Liễu
14
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Bạch Thị Hồng Hoa Vũ Văn Túc
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hoàng Ngọc Liễu
15
Nơi nhận:
- TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- TAND huyện Tân Lạc;
- VKSND huyện Tân Lạc;
- Chi cục THADS huyện Tân Lạc
- UBND thị trấn Mãn Đức;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA; tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Hoàng Ngọc Liễu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 05/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm