Bản án số 95/2024/DS-ST ngày 02/08/2024 của TAND huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 95/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 95/2024/DS-ST ngày 02/08/2024 của TAND huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hòa Thành (TAND tỉnh Tây Ninh)
Số hiệu: 95/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 02/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: BA công bố Trần Thị Ngọc A - Nguyễn Thị Thu B (vay tài sản)
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ HÒA THÀNH
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 95/2024/DS-ST
Ngày 02-8-2024
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài
sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Lê Thị Mỹ Hòa.
Các hội thẩm nhân dân:
1. Ông Võ Quang Truyền;
2. Đỗ Thị Mỹ Hạnh.
- Thư ký phiên tòa: Thái Thị Thuý Vân, Thư ký Tòa án nhân dân thị
Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh tham
gia phiên tòa: ông Phan Thanh Nhã, Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị Hòa Thành, tỉnh
Tây Ninh xét xử thẩm công khai vụ án thụ số 04/2024/TLST-DS ngày 03
tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản; theo Quyết định
đưa ván ra xét xử thẩm số 95/2024/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2024,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Thị Ngọc A, sinh năm 1980; địa chỉ: số nhà A1,
hẻm số A2, đường A3, khu phố A4, phường A5, thị Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh;
vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của A: ông Nguyễn Minh B, sinh năm 1996;
địa chỉ: Tổ B1, ấp B2, xã B3, huyện B4, tỉnh Tây Ninh, sinh năm 1996; địa chỉ
liên hệ: số B5, đường B6, khu phố B7, phường B8, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây
Ninh theo (Văn bản uỷ quyền ngày 26/12/2023); có mặt.
2. Bị đơn:Nguyễn Thị Thu C, sinh năm 1964; địa chỉ: số C1, đường số
C2, đường C3, khu phố C4, phường C5, thị Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; vắng
mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của C: Nguyễn Thị Kim D, sinh năm
1972; địa chỉ: khu phố D1, phường D2, thị Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; vắng
mặt.
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Thành E, sinh năm
1966 Nguyễn Thị Chiêu F, sinh năm 1968; cùng địa chỉ: ấp Đá Hàng, xã
Hiệp Thạnh, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt và có văn bản đề nghị Toà
án giải quyết vắng mặt.
4. Người làm chứng: Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1972; địa chỉ: khu
phố D1, phường D2, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 12 năm 2023 lời khai trong q
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – Trần Thị Ngọc A và người đại diện uỷ
quyền của bà A trình bày:
Bà Trần Thị Ngọc A Nguyễn Thị Thu C không con họ hàng gì
với nhau, chỉ quen biết nhau nên bà A cho bà C vay tiền. Vào ngày 23/8/2023,
A cho C vay số tiền 500.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất miệng
1,5%/tháng (tương đương 7.500.000 đồng), mục đích vay tiền để làm vốn kinh
doanh, khi vay tiền C tự viết tay toàn bộ nội dung Giấy mượn tiền tên,
lăn tay xác nhận giao cho bà A giữ bản chính (giấy mượn tiền được lập thành 01
bản chính), ngoài ra trong giấy viết tay này có chữ ký, dấu lăn tay của A và bà
Nguyễn Thị Kim D (là em ruột của C) chứng kiến và ký tên, lăn tay. Hai bên
thỏa thuận thời hạn trả tiền làm 02 lần, lần 1 ngày 23/10/2023 trả 200.000.000
đồng, lần 2 ngày 23/01/2024 trả số tiền 300.000.000 đồng.
Ngoài ra khi vay tiền C đưa cho bà A giữ bản chính giấy chứng nhận
quyền sdụng đất (sau đây viết tắt giấy CNQSDĐ) số CH01451 (CN) ngày
24/7/2012 do UBND huyện Dầu cấp cho ông Nguyễn Thành E, Nguyễn
Thị Chiêu F đứng tên để làm tin đảm bảo cho khoản vay. Lý do sao C
bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên để đưa cho A giữ thì bà
A không biết. bà A không gặp trực tiếp ông E, ông F mà qua lời bà C nói với
A ông E, ông F biết và đồng ý việc này. Ông Nguyễn Thành E là em ruột của
C. Ông E và ông F là vợ chồng, nên bà A mới tin tưởng cho bà C vay tiền.
Kể từ khi vay tiền đến nay bà C vi phạm hợp đồng không trả khoản tiền lãi,
gốc cho A, C đã vi phạm nghĩa vtrả tiền lần 1 ngày 23/10/2023 không
có thiện chí trả nợ nên bà A mới khởi kiện.
Nay A khởi kiện yêu cầu Nguyễn Thị Thu C trả lại số tiền vay gốc
500.000.000 đồng và tiền lãi theo lãi suất 0.83%/tháng kể từ ngày vay 23/8/2023
đến khi Tòa án xét xử vụ án. A không đồng ý trả lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông E, ông F. Ngoài ra không còn yêu cầu gì khác.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn Nguyễn Thị Thu C đã được Toà án
tống đạt thông báo thụ vụ án, các n bản tố tụng, triệu tập nhiều lần theo
quy định nhưng bà C không đến Tòa án để làm việc.
Ngày 16/6/2024, Toà án nhận được Bảng tự khai Nguyễn Thị Thu C đề
ngày 15/6/2024 và Giấy mượn tiền ngày 03/6/2022 (bản photo) do dịch vụ bưu
chính chuyển đến. Tại Bản tự khai thể hiện nội dung ngày 23/8/2023 bà C viết
3
lại giấy nợ, xác nhận hiện tại còn nợ bà A 500.000.000 đồng, khi vay tiền có đưa
cho A giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông E, ông F đứng
tên để làm tin (vì bà đang giữ hộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của em bà).
Hiện tại do hoàn cảnh khó khăn, làm ăn thua lỗ, không thu hồi được vốn và đang
bị bệnh nên không trả được gốc lãi cho A như đã hứa, đề nghị A chia s
phần nào khó khăn hiện tại, cho được hẹn trả lại khoản nợ đến ngày 31/12/2024
sẽ trả 200.000.000 đồng ngày 10/02/2025 trả 300.000.000 đồng, không trả
thêm khoản lãi nào phát sinh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Nguyễn Thành E trình bày:
Ông em ruột của Nguyễn Thị Thu C, vợ ông Nguyễn Thị Chiêu
F. Vchồng ông không quen biết với A, cũng không biết bà A ai. Phần
đất diện tích 502 m
2
thửa đất số 261, tờ bản đồ số 25, tại ấp Đá Hàng, Hiệp
Thạnh, huyện Dầu, tỉnh Tây Ninh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CH01451 (CN) ngày 24/7/2012 do UBND huyện Dầu cấp cho vợ chồng
ông đứng tên trước đây ông có gửi cho bà Nguyễn Thị Thu C giữ dùm bản chính
giấy chứng nhận quyền sdụng đất này lý do ông hay đi làm ăn xa, sợ để nhà
sẽ mất. Vchồng ông không biết việc C vay tiền của A, cũng như không
biết việc bà C lấy giấy đất giao cho A giữ. Việc C vay tiền của A thế nào,
số tiền bao nhiêu tông không biết, ông cũng không sdụng số tiền này. Ông
cho rằng việc A giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông
không đúng, yêu cầu A trả lại cho vợ chồng ông, ngoài ra không có yêu cầu gì
khác.
Người làm chứng – Nguyễn Thị Kim D trình bày: vào ngày 23/8/2023,
chở Nguyễn Thị Thu C đến nhà của Trần Thị Ngọc A, C nói với
đến để xác nhận nợ với bà A, sau đó bà C và bà A nói chuyện như thế nào thì
không không ngồi gần, sau khi hai người nói chuyện xong C mới
kêu tên “Người làm chứng” vào “Giấy mượn tiền” đề ngày 23/8/2023. Việc
hai bên thoả thuận giao nhận thế nào không rõ.
“Giấy mượn tiền” ngày 23/8/2023 nội dung do bà C viết, sau đó bà C, A
tên, lăn tay xác nhận. C giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CH01451 (CN) ngày 24/7/2012 do UBND huyện Dầu cấp cho ông Nguyễn
Thành E, Nguyễn Thị Chiêu F đứng tên vì ông E, ông F tờng xuyên đi làm
ăn nên sợ để giấy đất ở nhà sẽ bị mất nên ông E, ông F có giao cho bà C giữ giùm
việc bà C lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01451 (CN) ngày
24/7/2012 do UBND huyện Dầu cấp cho ông Nguyễn Thành E, Nguyễn
Thị Chiêu F đứng tên để giao cho A giữ khi vay tiền, thì có hỏi ý kiến ca ông
E với ông F hay không thì bà không biết chỉ đi theo chứng kiến việc C
vay tiền của A.
Tại phiên toà:
Ông B trình bày: Đối với các khoản vay trước đây giữa A và bà C đã trả
xong, hiện nay C chỉ còn nợ A số tiền vay gốc 500.000.000 đồng, thoả thuận
vay có lãi, do bà C vi phạm nghĩa vụ trả nợ như đã hẹn nên đề nghị Hội đồng xét
4
xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của A. Khi vay tiền bà C có giao cho
A giữ bản chính giấy CNQScủa ông E, ông F đng tên để làm tin, A
cũng không biết do sao C giấy đất này, khi giữ giấy bà A không gặp
và cũng không hỏi ý kiến của ông E, ông F, không biết địa chỉ cụ thể của ông E,
ông F (mà chỉ biết địa chỉ được ghi theo như trên giấy CNQSDĐ); sau khi C
không trả tiền đúng hẹn thì bà A cũng không liên hệ với ông E, ông F mà chỉ liên
hệ với bà C, nay bà A chỉ đồng ý trả lại giấy CNQSDĐ này cho ông E, ông F tại
cơ quan thi hành án khi bà C đã trả xong nợ cho bà A.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh:
Về ttụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử nghị án đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 166, Điều 463, 466, Điều
468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30-12-2016 của y ban Thường vụ Quốc hội; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
Trần Thị Ngọc A, buộc bà Nguyễn Thị Thu C trả số tiền vay gốc 500.000.000
đồng và tiền lãi theo quy định. Buộc bà A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Nguyễn Thành E, bà Nguyễn Thị Chiêu F. Ván phí tính theo quy
định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại
phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đại diện Viện kiểm sát,
xét thấy:
[1]. Về Thẩm quyền giải quyết vụ án và quan hệ tranh chấp: nguyên đơn
Trần Thị Ngọc A khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn Nguyễn Thị Thu C trả số
tiền vay, do bị đơn hiện đang cư trú tại phường Long Hoa, thị xã Hòa Thành, tỉnh
Tây Ninh do đó căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp
đồng vay tài sản” do đó Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh thụ lý
và giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Về tố tụng: bị đơn Nguyễn Thị Thu C và người đại diện uỷ quyền của
bà C là Nguyễn Thị Kim D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vắng
mặt không do; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành E,
Nguyễn Thị Chiêu F vắng mặt yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết vắng
mặt do đó căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng theo quy định pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Ngọc A u cầu Nguyễn Thị
Thu C trả số tiền vay 500.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi theo lãi suất
5
0.83%/tháng kể từ ngày vay 23/8/2023 đến khi Tòa án xét xử vụ án, để chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện của mình nguyên đơn có cung cấp “Giấy mượn tiền
đề ngày 23/8/2023”, nội dung giấy mượn tiền do C viết tên lăn tay xác
nhận, ngoài ra còn có chữ ký, dấu lăn tay của bà A và bà Nguyễn Thị Kim D làm
chứng.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ vụ án, giấy
triệu tập và thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ hòa giải, phiên tòa xét xử vụ án cho bị đơn C theo đúng
quy định của B luật Tố tụng dân sự nhưng bị đơn không hợp tác, không tham gia
phiên họp hgiải, không tham gia phiên toà; ngày 16/6/2024, Toà án nhận được
Giấy mượn tiền ngày 03/6/2022 (bản photo) Bảng tự khai ngày 15/6/2024 đề
tên Nguyễn Thị Thu C do dịch vụ bưu chính chuyển đến, trong Bảng tự khai
nội dung thừa nhận hiện tại tôi nA số tiền 500.000.000 đ (Năm trăm triệu
đồng chẵn” như trong giấy n “Hiện tại tôi đang lâm vào hoàn cảnh khó
khăn, làm ăn thua lỗ, không thu hồi được vốn, tôi lại bị bệnh suốt thời gian dài
nên không trả được nợ gốc lãi cho bà A như đã hứa”.
Mặc khác, tại Biên bản lấy lời khai ngày 20/6/2024 của bà Nguyễn Thị Kim
D người làm chứng đồng thời là người đại diện uỷ quyền của bà C thừa nhận
nội dung giấy mượn tiền ngày 23/8/2023 do C viết nội dung, sau đó C,
A tên, lăn tay xác nhận, lời khai này phù hợp với lời trình bày của nguyên
đơn, phù hợp với tài liệu chứng cứ nguyên đơn cung cấp, phù hợp nội dung
Bảng tự khai ngày 15/6/2024.
Do đó có cơ sở xác định giao dịch giữa bà A và bà C là hợp đồng vay có kỳ
hạn và vay lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Dân sự. Tuy
nhiên, do bà C vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo thoả thuận nên bà A khởi kiện yêu
cầu C trả số tiền vay gốc 500.000.000 đồng tiền lãi theo lãi suất 0.83%/tháng
kể tngày 23/8/2023 đến khi Tòa án xét xử vụ án s theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Số tiền lãi được tính như sau: 500.000.000 đồng x 0.83%/tháng x 11 tháng
10 ngày = 47.033.000 đồng.
[2.2]. Đối với bản chính Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CH01451
(CN) ngày 24/7/2012 do UBND huyện Gò Dầu cấp cho ông Nguyễn Thành E, bà
Nguyễn Thị Chiêu F đứng tên, hiện bà A đang giữ. Tại phiên toà, người đại diện
theo uỷ quyền của bà A cho rằng khi vay tiền bà C giao cho bà A giữ để làm tin,
bà A cũng không biết lý do vì sao C có giấy đất này, khi giữ giấy bà A không
gặp và cũng không hỏi ý kiến của ông E, ông F, không biết địa chỉ cụ thể của ông
E, ông F (mà chỉ biết địa chỉ được ghi theo như trên giấy CNQSDĐ); sau khi
C không trả tiền đúng hẹn thì A cũng không liên hệ với ông E, ông F chỉ
liên hệ với C, nay A chỉ đồng ý trả lại giấy CNQSDĐ này cho ông E, ông F
tại cơ quan thi hành án khi bà C đã trả xong nợ cho bà A. Quá trình giải quyết vụ
án, ông E trình bày ông không biết A là ai, không biết việc C vay tiền của
A cũng như không biết sao A lại giữ giấy CNQScủa vợ chồng ông
6
(vì ông chỉ giao cho C giữ dùm), do đó trong vụ án này ông yêu cầu A trả
lại cho vợ chồng ông giấy CNQSDĐ này.
Hội đồng xét xử xét thấy, việc A giữ bản chính GCNQSDĐ của ông E,
ông F để làm tin, đảm bảo cho khoản vay khi chưa được sự đồng ý của ông E, ông
F (là người đứng tên trên giấy CNQSDĐ) là không đúng quy định pháp lut. Nay
ông E yêu cầu buộc bà A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mặc khác
việc A đang giữ giấy CNQSDĐ của ông E, ông F phát sinh tgiao dịch vay
tiền giữa A và bà C trong vụ án này, do đó yêu cầu của ông E chính đáng và
cũng nhằm giải quyết triệt để vụ án, căn cứ theo quy định tại Điều 105, 166 của
Bộ luật Dân sự cần buộc bà A trách nhiệm trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất này cho ông E, ông F.
[3]. Tnhững phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của Trần Thị Ngọc A đối với Nguyễn Thị Thu C,
buộc C trả lại cho bà A số tiền tổng cộng 547.033.000 đồng (trong đó vay gốc
500.000.000 đồng và tiền lãi 47.033.000 đồng). Buộc bà A trả lại bản chính giấy
CNQSDĐ cho ông E, ông F.
[4]. Xét quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của Viện kiểm sát phù hợp với
nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5]. Ván phí dân sự sơ thẩm: bà C phải chịu án phí trên số tiền phải trả theo
quy định khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 227, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 166, Điều
463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện củaTrần Thị Ngọc A đối với Nguyễn
Thị Thu C về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buộc Nguyễn Thị Thu C có nghĩa vụ trả cho Trần Thị Ngọc A số tiền
547.033.000 đồng (Năm trăm bốn mươi bảy triệu, không trăm ba mươi ba nghìn
đồng) (trong đó tiền vay gốc 500.000.000 đồng và tiền lãi 47.033.000 đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Buộc Trần Thị Ngọc A lại cho ông Nguyễn Thành E, bà Nguyễn Thị
Chiêu F Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01451 (CN) ngày 24/7/2012
do UBND huyện Gò Dầu cấp cho ông E, ông F đứng tên (bản chính).
7
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyễn Thị Thu C phải chịu án phí dân sự
thẩm là 25.881.000 đồng (Hai mươi lăm triệu tám trăm tám mươi mốt nghìn
đồng).
Hoàn trả lại cho Trần Thị Ngọc A số tiền tạm ứng án phí đã nộp
12.338.000 đồng (Mười hai triệu ba trăm ba mươi tám nghìn đồng) tại Biên lai
thu số 0010751 ngày 03/01/2024 của Chi cục Thi nh án n sự thị xã Hoà
Thành, tỉnh Tây Ninh.
3. Về quyền kháng cáo: các đương sự có mặt được quyền kháng cáo lên Tòa
án nhân dân tỉnh y Ninh trong thời hạn 15 ngày ktừ ngày tuyên án. Riêng
đương sự vắng mặt quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND tx. Hòa Thành;
- Chi cục THADS tx. Hòa Thành;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu tập án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Lê Thị Mỹ Hòa
Tải về
Bản án số 95/2024/DS-ST Bản án số 95/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 95/2024/DS-ST Bản án số 95/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất