Bản án số 91/2024/DS-ST ngày 29/09/2024 của TAND huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 91/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 91/2024/DS-ST ngày 29/09/2024 của TAND huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện An Minh (TAND tỉnh Kiên Giang)
Số hiệu: 91/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN AN MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 91/2024/DS-ST
Ngày: 29 - 09 - 2024
T/c quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Văn Tới
- Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nguyễn Tấn Để
2. Ông Phan Quốc Hùng
- Thư a án ghi biên bản phiên tòa: Phan Thị Hồng Nhung, Thư
Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện An Minh tham gia phiên tòa: Ông
Trần Văn Ý, Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 09 năm 2023, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện An Minh,
tỉnh Kiên Giang xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 126/2023/TLST-
DS ngày 26 tháng 06 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, theo Quyết
định hoãn phiên tòa số: 133/2024/QĐST- DS ngày 13 tháng 9 năm 2024 giữa các
đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé N, sinh năm 1965. Địa chỉ: ấp K, xã V, huyện
A, tỉnh Kiên Giang (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi tích hợp pháp của Nguyễn Thị N ông Trần
Tuấn A, Trợ giúp viên, Trung tâm trợ giúp pháp Nnước tỉnh K (có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt).
* Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1974. Địa chỉ: ấp K, V, huyện A,
tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bùi Thị Bích H1, sinh năm 1974. Địa chỉ: ấp K, V, huyện A, tỉnh Kiên
Giang (vắng mặt).
- Ông Trương Hoài B, sinh năm 1985. Địa chỉ: ấp K, V, huyện A, tỉnh Kiên
Giang (có mặt).
2
- Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1969. Địa chỉ: ấp T, Đ, huyện A, tỉnh Kiên
Giang (có mặt).
- Ông Nguyễn Văn K (H2), sinh năm 1971. Địa chỉ: ấp K, V, huyện A, tỉnh
Kiên Giang (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1967. Địa chỉ: ấp K, V, huyện A, tỉnh Kiên
Giang (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1960. Địa chỉ: ấp K, xã V, huyện A, tỉnh Kiên
Giang (có mặt).
- Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963. Địa chỉ: ấp K, V, huyện A, tỉnh Kiên
Giang (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung các lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé N trình bày và yêu cầu:
Trước đây khoảng năm 1981 bà có nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Thanh
N1 ng N1 đã chết) phần đất chiều ngang 9 mét, chiều dài từ lộ ra bờ sông, đất
tọa lạc ấp K, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
Vị trí đất: Hướng Đông giáp đất ông Nguyễn văn H3, hướng Tây giáp đất ông
Nguyễn Văn X, hướng Nam giáp kênh K, hướng Bắc giáp lộ xe đi V.
Từ đó đến nay bà vẫn bỏ trống không sử dụng, đến ngày 26/10/2022 bà chuyển
nhượng phần đất này cho cháu Trương Hoài B thì bị em ruột Nguyễn Văn H đứng
ra ngăn cản, H nói phần đất này đã chiếm qua đất của H chiều ngang 05 mét nên H
không cho B sử dụng. Sau đó bà có làm đơn yêu cầu để chính quyền hòa giải, cán bộ
lên xác minh thì bị H lấy dao định hành hung.
Bà N xác định diện tích đất tranh chấp này (theo tờ trích đo số 103 - 2023 ngày
25/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện A) là thuộc diện tích đất
nhận chuyển nhượng của ông N1 trước đây. yêu cầu Tòa án công nhận diện
tích đất này của buộc ông H trả lại quyền sử dụng diện tích đất tranh chấp này
cho bà.
Tại phiên tòa, N yêu cầu được tiếp tục sử dụng diện tích đất tranh chấp này
và buộc ông H chấp dứt hành vi ngăn cản việc sử dụng đất của bà.
* Bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:
Nguồn gốc diện tích đất mé sông tranh chấp với bà N có một phần chiều
ngang theo lộ 04 mét (tính từ trụ ranh giáp với nền nhà anh X đo qua nhà N)
của N nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Thanh N1, diện tích còn lại của
3
cha ruột Nguyễn Văn H4, mẹ ruột Phạm Thị H5 khai phá 26,8 mét, cha mẹ sử
dụng đến năm 1979 mẹ chết, cha tiếp tục sử dụng đến năm nào không nhớ, cha
chuyển nhượng cho anh Phan Văn V 8,5 mét, còn lại 18,3 mét cha sdụng đến năm
2013 cha chết. Từ năm 2013 ông H quản lý sử dụng đến nay.
N nhận chuyển nhượng của ông Thanh N1 chiều ngang theo lộ bao
nhiêu mét thì ông không biết rõ, nhưng N đã chuyển nhượng cho anh A1,
sau đó A1 chuyển nhượng lại cho chị B1 chị B1 đang sử dụng nhưng không
biết bao nhiêu mét; bà Bé N chuyển nhượng cho ông T, ông T chuyển nhượng lại cho
ông 7 Tấn. Ngoài ra, bà Bé N còn để lại chiều ngang khoảng 1,5 mét làm móng cầu.
Diện tích đất chiều ngang 4,0 mét giáp với nhà anh X, N đã chuyển
nhượng cho anh B thì ông không chấp. Diện tích còn lại là của cha mẹ để lại cho ông
nên ông không chấp nhận yêu cầu của bà Bé N.
Tại phiên tòa, ông H vắng mặt tại phiên tòa nên không có lới trình bày.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Trương Hoài B trình bày: Năm 2022 ông có nhận chuyển nhượng của bà
Nguyễn Thị N diện tích đất sông chiều ngang 09 mét ngay vị trí tranh chấp
hiện nay. Nay ông không yêu cầu gì đối với ai. Trường hợp có tranh chấp hợp với
Bé N thì ông khởi kiện bà Bé N thành vụ kiện khác.
Tại phiên tòa, ông B giữ nguyên lời trình bày.
- Nguyễn Thị Đ trình bày:
Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp giữa bà N với ông H của N
nhận chuyển nhượng của ông N1 trước đây, tính từ mí nhà của bà N trở về đất của
chị B1. Căn Nhà của N được xây dựng trên đất của cha ruột là ông Nguyễn
Văn H4 cho.
Đất của ông H4 giáp với Kênh Kim Q chiều ngang 70 mét hay 75 mét gì đó
nhớ không rõ. Theo thì diện tích đất tranh chấp này thuộc về đất của N
nhận chuyển nhượng của ông Thanh N1 trước đây, cho nên khi xét xử thì giao cho bà
Bé N sử dụng.
Tại phiên tòa, Đ xác định diện tích đất tranh chấp này thuộc về đất của
N nhận chuyển nhượng của ông Thanh N1 trước đây, yêu cầu Tòa án giao cho
bà Bé N sử dụng.
- Ông Nguyễn Văn L trình bày: Đường ranh đất của cha ông ông Nguyễn
Văn H4 giáp với đất ông Hoàng T1 một đường cong giữa đất. Trụ đá làm ranh
đất giáp với anh Trương Thanh H6 hiện nay chưa đúng, trước đây ông H4
cho B2 sỉ H7 02 mét (nay anh H6 sử dụng). Đất của ông H4 giáp với Kênh Kim Q có
4
chiều ngang 75 mét, cho B2 sỉ H7 02 mét, còn lại 73 mét tính từ ranh giáp với anh H6
hiện nay đến hết căn nhà của Bé N.
Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp giữa bà N với ông H của N
nhận chuyển nhượng của ông N1 trước đây, nh từ ncủa N đến nhà của
chị B1. Căn Nhà của N được xây dựng trên đất của cha ruột là ông Nguyễn
Văn H4.
Theo ông thì diện tích đất tranh chấp này thuộc về đất của bà N nhận
chuyển nhượng của ông Thanh N1 trước đây, nên buộc ông H trả cho bà N.
Tại phiên tòa, ông L giữ nguyên lời trình bày và yêu cầu Tòa án giao cho bà N sử
dụng.
- Ông Nguyễn Văn S trình bày:
Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp giữa bà N với ông H của N
nhận chuyển nhượng của ông N1 trước đây, tính từ nhà của N trở về nhà
của chị B1. Căn Nhà của bà Bé N được xây dựng trên đất của cha ruột là ông Nguyễn
Văn H4. Đường ranh đất của ông H4 giáp với đất ông Hoàng T1 là một đường cong ở
giữa đất. Trụ đá làm ranh đất giáp với anh Trương Thanh H6 hiện nay chưa đúng,
trước đây ông H4 cho B2 sỉ H7 02 mét (nay anh H6 sử dụng). Kênh Kim Qui múc
không ngay đường cong, đường cong đoạn giữa chiều dài của đất. Đất của ông
H4 giáp với Kênh Kim Q có chiều ngang 75 mét, cho B2 sỉ H7 02 mét, còn lại 73 mét
tính từ ranh giáp với anh H6 hiện nay đến hết căn nhà của N. N nhận
chuyển nhượng của ông N1 không đo đạc, nhưng ranh đất giáp với đất ông H4
ngay vị trí vách nhà của chị N hiện nay. Theo ông thì diện tích đất tranh chấp này
thuộc về đất của bà Bé N nhận chuyển nhượng của ông Thanh N1 trước đây.
Tại phiên tòa, ông S giữ nguyên lời trình bày và yêu cầu Tòa án giao cho bà
N sử dụng.
Trợ giúp viên Trần Tuấn A trình bày: Đối chiếu tờ trích đo số 103 - 2023 ngày
25/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện A với đồ cấp đất cho ông
Nguyễn Văn H4 thì xác định diện tích đất tranh chấp giữa bà N với ông H nằm
ngoài diện tích đất cấp cho ông H4. vậy đnghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn
bộ yêu cầu của bà Bé n, buộc ông H chấm dứt hành vi ngăn cản việc sử dụng đất của
bà Bé N.
- Kiểm sát viên phát biểu:
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xác định đúng mối quan hệ pháp
luật tranh chấp; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, các vị Hội thẩm, Thư ký, nguyên
đơn, bị đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn
Văn S, bà Nguyễn Thị Đ thực hiện đúng theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự;
5
bị đơn ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Văn P, ông Nguyễn Văn H8 thực hiện chưa
đúng theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
Hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ vụ án, Tòa án ban hành thông báo thụ lý
vụ án, Sau khi thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án Thông báo công khai chứng cứ
hòa giải nhưng các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án. Ngày 22/08/2024 Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại
Điều 220 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đã Quyết định hoãn phiên tòa đến ngày hôm
nay.
[2]. Về quan hệ tranh chấp: Trên sở chứng cứ trong hcũng như lời
trình bày của các bên đương sự. Hội đồng xét xử c định mối quan hệ pháp luật
tranh chấp quyền sử dụng đất.
[3] Về nội dung tranh chấp: Nguyễn Thị N xác định diện tích đất tranh
chấp này do nhận chuyển nhượng của ông N1 trước đây, tức nằm ngoài diện
tích đất của ông Nguyễn Văn H4; còn ông Nguyễn Văn H thì xác định diện tích đất
tranh chấp này nằm trong diện ch đất của ông Nguyễn Văn H4. Xét thấy, thực tế
theo đồ cấp đất cho ông Nguyễn Văn H4 (Sơ đ14) thì đất của ông H4 chiều
ngang hướng giáp Kênh Kim Q một đường thẳng có số đo là 72,7 mét, còn theo tờ
trích đo số 103-2023 ngày 25/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
huyện A thì chiều ngang hướng giáp Kênh Kim Q 74,4 mét (chưa tính diện tích
tranh chấp chiều ngang 09 mét). Như vậy, chiều ngang đo thực tế nhiều hơn chiều
ngang theo đồ cấp đất 1,7 mét. Do đó, lời trình bày của ông H không căn
cứ để chấp nhận.
Mặt khác, theo lời trình bày của ông Nguyễn n L, ông Nguyễn Văn S
Nguyễn Thị Đ phù hợp với đồ cấp đất cho ông Nguyễn Văn H4. Giữa ông
Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn S Nguyễn Thị Đ, bà Nguyễn Thị N, ông
Nguyễn Văn H anh chị em ruột với nhau là anh chị của ông H. Lời trình bày
theo sự hiểu biết của họ là đáng tin cậy.
Từ những nhận định nêu trên, sau khi thảo luận, nghị bàn. Hội đồng xét xử xét
thấy lời trình bày, yêu cầu của nguyên đơn cũng như đề nghị của kiểm sát viên
căn cứ nên chấp nhận. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị N.
Buộc ông Nguyễn Văn H chấm dứt hành vi ngăn cản, giao trả lại quyền sử dụng đất
6
cho Nguyễn Thị N sử dụng theo quy định của pháp luật. Diện tích đất đo thực
tế chiều ngang ngang hướng bắc giáp Đường T - V (điểm 18 - 16-14) là 8,76 mét,
chiều ngang hướng nam giáp Kênh Kim Q (điểm 17 - 15 - 13) 9,05 mét, chiều dài
hướng đông giáp nhà đất Nguyễn Thị N (điểm 14 - 13) 5,15 mét, chiều dài
hướng tây giáp nhà đất bà Bành Thị B3 (điểm (18 - 17) là 5,78 mét, diện tích 48,6 m
2
.
(Vị trí khu đất, độ dài các cạnh tại các điểm giáp ranh, các hướng giáp ranh
được mô tả theo tờ trích đo địa chính số: TĐ 103 - 2023 (92, 96, 117, 118, 119, 120 -
36), ngày 25/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện A.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị N và ông
Trương Hoài B không ai tranh chấp, yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4]. Về án phí: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
lệ phí Tòa án. Buộc ông Nguyễn Văn H chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.
Nguyễn Thị Bé N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả lại cho Nguyễn Thị N 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí
thẩm, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ pTòa án số 0001337 ngày 21/06/2023
của chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh.
[5] Về chi phí tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 157, Điều 158 của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Buộc ông Nguyễn Văn H chịu chi phí tố tụng 6.151.680 đồng (pxem xét
thẩm định tại chỗ), theo hóa đơn giá trị gia tăng số: 00000030 ngày 18/01/2024 của
Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên M. Do Nguyễn Thị N nộp tạm
ứng trước nên buộc ông Nguyễn Văn H trả lại cho Nguyễn Thị N là 6.151.680
đồng
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan Thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của stiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227,
235, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
7
Áp dụng: Điều 6, khoản 4 Điều 12, Điều 167 của Luật đất đai năm 2013; Điều
221 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Bé N.
Buộc ông Nguyễn Văn H chấm dứt hành vi ngăn cản, giao trả lại quyền sử
dụng đất cho bà Nguyễn ThịN sử dụng theo quy định của pháp luật. Diện tích đất
đo thực tế chiều ngang ngang hướng bắc giáp Đường T - V (điểm 18 - 16-14)
8,76 mét, chiều ngang hướng nam giáp Kênh Kim Q (điểm 17 - 15 - 13) là 9,05 mét,
chiều dài hướng đông giáp nhà đất Nguyễn Thị N (điểm 14 - 13) 5,15 mét,
chiều dài hướng tây giáp nhà đất Bành Thị B3 (điểm (18 - 17) 5,78 mét, diện
tích 48,6 m
2
.
(Vị trí khu đất, độ dài các cạnh tại các điểm giáp ranh, các hướng giáp ranh được
tả theo ttrích đo địa chính số: 103 - 2023 (92, 96, 117, 118, 119, 120 - 36),
ngày 25/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện A.
Về án phí: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
lệ phí Tòa án. Buộc ông Nguyễn Văn H chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.
Nguyễn Thị Bé N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả lại cho Nguyễn Thị N 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí
thẩm, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ pTòa án số 0001337 ngày 21/06/2023
của chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh.
Về chi phí tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 157, Điều 158 của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Buộc ông Nguyễn Văn H chịu chi phí tố tụng 6.151.680 đồng (phí xem xét
thẩm định tại chỗ), theo hóa đơn giá trị gia tăng số: 00000030 ngày 18/01/2024 của
Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên M. Do Nguyễn Thị N nộp tạm
ứng trước nên buộc ông Nguyễn Văn H trả lại cho Nguyễn Thị N là 6.151.680
đồng
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan Thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án ối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của stiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Về quyền kháng cáo: Án xử thẩm công khai, các đương sự mặt tại phiên
tòa biết, quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể tngày tuyên án; các
8
đương sự vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh KG; Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa
- VKSND huyện AM;
- Chi cục THADS huyện AM;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, VP.
Trần Văn Tới
9
Tải về
Bản án số 91/2024/DS-ST Bản án số 91/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 91/2024/DS-ST Bản án số 91/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất