Bản án số 91/2024/DS-PT ngày 07/08/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 91/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 91/2024/DS-PT ngày 07/08/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 91/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T với bị đơn ông Huỳnh S
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 91/2024/DS-PT.
Ngày: 07-8-2024.
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài
sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Quốc Bảo.
Lê Thị Anh Đào;
Võ Thị Minh Phượng.
- Thư ký phiên tòa: Trần Thị Minh Hiếu - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam: Trần Thị
Thanh Bắc - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 07 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 100/2023/TLPT-DS ngày 10 tháng
11 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2023/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số: 108/2023/QĐXXPT-
DS ngày 23 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1966.
Địa chỉ: thôn B, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
2. Bị đơn: ông Huỳnh S, sinh năm 1952.
Địa chỉ: thôn C, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Hồng H, sinh
năm 1990.
Địa chỉ: thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
4. Người kháng cáo: bị đơn ông Huỳnh S.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong hồ vụ án tại phiên tòa sơ
thẩm, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim T trình bày:
2
Do quen biết với nhau từ trước nên ngày 17/01/2020, T cho ông
Huỳnh S mượn số tiền 100.000.000 đồng để làm ăn, kinh doanh. Khi mượn tiền
viết giấy ông S ký, viết tên vào giấy ợn tiền; để làm tin, ông S giao
cho bà T giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cấp cho hộ ông Huỳnh S. Ông S cam kết trả đủ số tiền cho
T trong thời hạn 02 tháng, nhưng ông S không thực hiện đúng cam kết. Đến
nay đã hơn 02 năm, T đã dùng nhiều cách liên lạc với ông S lấy lại tiền
nhưng không được. vậy, T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông
Huỳnh S phải trả cho T số tiền nợ gốc 100.000.000 đồng, không yêu cầu
tính lãi.
Bị đơn ông Huỳnh S trình bày nhiều lời khai khác nhau, cụ thể như sau:
Tại bản tự khai ngày 03/3/2023, ông S không thừa nhận vay tiền của T
cho rằng Nguyễn Thị Hồng H mượn sổ đỏ của ông S rồi vay tiền của
T, giấy mượn tiền do bà T viết rồi bảo ông S ký. Tại bản tự khai ngày
23/3/2023, ông S thừa nhận có vay của bà T số tiền 100.000.000 đồng, nhưng vì
hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông S chưa trả được, nay ông S đồng ý trả cho
T số tiền nói trên, trước đây ông khai cho H vay không đúng. Tại Biên
bản đối chất ngày 30/6/2023 giữa bà T và ông S thì ông S cho rằng ông bị cưỡng
ép vào giấy mượn tiền, ông không biết bà T ai. Tại phiên tòa ngày
25/8/2023, ông S không thừa nhận chữ , chữ viết tên Huỳnh S trong giấy
mượn tiền của ông S và yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định. Nhưng, tại bản
tự khai ngày 29/8/2023 thì ông S lại thừa nhận chữ ký của ông và không yêu cầu
giám định nữa.
Tại phiên tòa thẩm, ông Huỳnh S khai không quen biết T không
vay tiền của T; bà Nguyễn Thị Hồng H mượn sổ đỏ của ông để vay tiền của
bà T và bà H viết giấy vay tiền, bà T ép buộc ông ký vào giấy vay tiền.
Tại lời khai trong hồ vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị Hồng H trình bày: trước đây, giữa H và ông S quen biết
nhau, thỉnh thoảng bà H cũng có vay mượn tiền của ông S, rồi trả. Khoảng tháng
02/2019, bà H đến nhà ông S để mượn sổ đỏ nhưng không biết viết giấy tờ
thế nào nên ông S đọc cho H ghi, ông S đọc như thế nào thì H ghi thế đó.
Thực tế thì H không lấy sổ đỏ của ông S không vay tiền của T. Nay,
ông S cho rằng H mượn sổ đỏ của ông S để mượn tiền của T thì H
không đồng ý, lời khai của ông S là căn cứ; bà H yêu cầu Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự thẩm số 46/2023/DS-
ST ngày 20/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ
các Điều 26, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 463,
466 Bộ luật Dân sự; Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
Chấp nhận đơn khởi kiện về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của
Nguyễn Thị Kim T. Buộc ông Huỳnh S nghĩa vụ trả nợ vay cho Nguyễn
Thị Kim T số tiền 100.000.000 đồng (theo giấy mượn tiền ngày 17/01/2020).
3
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ thi hành án
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xsơ thẩm, ngày 28/9/2023, bị đơn ông Huỳnh S kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Nam phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công trực tiếp giải quyết vụ án đã thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết
vụ án, về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia xét
xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình t,
thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn
giữ nguyên kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Hồng
H đã được Tòa án triệu tập hợp lnhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa
nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 3
Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn ông Huỳnh S thì thấy:
[2.1] Nguyên đơn Nguyễn Thị Kim T cho rằng, vào ngày 17/01/2020,
T có cho ông Huỳnh S vay số tiền 100.000.000 đồng và ông S có giao cho
T giữ Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất cấp cho hộ ông Huỳnh S; thời hạn vay tiền 02 tháng, nhưng
đến nay ông S vẫn chưa trả tiền cho T. Vì vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết buộc ông Huỳnh S phải trả cho T số tiền nêu trên. T cung cấp
chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện là “Giấy mượn tiền” ngày 17/01/2020, có chữ
ký, chữ viết đứng tên Huỳnh S. n bị đơn ông Huỳnh S thì cho rằng, ông S
không có vay tiền của bà T mà bà Nguyễn Thị Hồng H mới là người mượn Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S để vay tiền của T, s tiền
100.000.000 đồng. Do đó, ông S không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
[2.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, tại Bản tự khai ngày 23/3/2023
(bút lục 27) do ông Huỳnh S tự viết, ông S khai nhận: “Ngày 17/01/2019, tôi
4
mượn của Nguyễn Thị Kim T số tiền 100.000.000 đồng, hoàn cảnh gia
đình khó khăn tôi chưa có tiền trả được cho bà T. Nay bà T khởi kiện yêu cầu tôi
phải trả cho bà số tiền nói trên, tôi thống nhất chịu trách nhiệm trả cho T số
tiền một trăm triệu đồng nói trên, trước đây khai cho H không đúng sự
thật”. Cũng trong ngày 23/3/2023, Tòa án cấp thẩm lập Biên bản hòa giải
thành nội dung: “Ông Huỳnh S thống nhất chịu trách nhiệm trả nợ cho
Nguyễn Thị Kim T số tiền 100.000.000 đồng” và ông Huỳnh S, bà Nguyễn Thị
Kim T đã ký, ghi họ, tên vào biên bản này. Tuy nhiên, ngày 28/3/2023, ông
Huỳnh S đơn xin thay đổi ý kiến tại Biên bản hòa giải thành ngày 23/3/2023
của Tòa án cấp sơ thẩm và không đồng ý trả số tiền 100.000.000 đồng cho bà T,
vì cho rằng H mới là người vay tiền của bà T.
[2.3] Tại Tòa án cấp sơ thẩm, ông Huỳnh S cung cấp cho Tòa án “Giấy
mượn a đỏ” (ngày, tháng, m xác lập đã bị sửa chữa) do Nguyễn Thị
Hồng H viết, tên, nội dung H mượn của ông Huỳnh S sổ đỏ để thế
chấp cho T ợn tiền, trong thời gian 02 tháng sẽ trả sổ lại cho ông S. Tuy
nhiên, trong “Giấy mượn bìa đỏ” này không nội dung nào đề cập đến việc
H có vay của bà T số tiền 100.000.000 đồng như ông S đã khai. Tại các biên bản
đối chất giữa bà T với ông S ngày 30/6/2023 giữa bà T với H ngày
11/8/2023 do Tòa án cấp thẩm tiến nh, cả T H đều không thừa
nhận việc H mượn bìa đỏ của ông S để vay của T số tiền 100.000.000
đồng như ông S trình bày. Ngoài ra, ông S n thừa nhận T giao số tiền
100.000.000 đồng nhưng cho rằng H là người nhận, còn ông S chỉ đếm tiền
giúp cho bà H chứ không nhận tiền.
[2.4] Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: mặc dù, lời khai của ông S
không thống nhất, lúc tthừa nhận ông vay của T số tiền 100.000.000
đồng, lúc thì không thừa nhận cho rằng bà H mới người vay tiền của T.
Tuy nhiên, căn cứ vào “Giấy mượn tiền” ngày 17/01/2020 do nguyên đơn cung
cấp (có chữ ký, chữ viết đứng tên Huỳnh S) thể hiện: ông Huỳnh S vay của bà
Nguyễn Thị Kim T số tiền 100.000.000 đồng T nhận Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hu nhà tài sản khác gắn liền với đất của hộ
ông Huỳnh S. Tại Tòa án cấp phúc thẩm, ông S đơn yêu cầu giám định chữ
ký, chữ viết họ tên Huỳnh S trong “Giấy mượn tiền” ny 17/01/2020 do
nguyên đơn cung cấp. Tại Kết luận giám định số 283/KL-KTHS ngày 23/5/2024
của Phòng K Công an tỉnh Q, kết luận: chữ ký, chữ viết họ tên Huỳnh S trên tài
liệu cần giám định (“Giấy mượn tiền” ngày 17/01/2020) so với chữ ký, chữ viết
họ tên Huỳnh S trên các tài liệu mẫu (các Biên bản hòa giải, Biên bản đối chất
tại Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Quảng Nam chữ ký, chữ viết của ông
Huỳnh S) là do cùng một người ký, viết ra. Như vậy, đủ sở khẳng định, b
đơn ông Huỳnh S ký, viết tên vào “Giấy mượn tiền” ngày 17/01/2020 để vay
của nguyên đơn Nguyễn Thị Kim T số tiền 100.000.000 đồng như nguyên
đơn trình bày.
[2.5] Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy, Tòa án cấp thẩm chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Thị Kim T, buộc bị đơn ông Huỳnh S trả cho nguyên đơn số tiền vay
100.000.000 đồng là cơ sở, đúng quy định pháp luật. Do đó, không có căn cứ
5
để chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm theo như đề nghị
của Kiểm sát viên.
[3] Án phí dân sự phúc thẩm: do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bị đơn
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; tuy nhiên, bị đơn là người cao tuổi và có đơn
đề nghị miễn án phí nên được miễn (đã được Tòa án cấp thẩm cho miễn tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm).
[4] Chi phí tố tụng khác: bị đơn ông Huỳnh S phải chịu số tiền chi phí
giám định tại Tòa án cấp phúc thẩm 4.635.000 (Bốn triệu sáu trăm ba mươi
lăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng chi phí tố tụng đã nộp (đã nộp
xong).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bđơn ông Huỳnh S, giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số 46/2023/DS-ST ngày 20/9/2023 của a án nhân dân huyện
P, tỉnh Quảng Nam.
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 38, 39, 147, 148, 161 296 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 12,
14, 26 và 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Kim T đối
với bị đơn ông Huỳnh S về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Buộc ông Huỳnh S nghĩa vụ trả cho Nguyễn Thị Kim T số tiền vay
là 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng, theo “Giấy mượn tiền” ngày 17/01/2020.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Án phí dân sự thẩm: bị đơn ông Huỳnh S được miễn; nguyên đơn
Nguyễn Thị Kim T không phải chịu, hoàn trả lại cho Nguyễn Thị Kim T số
tiền tạm ứng án phí thẩm đã nộp 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010607 ngày 15/02/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Quảng Nam.
Án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn ông Huỳnh S được miễn.
Chi phí tố tụng khác: ông Huỳnh S phải chịu số tiền chi phí giám định tại
Tòa án cấp phúc thẩm 4.635.000 (Bốn triệu sáu trăm ba mươi lăm nghìn)
đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng chi phí tố tụng đã nộp (đã nộp xong).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (07/8/2024).
6
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND huyện P;
- Chi cục THADS huyện P;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Quốc Bảo
Tải về
Bản án số 91/2024/DS-PT Bản án số 91/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 91/2024/DS-PT Bản án số 91/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất