Bản án số 88/2024/DS-PT ngày 31/08/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 88/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 88/2024/DS-PT ngày 31/08/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Phúc
Số hiệu: 88/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Văn H và Trần Hoài N về việc tranh chấp thừa kế tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 88/2024/DS-PT
Ngày 19 - 6 - 2024
V/v Tranh chấp thừa kế tài sản”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Duy Sơn.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Trọng và bà Nguyễn Thị Thu Hiền.
- Thư ký phiên toà: Ông Nông Xuân Trúc - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên a:
Bà Hoàng Thị Tuyết - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 13 19 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý s: 03/2022/TLPT-DS
ngày 13 tháng 01 năm 2022 về việc tranh chấp thừa kế tài sản. Do Quyết định
giám đốc thẩm số: 103/2021/DS-GĐT ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Nội. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
số: 95/2023/QĐ-PT ngày 18 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn H1, sinh năm 1949; đăng ký HKTT: Số nhà
A, đường N1, phường Đ, thành phố V1, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo y quyền của nguyên đơn: Ông Tạ Ngọc T1, sinh
năm 1975 và ông Lê Thành N1, sinh năm 1993; cùng địa chỉ: Số A2, đường N2,
phường L, thành phố V1, tỉnh Vĩnh Phúc (theo văn bản ủy quyền ngày
26/7/2018, (có mặt).
Bị đơn:
- Anh Trần Hoài N2, sinh năm 1981; trú tại: E, Chung C, đường N3,
phường T1, quận A5, Thành phố Hồ Chí Minh; đơn vị công tác: Viện N - Đại
học D, địa chỉ: 10C, đường T2, phường T3, quận A6, Hồ Chí Minh, (vắng mặt).
- Chị Trần Thanh H2, sinh m 1983; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
Khu H, đường N1, phường Đ, thành phố V1, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi làm việc: Công
ty TNHH M; địa chỉ: thôn V2, Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, (có mt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2
- Anh Tạ Xuân T2, sinh năm 1978; hộ khẩu thường trú: Phường K, thành
phố V1, tỉnh Vĩnh Phúc; chỗ ở: Đường N1, phường Đ, thành phố V1, tỉnh Vĩnh
Phúc, (vắng mặt).
NỘI DUNG V ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/7/2018 quá trình tố tụng, nguyên đơn
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Trần n H1 kết hôn với bà Cao Thị M năm 1980, qtrình chung
sống vợ chồng ông H1, M có 02 con anh Trần Hoài N2 chị Trần Thanh
H2. Tài sn do vchồng ông H1, bà M tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân gồm:
01 ngôi nhà 3 tầng, 01 lán bán hàng xây dựng năm 2006, làm trên diện tích đất
169,5m
2
(diện tích được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 84m
2
) thuộc
thửa số A3, tờ bản đồ 02, vị trí đất tại số nhà A4 đường N1, phường Đ, thành
phố V1 được Ủy ban nhân dân (UBND) thị V1 (nay thành phV1) cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) ngày 05/10/1994 mang tên ông Trần
Văn H1.
Nguồn gốc thửa đất do m 1993 vợ chồng ông H1, M nhận chuyển
nhượng của ông Phan Văn D với diện tích 84m
2
, còn lại diện tích đất tăng so với
GCN do hành lang đường điện đặt giáp đường N1 liền kề thửa đất của ông
H1. Năm 2006, Nhà nước di dời trạm điện đi nơi khác nên gia đình ông H1 đã
sử dụng toàn bộ phần đất phía trước nhà gióng thẳng ra đường chính N1. Mặt
khác, trước đây đo thủ công nên độ chính xác không cao, do đó diện tích đất
tăng là 85,5m
2
gia đình ông H1 đã sử dụng ổn định, lâu dài, các hộ liền kề không
tranh chấp.
Năm 2006, ông H1 M xây dựng ngôi nhà 3 tầng, lán bán hàng trên
toàn bộ diện tích đất 169,5m
2
. Nguồn tiền xây dựng của ông H1 M.
Ngoài ra anh N2 lúc đó Nhật Bản gửi tiền về xây nhà nên anh N2 công
sức đóng góp vào xây dựng ngôi nhà là ½ giá trị.
Ngày 31/01/2017, Cao Thị M chết không để lại di chúc bằng văn bản
định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Tkhi M chết đến nay ông H1 vẫn
trực tiếp quản lý, sử dụng toàn bộ khối tài sản nêu trên. Năm 2010, ông H1 và bà
M cho anh Tạ Xuân T2 thuê gian bán hàng giáp với phần đất của hộ ông T4,
H4 với giá 5.000.000 đồng/tháng. Tiền thuê nhà bà M là người nhận tiền. Sau
khi M chết, anh T2 giao tiền thuê nhà cho chị H2 02 năm (từ tháng 01/2017
đến tháng 12/2018), tổng số tiền chị H2 nhận 120.000.000 đồng. Tháng
3/2018, ông H1 cho chị Thị T3 thuê toàn bộ diện tích sân phía trước của
ngôi nhà bán hàng quần áo, giá 4.000.000 đồng/tháng, thời hạn là 10 tháng, tổng
tiền thuê 40.000.000 đồng. Số tiền này ông H1 nhận trực tiếp của chị T3.
Ngày 20/12/2018, ông H1, anh T2 chị T3 cùng nhau hợp đồng thuê nhà
mới, thời gian 05 năm, kể t ngày 01/01/2019 đến 01/01/2024, giá thuê
14.000.000 đồng/tháng, kỷ phần của mỗi người là ½, trả tiền một lần sau khi
hợp đồng. Anh T2 đã thanh toán 7.000.000 đồng x 60 tháng thành tổng số tiền là
420.000.000 đồng; chị T3 cũng thanh toán 420.000.000 đồng. Ông H1, anh T2,
3
chị T3 thỏa thuận miệng là: Anh T2 thuê gian bán hàng, còn chị T3 thuê một
gian phòng khách và toàn bộ diện tích sân phía trước của ngôi n để bán hàng.
Tng 6/2019, chH2 dùng xe ô tô n tải đỗ trước cửa nhà, ném mắm m
bẩn o trong n ynh hưởng đến việc kinh doanh của ni th nhà, Công an
phường Đ, thành ph V1 đã phải can thiệp. Mặt khác, do dịch bệnh Covid n đầu
m 2020 chị T3 chấm dứt hợp đồng th nhà. Sau đó ông H1 và chị T3 thỏa
thuận, chị T3 tr cho ông H1 số tiền th nhà t tháng 01/2019 đến tng 4/2020 là
120.000.000 đồng, ông H1 phải tr lại cho chị T3 300.000.000 đồng. Đối với phn
n n hàng anh T2 vn tiếp tục thuê. Khi nào Tòa án giải quyết có kết qu ông H1
anh T2 sẽ chấm dứt hợp đồng thuê nhà. Số tiền thừa thiếu ông H1 anh T2 tự
thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án gii quyết trong vụ án này.
Ông H1 xác định, số tiền cho thuê nông H1 quản 300.000.000
đồng (gồm: 160.000.000 đồng tiền chị T3 trả; 140.000.000 đồng tiền anh T2 trả
tính ttháng 01/2019 đến hết tháng 8/2020). Chị H2 quản số tiền thuê nhà
120.000.000 đồng anh T2 trả từ tháng 01/2017 đến 31/12/2018. Tổng cộng số
tiền thuê nhà 420.000.000 đồng.
- Đối với tiền chi phí mai tang phí cho bà M: Tiền chế độ tử tuất của bà M
được hưởng khoảng 20.000.000 đồng, ông H1 là người nhận, sau đó giao lại cho
chị H2 cùng tiền phúng viếng. Toàn bộ số tiền này chị H2 quản đứng ra
thanh toán, chi psau khi đối trừ thu, chi vẫn còn tiền nhưng ông H1 không
yêu cầu đối với khoản tiền này. Từ khi M chết đến nay ông H1 vẫn trực
tiếp quản lý, sử dụng toàn bộ khối tài sản trên nhưng ông H1 không yêu cầu Tòa
án giải quyết về công bảo quản, duy trì, giữ gìn tài sản.
Tháng 5/2019, ông H1 đã kết hôn với Hoàng ThXuân X, ông H1 có
mua 01 ngôi nhà cấp 4 trên diện tích đất 81m
2
, địa chỉ tại khu A7, thị trấn P1,
huyện P2, tỉnh Phú Thọ đã được cấp GCN mang tên ông H1. Ông H1 có đăng
tạm trú đó nhưng vẫn đi lại cả hai nơi, chủ yếu ông H1 sinh sống V1. Nguồn
tiền mua nhà ở Phú Thọ do ông H1 vay mượn anh em, bạn bè và vay tiền Ngân
hàng. tuổi cao nên Ngân hàng không cho vay, ông H1 phải nhờ anh Tạ Xuân
T2 đứng ra vay giúp dùng tài sản P2 thế chấp để vay tiền. Ông H1 đề nghị
Tòa án phân chia di sản thừa kế của M để lại theo quy định của pháp luật. Kỷ
phần của ông H1 được ½ i sản chung của vợ chồng được ởng 1/3 i sản
của M. Do ông H1 tuổi cao không sức khỏe để xây dựng nhà, hơn nữa tài
sản u trên phần lớn là của ông H1 nên đề nghị được sử dụng toàn bộ nhà đất
có trách nhiệm thanh toán kỷ phần thừa kế cho anh N2, chị H2 theo quy định của
pháp luật. Ngoài tài sản nêu trên, ông H1 và bà M không còn tài sản nào khác.
Bị đơn anh Trần Hoài N2 chị Trần Thanh H2 đều trình bày: Anh N2
chị H2 đều con của ông Trần Văn H1 Cao Thị M. Ny 31/01/2017,
bà M chết không đ lại di chúc bng n bản; còn bmẹ của M cụ Cao Tiến
Đ và cụ Đào Thị H3 (đều đã chết trước M).
Tài sản của ông H1 M tạo dựng được 01 ngôi nhà 3 tầng xây
dựng năm 2006 một quán bán hàng trên diện tích đất 169,5m
2
(diện tích đã
được cấp GCN là 84m
2
) thuộc thửa số A3, tờ bản đ02, vị trí đất tại số nhà A4
4
đường N1, phường Đ, thành phố V1 được cấp GCN ngày 05/10/1994 mang tên
ông Trần n H1 (theo đúng như biên bản xem xét thẩm định tại chỗ mảnh
trích đo địa chính hiện trạng sử dụng đất do Công ty TNHH Đ thực hiện ngày
21/02/2020).
Nguồn gốc đất là do ông H1 M tạo lập, còn tiền xây nhà trong
thời gian làm nhà và sau khi làm nhà xong thiếu tiền nên ông H1 và bà M có làm
thủ tục vay tiền tại Ngân hàng với số tiền 100.000.000 đồng vào năm 2007.
Trong thời gian này anh N2 đi làm tại Nhật Bản nên đã gửi tiền vtại Ngân
hàng Y - Chi nhánh Vĩnh Phúc, do bà Cao Thị M là người rút tiền. Mọi chi tiêu
do bà M đứng ra. Tại buổi hòa giải anh N2 ông H1 thống nhất anh N2 có
đóng góp ½ trị giá ngôi n; còn vphía chH2 trong quá trình xây nhà chị H2
đưa tiền cho M nhưng không viết giấy tờ , vậy chị H2 không căn
cứ để chứng minh công sức đóng góp vào khối tài sản chung của ông H1
M nên không đề nghị gì.
Đối với khoản tiền chi phí chữa bệnh, tiền mai táng, tiền mua đất nghĩa
trang, xây m của M, tổng cộng hết khoảng 400.000.000 đồng. Nguồn thu chỉ
có tiền tử tuất, tiền phong bì phúng viếng của bà M khoảng 100.000.000 đồng. S
tiền này chị H2 người quản toàn bộ đứng ra chi tiêu, thanh toán, khoản
tiền còn thiếu anh N2, chị H2 có trách nhiệm trả, không yêu cầu giải quyết.
Khi M n sống, ông H1 và bà M có cho anh Tạ Xuân T2 thuê phần lán
bán hàng giáp với phần đất của anh chT4, H4, giá thuê ở thời điểm năm 2017
5.000.000 đồng/tháng. ChH2 xác nhận, sau khi M chết, chị H2 nhận tiền
thuê nhà do anh T2 thanh toán 06 tháng đầu năm 2017 là 30.000.000 đồng, ngoài
ra chị H2 không nhận bất ckhoản tiền nào của anh T2. Anh N2 không nhận
khoản tiền thnhà của anh T2. Việc ông H1 trình y, cho anh T2, chị T3 thuê
nhà giá 14.000.000 đồng/tháng không hợp , giá thuê thực tế từ 20.000.000
đồng đến 30.000.000 đồng/tháng, đây giá mà chị H2 tham khảo chứ không
tài liệu o để chứng minh. Anh N2, chị H2 yêu cầu a án phân chia tiền thuê
nhà từ tháng 01/2018 đến nay theo quy định của pháp luật.
Qtrình giải quyết vụ án, do bận công việc anh N2, chị H2 không đến
Tòa án. Hiện nay anh N2 đang công tác tại Viện N Đại học D, thành phố Hồ Chí
Minh, trước đó anh N2 có mua 01 nhà chung cư nhưng do làm ăn thua lỗ đã bán,
anh N2 ý định chuyển công tác về nh Phúc, nên nguyện vọng của anh N2
xin được sử dụng toàn bộ diện tích đất, tài sản gắn liền với đất để làm nơi thờ
cúng, đồng thời trách nhiệm thanh toán chênh lệch về tài sản cho ông H1
chị H2. Chị H2 đồng ý để anh N2 được sử dụng toàn bộ tài sản trách
nhiệm thanh toán chênh lệch về tài sản cho ông H1, chị H2.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Đại diện UBND phường Đ trình bày: Căn cứ Bản đồ 299 được hoàn thiện
năm 1987, thể hiện: Tại bản đồ số 02 (nay s18), thửa số A3 diện tích
84m
2
(diện tích tăng n so GCN là 85,5m
2
), địa chỉ: Số nhà A4, đường N1,
phường Đ, thành phố V1 được UBND thị xã V1 (nay là thành phố V1) cấp GCN
5
số vào sổ cấp GCN số: 00469/QSDĐ ngày 05/10/1994 đứng tên ông Trần Văn
H1.
Nguồn gốc đối với diện tích tăng hơn so với diện tích đã được cấp GCN
là: Phía giáp hộ ông T4, H4 chưa nằm trong giấy chứng nhận phần diện
tích đất còn lại sau khi quy hoạch khu dân dệt thảm cũ, còn diện tích tăng
phía trước ngôi nhà ông H1, trước đây hành lang đường điện, đặt giáp đường
N1, năm 2006 sau khi nhà nước di dời đi nơi khác thì các hộ liền kđã sử dụng
phần đất phía trước nhà từ năm đó cho đến nay.
Gia đình ông H1 đã xây dựng một phần của ngôi nhà 3 tầng, sân lán
bán hàng trên phần diện tích đất chưa được cấp GCN, đất này ông H1 đã quản
lý, sdụng ổn định, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới ràng, không ai
tranh chấp gì, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời. Vị trí diện tích đất
tăng chưa được cấp GCN tiếp giáp toàn bộ phía trước ngôi nhà của ông H1
giáp đường N1. Lối đi hiện tại của nhà ông H1 là đường N1. H ông H1 đang sử
dụng diện tích đất tăng ổn định, không thuộc diện quy hoạch di dời, không tranh
chấp. UBND phường Đ đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật.
Anh Tạ Xuân T2 trình bày: Anh T2 xác nhận lời trình bày của ông H1
đúng. Từ năm 2009 - 2010, anh T2 thuê gian bán hàng của ông H1 M,
phía giáp với phần đất của gia đình ông T4, H4; giá th 5.000.000
đồng/tháng; hình thức thanh toán 06 tháng trả một lần, M người nhận tiền
trực tiếp.
Tháng 01/2017, M chết. Sau khi M chết, anh T2 giao tiền cho chị
H2 nhận 02 năm (năm 2017 2018) 120.000.000 đồng, khi giao tiền
nhận nhưng do lâu ngày anh T2 đã để thất lạc mất. Ngày 20/12/2018, anh T2,
chị T3 ông H1 hợp đồng thuê nhà mới, nội dung như ông H1 trình bày.
Anh T2 thuê lán bán hàng, ch T3 thuê khuôn viên sân phía trước và phòng
khách ngôi nhà, k phần mỗi người phải trả 7.000.000 đồng/tháng, thời gian
thuê 05 năm, thanh toán một lần sau khi ký hợp đồng. Anh T2 đã thanh toán cho
ông H1 05 năm 420.000.000 đồng. Tháng 6/2019 chị H2 đã dùng xe ô bán
tải đỗ trước lán bán hàng và trước cửa nhà ông H1, cản trở đến việc kinh doanh
của anh T2 chị T3. Anh T2 đơn trình cáo đến Công an phường Đ, thành
phố V1 đến giải quyết. Hiện tại chị T3 đã chấm dứt việc thuê nhà, n anh T2
vẫn đang thuê lán bán hàng, trường hợp Tòa án tuyên ông H1 không được s
dụng phần đất lán bán hàng thì anh T2 sẽ chấm dứt hợp đồng thuê nhà với
ông H1. Số tiền thừa thì anh T2 ông H1 tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án
giải quyết trong vụ án này. Do anh T2 bận công việc nên xin vắng mặt trong tất
cả các buổi làm việc và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
Tại Bản án n sự sơ thẩm số: 08/2020/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020
của Tòa án nhân dân thành phố V1 đã quyết định: Áp dụng các Điều 213, Điều
612, Điều 613, Điều 614, Điều 623, Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 660,
Điều 357 khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 33 luật Hôn nhân và gia
đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
6
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật của ông
Trần Văn H1.
- Chia cho ông Trần Văn H1 được quyền shữu s tiền cho th nhà
300.000.000 đồng ng H1 đang quản lý) 01 lán bán ng tr giá
21.064.000 đồng, m trên diện ch đất được quản , sdụng 62,6m
2
trị g
1.899.600.000 đồng (trong đó 24,2m
2
đt đã được cấp GCN trị g
1.016.400.000 đồng 38,4m
2
đất chưa được cấp GCN trị g 883.200.000
đồng); diện tích đất thuộc thửa số A3, tờ bản đồ 02, vị trí tại số nhà A4 đường
N1 phường Đ, thành phố V1 được UBND thị V1 (nay thành phố V1) cấp
GCN vào sổ cấp giấy chứng nhận số 00469/QSDĐ ngày 05/10/1994 mang tên
ông Trần Văn H1. Tng trị giá: 2.220.664.000 đồng.
- Diện tích đất 38,4m
2
chưa được cấp GCN, ông Trần Văn H1 trách
nhiệm liên hệ với quan Nhà ớc thẩm quyền đề ngh cấp GCN sau khi
đã thực hiện nga vụ thuế đối với N nước.
- Chia cho anh Trần Hoài N2 được quyền sở hữu 01 nhà 3 tầng, sân tường
bao loan trg612.101.000 đồng, m trên diện tích đất được quyền quản lý, sử
dụng 106,9m
2
trg3.594.900.000 đồng (trong đó 59,8m
2
đất đã được cấp
GCN trị giá 2.511.600.000 đồng 47,1m
2
đất chưa được cấp GCN tr giá
1.083.300.000 đồng); diện tích đất thuộc thửa số A3, tờ bản đồ 02, vị t tại số n
A4 đường N1 phường Đ, thành phố V1, tỉnh Vĩnh Phúc, được UBND thị V1
(nay thành phố V1) cấp GCN o scấp giấy chứng nhận số 00469/QSDĐ
ngày 05/10/1994 mang tên ông Trần Văn H1. Tổng trị giá: 4.207.001.000 đồng.
- Diện tích đất 47,1m
2
chưa được cấp GCN anh Trần Hoài N2 trách
nhiệm liên hệ với quan Nhà c thm quyền đ ngh cấp GCN sau khi
đã thực hiện nga vụ thuế đối với N nước.
- Chia cho chị H2 đưc quyền sở hu s tiền cho thuê nhà 30.000.000
đồng tiền chị H2 đang quản lý.
- Buộc anh Trần Hi N2 có trách nhiệm thanh toán cnh lệch về i sản
cho ông Trn n H1 số tiền 1.880.412.000 đồng; thanh toán cho chTrn Thanh
H2 stin 995.269.000 đồng.
Sau khi xét xử ngày 08/9/2020 ông Trần Văn H1 kháng cáo không nhất trí
với quyết định của bản án sơ thẩm.
Ngày 14/9/2020 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân n thành ph V1 kháng
nghđề nghsửa bn án sơ thẩm theo hướng giao toàn b i sản cho ông H1.
Tại Bản án Dân sự phúc thẩm số 25/2021/DS-PT ngày 22/6/2021 của Tòa
án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định: Căn cứ các Điều 213, Điều 612, Điều
613, Điều 614, Điều 623, Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 660, Điều 357
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều 33 luật Hôn nhân gia đình; Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí lệ phí
Tòa án. Xử:
7
1. Chia cho ông Trần Văn H1 được quyền sở hữu stiền cho thuê nhà
300.000.000 đồng (ông H1 đang quản lý); 01 lán bán hàng trị giá 21.064.000
đồng, 01 nhà 3 tầng, sân tường bao loan trị g612.101.000 đồng, diện tích đất
là 169,5m
2
(Trong đó 84m
2
đất đã được cấp GCN mang tên ông Trần Văn H1 trị
giá 3.528.000.000 đồng; 85,5m
2
chưa được cấp GCN sau khi trừ nghĩa vụ tài
chính đối với Nhà nước trị giá 1.966.500.000 đồng). Tổng trị giá tài sản:
6.121.614.500 đồng.
Diện tích đất 85,5m
2
chưa được cấp GCN ông Trần Văn H1 trách
nhiệm liên hệ với quan Nhà ớc thẩm quyền đ đnghị cấp GCN sau
khi đã thực hiện nga vụ thuế đối với Nhà nước.
2. Chia cho chị H2 được quyền sở hữu số tiền cho thuê nhà 30.000.000
đồng tiền chị H2 đang quản lý.
3. Buộc ông H1 trách nhim thanh toán chênh lệch về i sản cho anh
Trần Hoài N2 số tiền 1.331.319.583 đồng, thanh toán cho chTrần Thanh H2 s
tiền 995.269.083 đồng.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 103/2021/DS-T ngày 27/12/2021 của
Tòa án nhân n cấp cao tại Nội đã quyết định: Hủy toàn bộ Bản án dân sự
phúc thẩm số 25/2021/DS-PT ny 22/6/2021 của Tòa án nn dân tỉnh Vĩnh Phúc
về vụ án Tranh chấp thừa kế tài sản” gia nguyên đơn là ông Trn Văn H1 với bị
đơn anh Trần Hi N2, chTrần ThThanh H2 những ngưi có quyn lợi,
nga v liên quan khác. Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúct
xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Khi giải quyết phúc thẩm lại c đương sự vẫn ginguyên yêu cầu như
trong q trình giải quyết vụ án. Ông Trần Văn H1 có đơn đề nghđịnh giá lại tài
sản là quyn sử dụng tha đất diện tích đất đang tranh chấp. Tại Biên bản định giá
i sn ny 28/7/2023 của Hội đồng Định giá tài sản tnh phố V1 đã xác định giá
trquyn sử dụng đất 50.000.000 đồng/01m
2
giá trngôi nhà 03 tầng lợp tôn
xây dựng năm 2006 150.000.000 đồng; c i sản còn lại bao gồm: n phía
trước làm năm 2006,y tường bao loan, phía trên lợp máin và lánnng lợp
n tờng làm năm 2006 do hết khấu hao n Hội đồng không đnh g.
Ni đại din theo ủy quyn của ông H1 có quan điểm đối với nhng i
sản Hội đồng định giá xác định hết khu hao, không định giá đề nghị n cvào
kết quđịnh g ny 21/02/2020 để giải quyết vì các tài sản này hiện nay vẫn s
dụng được.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309
Bộ luật Tố tụng dân sự chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trần Văn H1,
chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V1, sửa
Bản án thẩm số: 08/2020/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân
dân thành phố V1, tỉnh Vĩnh Phúc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
8
Sau khi nghiên cu các i liu có trong h vụ án, được thẩm tra tại phiên
t căn cứ vào kết qu tranh lun ti phiên toà, Hi đồng xét x nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Tòa án cấp thẩm đã đưa UBND phường Đ, thành phố V1 vào tham
gia tố tụng với cách là người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, xét
thấy UBND phường Đ, thành phố V1 chỉ là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
tại địa phương, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật
không liên quan gì đến việc Tòa án giải quyết tranh chấp giữa gia đình ông Trần
Văn H1 với chị Trần Thanh H2 anh Trần Hoài N2. Do vậy Tòa án cấp phúc
thẩm không xác định và đưa UBND phường Đ, thành phố V1 vào tham gia tố
tụng với tư cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp quy định
của pháp luật.
- Tại phiên tòa, anh Tạ Xuân T2 vắng mặt nhưng đã đơn xin xét x
vắng mặt, còn chị Trần Thanh H2 vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù
Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ niêm yết giấy triệu tập. Anh Trần Hoài
N2 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt, anh N2
đã đơn đề nghị xét xử vắng mặt trình bày quan điểm của mình, vì vậy căn
cứ khoản 2 và 3 Điều 296 Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự trên.
[2] Về nội dung: Trên sở các tài liệu trong hồ nhận thấy bà Cao
Th M với ông Trần Văn H1 kết n với nhau m 1980 có 2 con chung là
anh Trần Hi N2 ch Trần Thanh H2. Bố mẹ bà M là c cụ Cao Tiến Đ
và cụ Đào Thị H3 (đều chết trước bà M).
Quá trình chung sống ông H1, M đã tạo lập được các tài sản gồm: 01
ni nhà 3 tầng, sânờng bao quanh; một lán bán hàng xây dựng năm 2006; diện
tích được cấp GCN mang tên ông Trần Văn H184m
2
; còn lại diện tích 85,5m
2
chưa được cấp GCN. Ngoài ra ông H1, M n tiền cho thuê nhà trên diện
tích đất ông sử dụng. Quá trình giải quyết vụ án thì ông Trần Văn H1
nguyên đơn và anh Trần Hoài N2 bị đơn đều đề nghđược sử dụng toàn bộ
tài sản, thanh toán cho người được hưởng di sản bằng tiền.
Tòa án cấp thẩm đã xem xét, đánh giá chứng cứ xác định đối với ngôi
nhà 3 tầng, sân tường bao loan ½ giá trị tài sản của anh N2 do quá trình
làm nhà anh N2 gửi tiền về cho ông H1, M làm nhà. Đồng thời xác định
do ông H1 đã kết hôn sinh sống ở nơi khác, anh N2 là con trai phải thờ cúng cha
mẹ nên đã quyết định chia cho ông H1 giá trị tiền thuê n300.000.000 đồng,
01 lán bán hàng trị giá 21.064.000 đồng, làm trên diện tích đất được quản lý, sử
dụng 62,6m
2
trị giá 1.899.600.000 đồng (trong đó 24,2m
2
đất đã được cấp GCN
trị g 1.016.400.000 đồng 38,4m
2
đất chưa được cấp GCN trị giá
883.200.000 đồng); Tổng trị giá: 2.220.664.000 đồng.
Chia cho anh Trần Hoài N2 được quyền sở hữu 01 nhà 3 tầng, sân tường
bao loan trị giá 612.101.000 đồng, làm trên diện tích đất được quyền quản lý, sử
9
dụng là 106,9m
2
trị giá 3.594.900.000 đồng (trong đó có 59,8m
2
đất đã được cấp
GCN trị giá 2.511.600.000 đồng 47,1m
2
đất chưa được cấp GCN trị giá
1.083.300.000 đồng) Tổng trị giá: 4.207.001.000 đồng.
Chia cho chị H2 30.000.000 đồng trị giá tiền thnhà.
Buộc anh Trần Hoài N2 trách nhiệm thanh tn cnh lệch vềi sản cho
ông Trần n H1 số tiền 1.880.412.000 đồng; thanh tn cho chị Trn Thanh H2
số tiền 995.269.000 đồng.
Do đó ông H1 kng cáo xin s dụng tn bộ nhà đất. Viện kiểm sát nhân
n thành phố V1 kháng ngh đnghsửa Bản án thẩm về việc xác định di sản
tha kế việc chia di sn tha kế.
[3]. Xét kng o của ông Trần n H1 kng nghị của Vin kim t
nhân n thành phV1; Hội đồng xét xử thấy rằng:
Nguồn gốc tài sản công sc đóng góp chủ yếu do ông Trn Văn H1
Cao ThM tạo lập trong thời kỳ n nhân. Vnguyên tắc tài sản chung vợ chồng
được chia đôi n ông H1 đương nhn được sử dụng, sở hữu ½ giá trị tài sản; n
lại ½ giá trị tài sản chung di sản thừa kế của M.
c tài liệu có trong h ván thể hiện tớc khi chết Cao Thị M kng
để li di chúc định đoạt phần tài sản trong số i sản chung với ông H1. Do vậy toàn
bộ di sản do Cao ThM để lại được phân chia theo quy định của pháp luật
ng thừa kế thứ nhất của M bao gồm ông Trần Văn H1 (chồng bà M) anh
Trần Hi N2, chTrần Thanh H2 ( c con của M).
Q tnh giải quyết vụ án cấp phúc thẩm các đương sự bao gồm ông H1
(nguyên đơn) chH2, anh N2 (bị đơn) đều đề nghđưc quản lý, sử dụng
toàn btài sản thanh tn giá tri sản cho phía n kia bằng tiền. do ông
H1 đề nghị sử dụng toàn bộ tài sản: Theo ông H1 thì trong số tài sn đưa ra phân
chia thì ông được hưởng phần lớn, hiện nay ông đã n nhà Phú Thọ đang
sinh sống tại V1; còn anh N2, ch H2 hin nay đều đã xây dựng gia đình nhà
riêng, anh N2 hiện đang làm việc sinh sng ở thành phố Hồ Chí Minh, chị H2
V1 hiện làm việc tại một doanh nghip đã có nhà đất riêng, không trong tình trng
cp thiết về nhà ở. Do đó ông H1 có nguyện vọng được sử dụng toàn bộ tài sản để
sinh sống, thanh toán cho anh N2, chị H2 bằng tiền. do anh N2, chH2 đề nghị
sử dụng tn bi sản đó ; mc anh N2 đã có gia đình rng, sinh sống làm
việc tại thành phHồ C Minh nhưng hin nay đã bán n thành phHồ Chí
Minh, không có i hiện phải đi th nhà muốn có n đất V1 để sau y v
V1 sinh sống, m nơi thờ cúng bố, mẹ. Xét thấy c ông H1 (nguyên đơn) anh
N2 (bị đơn) hiện nay đều có nhu cầu về nơi đu đề nghđược chiai sản bng
hiện vật là cnh đáng, phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để có cơ s
chia tài sản bằng hiện vật cho cả ông H1 và anh N2 thì phải xem t vị trí, số diện
ch đất được phân chia cũng n vị trí các công tnh trên đất được phân chia
n c quyết định. Căn cứ vào phiếu xác nhn kết quđo đạc hin trạng thửa đất
10
do ng ty TNHH Đ thc hin ngày 21/12/2020 thì tổng diện tích đất pn chia là
169,5m
2
; tha đất phía bắc giáp đường N1 sđo 10,05m; phía nam giáp
nh thoát ớc số đo 11,44m; phía đông giáp hVũ ThH4 có số đo là
14,24m; phía y giáp hộ ông Nguyn Thành V sđo là 19,4m. n cứ o số
diện tích, số đo của các cạnh thửa đất và vị tcác công trình trên thửa đất Hội đồng
t xử phúc thẩm thấy có n cứ chia tài sản chung, chia thừa kế cho cả ông H1
(nguyên đơn) anh N2 (bđơn) phù hợp. Do vậy yêu cầu đưc chia i sản
bằng hiện vật là quyn sử dụng đt của công H1 anh N2 được chấp nhn.
Về tài sản phân chia; Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong tổng số 169,5m
2
đất
đo đạc thc tế (trong đó 84m
2
đất đã được nhà nước cấp GCN, còn lại 85,5m
2
đất ca được cấp GCN). Kết quả xác minh tại UBND phường Đ (nơi có diện tích
đất tranh chấp), Phòng Tài nguyên, Môi trường thành phố V1, Chi cục thuế Nhà
nước thành phố V1 UBND thành phố V1 cung cấp xác định gia đình ông H1
đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên một phần diện tích đất chưa
được cấp GCN; diện tích đất này hộ ông H1 đã quản lý, sử dụng ổn định nhiều
năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới ràng, không tranh chấp,
không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vtrí đất tăng nằm tiếp giáp với phía
trước ngôi nhà lán bán hàng của hộ ông H1, giáp đường N1, đất thuộc diện
được cấp GCN sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tiền thuế 19.000.000
đồng/m
2
. Mặt khác quá trình giải quyết vụ án, các đương sự cũng nhất trí tính giá
trị phần đất 85,5m
2
chưa được cấp GCN để phân chia; khi định giá Hội đồng định
giá cũng xác định giá trị diện tích đất chưa được cấp GCN là khi thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ thuế đối với nhà nước thì có giá trị như đất đã được nhà nước cấp GCN.
Do cần xác định diện tích đất 85,5m
2
chưa được cấp GCN i sản chung để
phân chia phù hợp đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Căn cứ vào kết quả định gcủa Hội đồng định giá tài sản ngày 28/7/2023
(định giá lần hai) xác định: Giá trị quyền sử dụng diện tích 84m
2
đã được nhà
nước cấp GCN 50.000.000 đồng/01m
2
, giá trngôi nhà 03 tầng xây dựng năm
2006 150.000.000 đồng; các tài sản khác không định giá do hết khấu hao. Các
đương sự có quan điểm tài sản này vẫn sử dụng được nên đề nghị lấy kết quả định
giá ngày 21 tháng 02m 2020 làmn cứ giải quyết nên được chấp nhận. Cụ th
là: Sân phía trước làm năm 2006, xây tường 20cm bao loan, phía trên lợp tôn lạnh
diện tích sử dụng 33,6m
2
trị giá 32.017.000 đồng; lán bán hàng lợp tôn
thường làm năm 2006, diện tích 62,6m trị giá21.064.000 đồng.
Tại phiên tòa cả nguyên đơn (ông H1, người được ông H1 ủy quyền) bị
đơn (chH2) cho rằng với c i sản trên đất ngôi n03 tầng, lán n hàng,
sân phía trước ngôi nhà vẫn đồng ý lấy giá trnhư định giá, không thay đổi (cụ
thể: ngôi n03 tầng giá trị 150.000.000 đồng; sân gạch phía trước ngôi nhà giá
trị 32.017.000 đồng; n n hàng lợp n giá trị 21.064.000 đồng); còn giá trị
quyền sử dụng đất do thời gian định giá đã lâu, kết quả định giá không phù hợp
với giá trị trường hiện nay, các đương sự thống nhất giá trị quyền sử dụng đất đối
với phần diện tích 84m
2
đã được nhà nước cấp GCN trị giá 100.000.000
11
đồng/01m
2
, còn giá trquyền sử dụng đối với phần diện tích 85,5m
2
chưa được
nhà nước cấp GCN 74.000.000 đồng/01m
2
. (vì nghĩa vnộp thuế hiện nay đối
với phần đất chưa được nhàớc cấp GCN là 26.000.000 đồng/01m
2
).c đương
sự đề nghị lấy giá trị thỏa thuận như trên để phân chiacũng đều có yêu cầu sử
dụng bằng hiện vật, thanh toán chênh lệch bằng tiền cho đương sự khác. Xét thấy
sự thỏa thuận về giá trị của các đương sự phù hợp, tự nguyện không trái quy
định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận giá trị quyền sử dụng đất (diện
tích đất được nhà nước cấp GCN diện tích đất chưa được nhà nước cấp GCN)
các đương sự đã thỏa thuận để phân chia là phù hợp.
Theo cung cấp của UBND thành phV1 thì diện ch 85,5m
2
nhà nước sẽ
cấp GCN cho người quản lý, sử dụng với điều kiện người quản lý, sử dụng phải
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với nhà ớc. Gia đình ông Trần n H1
người quản lý, sử dụng ổn định nhiều m nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc
giới rõ ràng, không có tranh chấp, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dờin
đủ điều kiện để được cấp GCN đối với diện tích 85,5m
2
đất này. Gia đình ông
Trần n H1 có 04 thành viên gồm: Ông H1, M (vợ ông H1 đã chết m
2017); chH2, anh N2 (là các con của ông H1), tuy nhiên tại thời điểm này thì
M đã chết, chỉ n ông H1, chH2, anh N2 là người sử dụng đất nên mới có điều
kiện thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước để được nhàớc công nhận quyền
sử dụng diện tích 85,5m
2
đất nàynnước không thể công nhận quyền sử dụng
đất cho người đã chết. Do vậy, giá trị 85,5m
2
đất chưa được cấp GCN của ông
H1, chị H2 và anh N2 mỗi người được hưởng 28,5m
2
(85,5/3)
Như vy tài sản chung của ông H1 bà M bao gồm: Tiền thuê nhà
330.000.000 đồng. (trong đó ông H1 quản lý 300.000.000 đồng, ch H2 quản
30.000.000 đồng); giá tr1/2 giá trị ni nhà 3 tầng là 75.000.000 đồng; một
lán bán hàng xây dựng năm 2006 trị giá 21.064.000 đồng; sân, tường bao loan
phía trên lợp tôn lạnh trgiá 32.017.000 đồng; giá trị diện tích được cấp GCN
mang tên ông Trần Văn H1 84m
2
trị giá 8.400.000.000 đồng. Tổng trị giá tài
sản: 8.858.081.000 đồng.
i sản nêu tn được hình tnh trong thời kn nn ca ông Trần
n H1 bà Cao Thị M nên mỗi người ½ giá trị, tài sản ơng đương với
số tiền là 4.429.040.000 đồng, (8.858.081.000 đồng/2).
ng thừa kế tài sản của bà M gm: Bố, mẹ đẻ, chồng và con ca bà
M. Tuy nhiên, do bmẹ M đã chết trước bà M nên kng đưc hưởng tha
kế tài sản của M. Phần di sản thừa kế của bà M được chia cho chồng M
ng H1) và hai con của M (chH2 anh N2) theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân s. Cụ thể chia cho ông H1, chị H2 và anh N2
mỗi người được hưởng 1/3 di sản thừa kế ca bà M đ lại là 1.476.346.000
đồng (4.429.040.000 đồng/3).
Đối với giá trị quyền sdụng 85,5m
2
chưa được cấp GCN được xác định
74.000.000 đồng/01m
2
nên tổng trị giá 6.327.000.000 đồng phần của
12
ông H1, anh N2 chị H2 nên mỗi người được hưởng 2.109.000.000 đồng,
(85,5m
2
x 74.000.000 đồng/01m
2
=6.327.000.000 đồng/3).
Do vậy tổng giá tr tài sản ông H1 được hưởng 8.014.386.000 đồng
(gm: 4.429.040.000 đồng là phần tài sản ca ông H1 với M +
1.476.346.000 đồng phần được hưởng thừa kế của bà M + 2.109.000.000
đồng là g trdiện tích đất chưa được cấp GCN. Tổng giá trtài sản anh Trần
Hoài N2 và chị Trần Thanh H2 mỗi nời được hưởng 3.585.346.000 đồng
(gm 2.109.000.000 đồng giá trquyền sdụng din ch đất chưa được cấp
GCN và 1.476.346.000 đồng là phần được hưởng tha kế ca M).
Về chia tài sản bằng hiện vật thy rằng: n cứ o phiếu c nhận kết
quả đo đạc hiện trạng tha đất do Công ty TNHH Đ thc hin ngày 21/12/2020 thì
tổng din ch đất phân chia 169,5m
2
; thửa đất có phía bắc giáp đường N1; phía
nam gp nh tht nước; phía đông giáp h Thị H4; pa y gp hộ ông
Nguyễn Thành V đủ điều kiện chia bằng hiện vật quyền sử dụng đất, m
theo công trình tn đất cho ông H1 anh N2. Do vậy yêu cu được chia tài sản
bằng hin vật là quyền sử dụng đất của cả ông H1 anh N2 được chp nhận. Do
phần lớn tài sản ca vợ chồng ông H1, M tạo lập được và ngôi nhà tài sản
chung của ông H1, M; còn anh N2 và chị H2 chỉ đưc hưởng di sản do M đ
lại và phần đất ca được cấp GCN của chung n khi chiai sản bằng hin vật
n giao cho ông H1 sử dụng phn diện tích ngôi nhà 03 tầng, giao cho anh N2
được s dụng phần diện tích đt còn lại có lán bán hàng buộc thanh tn cho ch
H2 là phù hp.
Cụ thtrên số đo và đcụ thể thấy rng:
- Phần din tích đất giao cho ông H1 diện ch 106,9m
2
(trong đó
59,8m
2
đã được n ớc cấp GCN giá 5.980.000.000 đồng và 47,1m
2
ca
được nhà ớc cấp GCN có giá 3.485.400.000 đồng), trên đất có ngôi nhà 03
tầng đưc định trị giá 150.000.000 đồng; diện tích n trước nhà có ng y bao
loan lợp tôn lạnh được định giá 32.017.000 đồng 300.000.000 đồng tin th
nhà hiện do ông H1 đang quản lý, sử dụng. Do vậy tổng g trị tài sn giao cho ông
H1 stiền do ông H1 đang quản trgiá 9.947.017.000 đồng vượt quá
phần ông H1 được ng. (Tng g trị tài sản ông H1 được hưởng là
8.014.386.000 đồng bao gồm: 4.429.040.000 đồng phần tài sn của ông H1
với M + 1.476.346.000 đồng là phần được hưởng tha kế của M +
2.109.000.000 đồng là giá tr diện tích đất chưa được cấp GCN. Do vậy cần
buộc ông H1 có nghĩa vụ tr cho anh N2 75.000.000 đồng (g trị ½ ngôi nhà);
thanh toán cho chH2 stiền ợt quá phần được ởng p hợp.
- Phn đất giao cho anh N2 quản , sử dụng có din tích 62,6m
2
(trong
đó 24,2m
2
đã được nhà nước cấp GCN trgiá 2.420.000.000đ và 38,4m
2
diện ch chưa đưc nhà c cấp GCN g theo thỏa thuận 2.841.600.000
đồng); trên đất có lán bán ng lợp tôn định giá 21.064.000 đồng. Do vậy tổng giá
trị tài sản giao cho anh N2 trg 5.282.664.000 đồng ợt quá phần anh
N2 được ởng (anh N2 được hưởng 3.585.346.000 đồng bao gồm
2.109.000.000 đồng giá trị quyền s dụng diện ch đất chưa được cấp GCN
13
1.476.346.000 đồng là phần được hưởng thừa kế của bà M). Do đó cần
buộc anh N2 thanh tn số tiền vượt qphn được hưởng cho chị H2 là p
hợp.
Đối với diện ch 24,2m
2
đất đã được nhà nước cấp GCN giao cho anh
Trần Hoài N2 mặc dù chưa đ 30m
2
theo quy định của UBND tỉnh nh Phúc
để được cấp GCN. Nếu lấy đ30m
2
đất đã được nhà ớc cấp GCN trong số
84m
2
đất được nhà nước cấp GCN của gia đình ông H1 giao cho anh N2 thì
lấn vào v t ngôi n 3 tầng giao cho ông H1, gây k khăn cho vic s
dụng chung. Tuy nhiên trong v án y, ngoài diện tích 24,2m
2
đất đã được
cấp GCN giao cho anh N2 t anh N2 n được giao diện tích 38,4m
2
đất
chưa được nhà nước cấp GCN, do tích đt này gia đình s dụng n định,
không tranh chấp, p hợp quy hoch, đ điều kiện đ được cấp GCN nên
tổng diện tích giao cho anh N2 62,6m
2
nên không trái quy định của UBND
tỉnh Vĩnh Phúc về việc cấp GCN.
- Chia cho ch H2 được sở hữu s tiền thuê nhà chị H2 đã nhận
30.000.000 đồng số tiền ông H1 có nga vụ thanh toán là 1.857.631.000 đồng;
số tiền anh N2 có nga vụ thanh toán 1.697.318.000 đồng.
[3] Ý kiến của Viện kim sát nn dân tỉnh Vĩnh Phúc tại phiên a
được chấp nhn một phần.
[4] Về án phí dân sự chia thẩm: Ông H1 người cao tuổi n được miễn
án phí; anh N2 và chị H2 mỗi người được hưởng phần di sản thừa kế của M để
lại giá trị tài sản được hưởng có tổng trị giá là 3.585.346.000 đồng.
Do vậy s tiền án phí anh N2 và ch H2 mỗi nời phải chịu được tính
là 103.706.000 đồng (m tròn), (72.000.000 đồng + (02% vượt quá 2 t).
[5] Ván p dân sự pc thẩm: Ông H1 kng phải chịu án phí dân
sự pc thm.
[6]. Về chi p t tụng: Ông Trần Văn H1 tnguyện nộp tn b
khôngu cầu nên Hội đồngt xkhông đặt ra đ xem xét giải quyết
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Chấp nhận một phần
kháng cáo của ông Trần Văn H1 và một phần kháng nghị của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố V1; sửa Bản án Dân sthẩm số 08/2020/DS-ST ngày 28
tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố V1.
Căn c các Điều 213, 612, 613, 614, 623, 649, 650, 651, 660, 357
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 33 luật Hôn nhân gia đình; Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí
Tòa án.
1. Chia cho ông Trần Văn H1 được quyền sở hữu s tiền cho thuê nhà
300.000.000 đồng ng H1 đang quản lý); 01 nhà 03 tng trị giá
14
150.000.000 đồng trên diện tích đất 106,9m
2
(Trong đó 59,8m
2
đất đã được cấp
GCN mang tên ông Trần Văn H1 trị giá 5.980.000.000 đồng 47,1m
2
đất ca
được cấp GCN có trị giá theo thỏa thuận là 3.485.400.000 đồng); phần sân, ờng
bao loan trị giá 32.017.000 đồng. Tổng tr giá tài sản ông Trần Văn H1 được
hưởng là 9.947.017.000 đồng.
Đối với diện tích đất 47,1m
2
chưa được cấp GCN ông Trần Văn H1
trách nhiệm liên hệ với quan Nhà nước có thẩm quyền để đ nghcp GCN
sau khi đã thực hiện nga vụ thuế đối với Nhà nước.
(Cụ thể thửa đất tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất giao cho ông
Trần Văn H1 được giới hạn các mốc giới 01-02-03-04-B-09-01 theo mảnh trích
đo địa chính hiện trạng sử dụng đất do Công ty TNHH Đ thực hiện ngày
21/02/2020).
2. Chia cho anh Trn Hoài N2 được quyền s hữu 01 n bán hàng
trị giá 21.064.00 sdụng diện tích 62,6 m
2
đất (Trong đó 24,2m
2
được
cấp GCN tr giá là 2.420.000.000 đồng và 38,4m
2
đt chưa được cấp GCN
trgiá theo thỏa thuận là 2.841.600.000 đồng). Tổng giá trị tài sản anh Trần
Hoài N2 được hưởng là 5.282.664.000 đồng.
Đối vi diện ch đất 38,4m
2
chưa được cấp GCN anh Trần Hoài N2
trách nhiệm liên hệ với quan Nhà nước có thẩm quyền để đnghị cấp GCN
sau khi đã thực hiện nga vụ thuế đối với Nhà nước.
(Cụ thể thửa đất tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất giao cho anh
Trần Hoài N2 được giới hạn các mốc giới 04-05-07-08-09-B-04 theo mảnh trích
đo địa chính hiện trạng sử dụng đất do Công ty TNHH Đ thực hiện ngày
21/02/2020).
3. Buộc ông Trần Văn H1 có trách nhiệm thanh toán chênh lệch về tài sản
cho chị Trn Thanh H2 1.857.631.000 đồng; buộc anh Trn Hi N2 có nghĩa v
thanh toán cho chTrần Thanh H2 stiền 1.697.318.000 đồng.
4. Buộc ông Trần Văn H1 nga vụ trả cho anh Trần Hoài N2 stiền
75.000.000 đồng (giá tr½ căn nhà).
5. Chia cho chị Trần Thanh H2 được quyền sử hữu số tiền cho thuê n
30.000.000 đồng do chị H2 đang quản lý. Chị Trần Thanh H2 được nhận số tiền
thanh toán chênh lệch về tài sản của ông H1 1.857.631.000 đồng số tiền
thanh toán chênh lệch về tài sản của anh N2 1.697.318.000 đồng. Do vậy,
tổng số tiền chị Trần Thanh H2 được hưởng là 3.585.000.000 đồng (làm tròn).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, số tiền nêu
trên người phải thi hành án không trả được, thì các bên quyền thỏa thuận lãi
suất chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự. Nếu các bên không
thỏa thuận được thì người phải thi hành án phải chịu lãi suất chậm trả theo quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
15
Về án phí dân sự phúc thẩm án phí dân sự chia tài sản: Ông Trần Văn
H1 không phải chịu;
Án phí dân sự chia tài sản: Anh Trần Hoài N2 Chị Trần Thanh H2 mỗi
người phải chịu 103.706.000 đồng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thothuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND thành phố V1;
- Chi cục THADS thành phố V1;
- Các đương sự;
- Lưu HS, Tòa DS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(đã ký)
Nguyễn Duy Sơn
16
Tải về
Bản án số 88/2024/DS-PT Bản án số 88/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 88/2024/DS-PT Bản án số 88/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất