Bản án số 81/2017/HNGĐ-PT ngày 03/08/2017 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 81/2017/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 81/2017/HNGĐ-PT ngày 03/08/2017 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp ly hôn
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội
Số hiệu: 81/2017/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/08/2017
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Anh H xin ly hôn chị Y
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 81/2017/HNGĐ-PT NGÀY 03/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03/08/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 78/2017/TLPT-HNGĐ ngày 5/7/2017 về việc “Tranh chấp ly hôn”. Do bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 21/2017/HNGĐ-ST ngày 17/05/2017 của Tòa án nhân dân  quận Đ bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 214/2017/QĐ-PT ngày 24/7/2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đinh Văn H, sinh năm 1966; (có mặt)

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Bích Y, sinh năm 1968; (có mặt)

Đều trú tại: Ngõ Đ, phố K, phường T,  quận Đ, Hà Nội.

Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Bích Y là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/11/2016 và quá trình xét xử, nguyên đơn anh Đinh Văn H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Bích Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 10/01/1997 tại UBND phường T, quận Đ, Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại Ngõ Đ, phố K, quận Đ, Hà Nội cho đến nay. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2000 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn, do chị  Y thường xuyên cờ bạc dẫn đến nợ nần, anh phải trả nợ cho chị  Y rất nhiều lần, thậm chí chủ nợ đến tận nhà anh chị đòi nợ, đe dọa, chửi bới gia đình anh, khiến bố đẻ anh và các con anh chị rất bức xúc. Anh và gia đình hai bên đã nhiều lần khuyện giải nhưng chị  Y không thay đổi. Chị  Y vẫn ham mê bài bạc, không chu toàn chăm sóc gia đình, khiến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Anh và chị  Y mất niềm tin với nhau, anh chị đánh nhau, xúc phạm lẫn nhau trước mặt các con, ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của cả hai con và bố đẻ anh. Năm 2015, anh và chị  Y đã từng có yêu cầu Tòa án giải quyết thuận tình ly hôn nhưng do chị Y muốn cải thiện tình cảm vợ chồng nên đã rút yêu cầu. Anh đã nhiều lần tha thứ cho chị  Y nhưng chị Y không thay đổi bản thân. Tình cảm vợ chồng không được cải thiện mà mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Nay mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và kéo dài, anh không còn tình cảm với chị  Y, không có khả năng đoàn tụ nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Bích Y.

Về con chung: Anh và chị  Y có hai con chung là Th, sinh ngày 06.10.1997 và V, sinh ngày 13.09.2000. Ly hôn, chị Y có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu V và yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi cháu V là 1.500.000 đồng/tháng, anh đồng ý. Cháu Th đã thành niên nên việc cháu ở với ai do cháu tự quyết định, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Trường hợp chị Y không đồng ý nuôi cháu V thì anh đồng ý nuôi cháu V và không yêu cầu chị Y phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản (động sản, bất động sản): Anh và chị  Y không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Anh xác nhận quá trình chung sống đến nay, anh và chị  Y không vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti bản tự khai và trong quá trình xét xử, bị đơn chị Nguyễn Thị Bích Y trình bày:

Về hôn nhân: Chị nhất trí với anh H về thời gian, địa điểm và địa chỉ chung sống đúng như anh Đinh Văn H trình bày. Quá trình chung sống anh chị thường xuyên mâu thuẫn do bản thân anh H cũng chơi cờ bạc và không chăm lo vợ con. Anh H không đóng góp kinh tế để mình chị lo sinh hoạt gia đình. Anh H cũng không chung thủy. Chị thừa nhận có chơi cờ bạc nhưng để kiếm tiền nuôi các con và các chi phí khác. Những chủ nợ có đến nhà anh đòi nợ, chửi bới làm ảnh hưởng đến tình thần, sức khỏe và cuộc sống của gia đình chị. Anh H cũng phải trả nợ do cờ bạc của chị nhưng anh cũng chửi bới chị khiến chị bức xúc nên chị và anh H có xúc phạm nhau trước mặt các con. Anh H và gia đình hai bên có khuyên giải chị nhưng do chị nợ nần quá nhiều nên chị buộc phải tiếp tục cờ bạc để có tiền nhanh nhất trả nợ. Quá trình chung sống, chị và anh H cũng không có sự chia sẻ, động viên và quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau vun đắp hạnh phúc gia đình. Bản thân chị cũng rất mệt mỏi, cuộc sống chung không hạnh phúc trong thời gian dài, nhưng vì các con nên cố gắng chung sống với anh H. Nay anh H vẫn quyết định ly hôn chị, chị không đồng ý vì chị mong muốn có cơ hội sửa sai cùng anh H xây dựng cuộc sống mới và chị mong muốn con của anh chị có bố và mẹ nên chị không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Chị và anh H có hai con chung là Th, sinh ngày 06/10/1997 và V, sinh ngày 13/9/2000. Chị không đồng ý ly hôn nên không có ý kiến về con chung. Trường hợp anh H vẫn quyết định ly hôn, quan điểm của chị là không có nhà nên không nuôi được cháu V.

Về tài sản (động sản, bất động sản): Chị  Y và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Chị xác nhận quá trình chung sống đến nay anh và chị  Y không vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản án sơ thẩm số 21/2017/HNGĐ-ST ngày 17/5/2017, Tòa án nhân dân quận Đ đã xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đinh Văn H. Anh Đinh Văn H được ly hôn chị Nguyễn Thị Bích Y.

2. Về con: Anh H và chị  Y có hai con chung là  Th, sinh ngày 06/10/1997 và V, sinh ngày 13/9/2000. Giao anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. Chị  Y phải cấp dưỡng nuôi cháu V cho anh Đinh Văn H là 1.000.000 đồng/tháng (một triệu đồng). Việc cấp dưỡng được thực hiện kể từ tháng 5/2017 cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác thay thế. Cháu Th đã thành niên nên việc cháu ở với ai do cháu tự quyết định, Tòa án không xem xét giải quyết. Chị Nguyễn Thị Bích Y có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản (động sản, bất động sản, vay nợ): Anh H và chị  Y không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy không xem xét.

4. Về nợ: Anh H và chị  Y đều xác nhận không cho ai vay nợ và không vay nợ ai không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy không xem xét. Sau khi xét xử sơ thẩm, chị Nguyễn Thị Bích Y có đơn kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau để giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về tố tụng: Kháng cáo của chị Nguyễn Thị Bích Y là hợp pháp. Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đinh Văn H đối với chị Nguyễn Thị Bích Y, giải quyết vấn đề con chung và tài sản chung, nợ chung vợ chồng là có căn cứ và phù hợp pháp luật. Đề nghị HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Bích Y và văn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau này nếu các đương sự có yêu cầu giải quyết về tài sản chung, nợ chung vợ chồng và nhà ở sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Đơn kháng cáo của chị Nguyễn Thị Bích Y trong thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên chấp nhận.

- Về nội dung: Chị Nguyễn Thị Bích Y kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chị vẫn còn tình cảm muốn sống chung với anh H và con. Nếu phải ly hôn đề nghị Tòa án buộc anh H phải tạo dựng cho chị chỗ ở mới vì chị không có tiền và tài sản nào khác ngoài chỗ ở tại gia đình nhà chồng. Xét thấy anh Đinh Văn H và chị Nguyễn Thị Bích Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 10/01/1997 tại UBND phường T,  quận Đ, Hà Nội đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, anh H và chị Y đều thống nhất xác nhận mâu thuẫn vợ chồng kéo dài do chị Y chơi cờ bạc, nợ nần, vợ chồng không có niềm tin với nhau, không tôn trọng, không quan tâm chăm sóc nhau và cuộc sống chung không hạnh phúc. Cháu Th (con gái anh H và chị  Y) cũng có lời khai: “Bố mẹ cháu thường xuyên mâu thuẫn nên đánh cãi và xúc phạm lẫn nhau trước mặt các cháu do mẹ ham chơi cờ bạc không quan tâm chăm sóc bố và các cháu, ảnh hưởng đến tinh thần các cháu. Cuộc sống chung của bố mẹ cháu không hạnh phúc, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bố mẹ cháu ly hôn thì tốt hơn”. Như vậy có đủ cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng của anh H và chị  Y đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Y không đồng ý ly hôn với lý do chị vẫn còn tình cảm với anh H, muốn sống chung với anh H và các con nhưng bản thân chị  Y cũng thừa nhận tại phiên tòa phúc thẩm không có biện pháp cải thiện, hàn gắn quan hệ tình cảm vợ chồng nên kháng cáo của chị  Y về nội dung này là không có căn cứ để chấp nhận.

Về tài sản chung (động sản, bất động sản, vay nợ): Anh H và chị Y đều xác định tại Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Tại phiên tòa sơ thẩm khi chủ tọa hỏi chị  Y có yêu cầu giải quyết về tài sản chung vợ chồng và nơi ở sau ly hôn không thì chị  Y đã trả lời không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa phúc thẩm chị  Y cũng xác nhận tại phiên tòa cấp sơ thẩm chị không yêu cầu Tòa giải quyết về tài sản (động sản, bất động sản, nợ) cũng như nơi ở sau ly hôn,  nhưng do Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết cho anh H được ly hôn chị nên chị mới kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chỗ ở mới sau ly hôn cho chị vì chị không có nơi ở nào khác. Xét thấy chị  Y không yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết về tài sản chung (động sản, bất động sản, vay nợ) và nơi ở sau ly hôn nên Tòa án cấp phúc thẩm không có sơ sở để xem xét kháng cáo của chị  Y về yêu cầu anh H tạo dựng cho chị chỗ ở mới sau ly hôn. Do vậy không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Y. Sau này các đương sự có tranh chấp về yêu cầu chia tài sản chung (động sản, bất động sản, vay nợ) thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 147, Điều 148, Điều 273, Điều 276, khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 51,Điều 56, Điều 58,  Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử: Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 21/2017/HNGĐ-ST ngày 17/5/2017, Tòa án nhân dân quận Đ, Hà Nội.

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đinh Văn H. Anh Đinh Văn H được ly hôn chị Nguyễn Thị Bích Y

2. Về con: Anh H và chị  Y có hai con chung là Th, sinh ngày 06.10.1997 và V, sinh ngày 13/9/2000. Giao anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. Chị  Y phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi cháu V cho anh Đinh Văn H là 1.000.000 đồng/tháng (một triệu đồng). Việc cấp dưỡng được thực hiện kể từ tháng 5.2017 cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác thay thế. Cháu Th đã thành niên nên việc cháu ở với ai do cháu tự quyết định, Tòa án không xem xét giải quyết. Chị Nguyễn Thị Bích Y có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản (động sản, bất động sản): Anh H và chị  Y không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy không xem xét.

4. Về nợ: Anh H và chị  Y đều xác nhận không cho ai vay nợ và không vay nợ ai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí:

- Án phí sơ thẩm: Anh Đinh Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí DSST được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo BL số 05170 ngày 20/1/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Đ, Hà Nội.

- Án phí phúc thẩm: Chị Nguyễn Thị Bích Y phải chịu 300.000 đồng án phí DSPT được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng đã nộp theo BL số 0005679 ngày 29/5/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Đ, Hà Nội.

Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày 03/08/2017.

Tải về
Bản án số 81/2017/HNGĐ-PT Bản án số 81/2017/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất