Bản án số 807/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 807/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 807/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 807/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: y án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 807/2024/DS-PT
Ngày: 23 - 9 - 2024
V/v Tranh chấp di sản thừa kế
theo pháp luật và tranh chấp
hợp đồng dân sự vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Bà Hồ Thị Thành Thúy
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Trí Tuấn
Ông Phan Nhựt Bình
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành ph Hồ Chí
Minh tham gia phiên tòa: Ông Trần Đăng Ry - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 16, 23 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý
số 363/2024/TLPT-DS ngày 10 tháng 5 năm 2024 vviệc “Tranh chấp di sản
thừa kếtheo pháp luật và tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm s45/2023/DS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xsố 2373/2024/QĐPT-DS ngày 20
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Cụ Hoàng Thị N (sinh ngày 12/6/1930; chết ngày 22/6/2014).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ N: Ông Hoàng Đình K -
còn gọi là Tày (sinh ngày 02-4-1964; chết ngày 20-01-2017).
Kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông K:
Chí Nhật M, sinh năm 1964 (là vợ ông K) (có mặt khi xét xử, vắng
mặt khi tuyên án).
Anh Hoàng Gia L, sinh năm 1991 (vắng mặt).
Anh Hoàng Gia Đ, sinh năm 1993 (vắng mặt).
2
Anh Hoàng Gia K1, sinh năm 2005 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số C xóm A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện theo ủy quyền của anh L, anh Đ người giám hộ của anh
K1: Bà Chí Nhật M, sinh năm: 1964 (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số C xóm A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật
Nguyễn Thị Đ1 là Luật sư của Văn phòng L5 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt
khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Bị đơn: Thị H, sinh năm: 1960 (có mặt khi t xử, vắng mặt khi
tuyên án).
Địa chỉ: Số A xóm C, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện theo ủy quyền của H: Ông Cao T, sinh năm: 1972 (có
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số E (số M) B, phường B, thành phố Đ.
(Văn bản uỷ quyền ngày 23/8/2013).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Chị Hoàng Hạ Q, sinh năm: 1990 (có mặt).
2/ Chị Hoàng Hạ K2, sinh năm: 1992 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số A xóm C, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện theo ủy quyền của K2: Ông Cao T, sinh năm: 1972 (có
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số E (số mới 272) B, Phường B, Thành phố Đ
3/ Bà Hoàng Thị Đ2, sinh năm: 1967 (vắng mặt)
Địa chỉ: Số C N, phường X, thị xã L, tỉnh Đồng Nai.
Đại diện theo ủy quyền của Đ2: Chí Nhật M, sinh năm: 1964 (có
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số C xóm A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
4/ Ông Hoàng Minh S, sinh năm: 1950 (vắng mặt).
Địa chỉ: Xóm C, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện theo ủy quyền của ông S: Chí Nhật M, sinh năm: 1964 (
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số C xóm A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
5/ Ông Hoàng Hiện L1 (còn gọi là Sáng), sinh năm: 1955 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số C Cartier St. B, Australia.
3
Đại diện theo ủy quyền của ông L1: Chí Nhật M, sinh năm: 1964 (có
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số C xóm A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
6/ Ông Hoàng A S1, sinh năm: 1944 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A Mixty AH A, W, USA.
Đại diện theo ủy quyền của ông L1: Chí Nhật M, sinh năm: 1964 (có
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số C xóm A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
7/ Ông Hoàng Văn C, (1942 1972).
Kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông C gồm:
- Anh Hoàng Văn L2, sin năm: 1961 (vắng mặt).
- Chị Hoàng Thị V, sinh năm: 1962 (vắng mặt).
- Chị Hoàng Thị C1, sinh năm: 1964 (vắng mặt).
- Chị Hoàng Thị X, sinh năm: 1967 (vắng mặt).
- Anh Hoàng Văn L3, sinh năm: 1968 (vắng mặt).
- Chị Hoàng Thị N1, sinh năm: 1969 (vắng mặt).
- Chị Hoàng Thị X1, sinh năm: 1972 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Ninh.
8/ Ông Hoàng Văn P, sinh năm: 1947 (vắng mặt).
Địa chỉ: Xóm C, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện theo ủy quyền của ông P: Chí Nhật M, sinh năm: 1964 (có
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số C xóm A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
9/ Bà Tô Thị B, sinh năm: 1930 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A Southwest wright plaee T dale, OR 97060. USA.
Đại diện theo ủy quyền của B: Ông Đỗ Vi V1, sinh năm: 1974 (vắng
mặt).
Địa chỉ: Số I Q, phường I, thành phố Đ.
10/ Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm: 1952 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A xóm C, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
11/ Ông Hoàng Xương V2, sinh năm: 1958 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A xóm C, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
4
12/ Ông Phan Văn M1, sinh năm: 1974 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A, thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
13/ Vợ chồng ông Phùng Văn M2, sinh năm: 1966 bà Thị L4, sinh
năm: 1967 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A, phố A, ấp B, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.
14/ Ông Dương Thanh T1 (1956 2012).
Kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T1 gồm:
- Bà Ngô Thị H2, sinh năm: 1957 (vắng mặt).
- Anh Dương Quốc D, sinh năm: 1978 (vắng mặt).
- Anh Dương Quốc T2, sinh năm: 1983 (vắng mặt).
- Anh Dương Quốc K3, sinh năm: 1984 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: N, H, khu phố C, phường X, thị xã L, tỉnh Đồng Nai.
- Chị Dương Thị Lệ T3, sinh năm: 1980 (vắng mặt).
Trú tại: Hoa Kỳ.
15/ Bà Bùi Thị Lệ T4, sinh năm: 1969 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
16/ Ngân hàng N4 - Chi nhánh huyện Đ (vắng mặt).
17/ y ban nhân dân huyện Đ.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Đình C2 Phó Trưởng phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện Đ (xin xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn Thị H; người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan chị Hoàng Thị Q1 và chị Hoàng Thị K4.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn Chí Nhật
M, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1 do Chí Nhật M
làm đại diện theo ủy quyền và giám hộ trình bày:
Cha chồng tôi cụ Hoàng Văn N2 đời vợ trước cụ Thị S2. Tuy
nhiên khi đang sống với cụ S2 thì cha chồng tôi lấy mchồng tôi cụ Hoàng
Thị N làm vợ hai.
Cha chồng tôi chết m 1994, mẹ chồng tôi chết ngày 27/6/2014. Trước
khi chết cha mẹ chồng tôi không lập di chúc.
Vào năm 1962 mẹ chồng tôi cụ Hoàng Thị N đã khai phá diện tích đất
4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ. Mẹ chồng tôi
đã trực tiếp sử dụng diện tích đất này đóng thuế đầy đcho Nhà nước. Năm
5
1986 mẹ chồng tôi cưới bà Thị H về làm vợ của anh trai của chồng tôi
Hoàng A M3. Lúc này vợ chồng ông M3, H sống chung với mẹ chồng tôi
trên thửa đất này. Năm 1992 ông M3 tý đăng khai xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng diện tích đất trên. Trong Đơn xin đăng quyền sử dụng
ruộng đất ngày 30/7/1992 thì nguồn gốc được ghi nsau: trước 1975
Cha mẹ cho năm 1991”.
Ngày 09/9/1994, Ủy ban nhân dân huyện Đ đã cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số B.550625 cho ông Hoàng A M3 (chồng H) diện tích
4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ.
Ngày 20/4/2011, ông Hoàng A M3 chết không để lại di chúc.
Ngày 17/8/2011, mẹ chồng tôi cụ Hoàng Thị N đã đơn khởi kiện
Thị H ra Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương để tranh chấp về việc đòi lại
diện tích đất nói trên (trên đất một căn nhà xây cấp 4) yêu cầu chia di sản
thừa kế do ông Hoàng A M3 chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Do không biết chữ nên trong đơn khởi kiện mchồng tôi không biết n mà
chỉ lăn tay (bằng ngón trỏ phải). Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã không
yêu cầu mẹ chồng tôi phải hai người làm chứng vào đơn khởi kiện nên mẹ
chồng tôi cũng không biết việc này. Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã chấp
nhận đơn khởi kiện này để thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
Ngày 04/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã đưa vụ kiện ra
xét xử theo trình tự thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của mẹ chồng
tôi.
Sau khi bản án sơ thẩm thì phía bị đơn Thị H đã đơn kháng
cáo. Ngày 25/4/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã đưa vụ kiện này ra xét
xử theo trình tphúc thẩm đã tuyên hủy toàn bộ bản án thẩm của Tòa án
nhân dân huyện Đơn Dương.
Sau khi hồ được Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng chuyển về cho a
án nhân dân huyện Đơn Dương giải quyết lại thì đến ngày 27/6/2014 mẹ chồng
tôi đã chết do bị bệnh. Ngày 16/7/2014 chồng tôi ông Hoàng Đình K làm đơn
khởi kiện gửi cho Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương xin được tiếp tục tham
gia vụ kiện. Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã tiếp nhận đơn của chồng tôi
đến tháng 10/2014 thì chuyển hồ n Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để
xét xử theo thủ tục thẩm (thẩm quyền của cấp tỉnh) một số người
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ kiện này đang định cư ở nước ngoài.
Những người thuộc ng thừa kế thứ nhất của mẹ chồng tôi cụ Hoàng
Thị N gồm có:
Mẹ chồng tôi cụ Hoàng Thị N chung sống với cha chồng tôi cụ
Hoàng Văn N2. Lúc này cha chồng tôi đang sống hợp pháp với vợ lớn cụ
Thị S2 (còn có tên khác là S3). Hiện nay cụ Hoàng Văn N2 và cụ Hà Thị S2 đều
đã chết.
6
Con chung giữa cụ Hoàng Thị N với cụ Hoàng Văn N2 gồm có:
1-/ Hoàng Minh S, sinh năm 1950. Hiện trú tại: Xóm C, thôn N, xã K,
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
2-/ Hoàng Hiện L1, sinh năm 1955. Hiện t tại: 30 Cartier ST B,
NSW, Australia.
3-/ Hoàng A M3, chết ngày 20/4/2011.
4-/ Hoàng Đình K, chết ngày 20/01/2017.
5-/ Hoàng Thị Đ2, sinh năm 1967. Hiện cư trú tại: Số C đường N, phường
X, thị xã L, tỉnh Đồng Nai.
thời điểm này do mẹ chồng tôi vợ nhỏ của cụ Hoàng Văn N2 nên
chính quyền chế độ cũ không cấp Giấy hôn tcho mẹ chồng tôi và cụ N2.
thế 05 người con (trong đó chồng tôi) do mchồng tôi sinh ra đều được cụ
N2 làm thủ tục khai sinh là con của cụ Hoàng Văn N2 với cụ Hà Thị S2.
Tại giai đoạn thẩm phúc thẩm lần thứ nhất thì người đại diện theo
ủy quyền của bị đơn Thị H ông Cao T cho rằng căn cứ vào giấy
khai sinh thì ông Hoàng A M3 (là chồng của H) không phải con của cụ
Hoàng Thị N. Do đó, trước khi mẹ chồng tôi chết, chồng tôi đã làm đơn yêu cầu
Phòng K6 Công an tỉnh L lấy các mẫu máu, mẫu tóc của mẹ chồng tôi với chồng
tôi (Hoàng Đình K) để gửi ra Nội giám định ADN nhằm chứng minh chồng
tôi là con do mẹ chồng tôi là cHoàng Thị N sinh ra.
Kết quả xét nghiệm ADN của Trung tâm Phân tích ADN và Công nghệ di
truyền của Liên Hiệp các Hội khoa học Kỹ Thuật Việt Nam tại Nội ngày
07/7/2014 đã kết luận ông Hoàng Đình K là con của cụ Hoàng Thị N.
Toàn bộ di sản gồm diện tích đất 4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ
số 13 tại xã K, huyện Đ trên đó có một căn nhà xây cấp 4 hiện nay do bà Thị
H đang trực tiếp quản lý, sử dụng. Việc ông Hoàng A M3 qua mặt mẹ chồng tôi
cụ Hoàng Thị N để lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất
vào năm 1992 nhưng qua kết quả kiểm tra của Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Đ đã xác định cHoàng Thị N không có viết giấy tờ tặng cho ông Hoàng
A M3 diện tích đất nói trên. Do đó, việc Ủy ban nhân dân huyện Đ đã cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hoàng A M3 là không đúng. Ông Hoàng
A M3 đã chết năm 2011, hiện nay Thị H người thừa kế trực tiếp
quản lý di sản nói trên.
Trong khi Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đang thụ hồ vụ kiện này
để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì đến ngày 20/01/2017 chồng tôi bị bệnh đã
qua đời. Tôi là vợ của ông Hoàng Đình K xin được kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng trong vụ kiện tranh chấp này theo quy định của pháp luật.
7
Vợ chồng tôi 03 con chung gồm: Cháu Hoàng Gia L, sinh m 1991;
cháu Hoàng Gia Đ, sinh năm 1993 và cháu Hoàng Gia K1, sinh năm 2005. Cháu
L cháu Đ đã ủy quyền cho tôi tham gia tố tụng, riêng cháu K1 mới 13 tuổi
nên tôi sẽ đại diện cho cháu với tư cách là người giám hộ.
Yêu cầu của tôi các con tôi đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn. Xác định diện tích đất 4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ
bản đồ số 13 tại K, huyện Đ di sản thừa kế do cụ Hoàng Thị N chết để lại
để chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Riêng căn ncấp 4 trên diện
tích đất này tôi đồng ý để cho bà Thị H và hai con là chị Hoàng Hạ Q và chị
Hoàng Hạ K2 tiếp tục sử dụng, không tranh chấp.
Ngoài ra, tôi không trình bày gì thêm.
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Thị H người
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Hạ K2 là ông Lê Cao T trình bày:
Tôi không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn với do bên nguyên đơn
khởi kiện nhưng không có căn cứ.
Thị H quan hệ như thế nào với cụ Hoàng Thị N thì tôi không
biết.
Diện tích đất 4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K,
huyện Đ là do bà Thị B tặng cho bà H và ông M3. Hiện ông M3 đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Sau khi B
tặng cho thì vợ chồng H tiến nh xây dựng căn nhà cấp 4 như hiện nay và
cũng tiến hành trồng các loại cây trồng trên đất.
Bà B có quan hệ với bà H, ông M3 như thế nào thì tôi không biết.
Ngoài ra, tôi không trình bày gì thêm.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Hạ Q trình bày:
Tôi thống nhất với lời trình bày của ông Lê Cao T.
Ngoài ra, tôi không trình bày gì thêm.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị Đ2, ông Hoàng
Minh S trình bày:
Cha chúng tôi cHoàng Văn N2, chết năm 1994. Mẹ của ông cụ
Hoàng Thị N, chết năm 2014.
Cha mẹ chúng tôi chung sống với nhau sinh được 05 người con gồm:
Hoàng Minh S; Hoàng Hiện L1; Hoàng Thị Đ2; Hoàng A M3 chết năm
2011 có vợ Thị H và 02 con chung là Hoàng Hạ K2, Hoàng Hạ Q; Hoàng
Đình K chết ngày 20/01/2017 vChí Nhật M 03 con chung Hoàng
Gia L, Hoàng Gia Đ và Hoàng Gia K1.
8
Diện tích đất tranh chấp 4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13
tại K, huyện Đ mà hiện nay ông Hoàng Đình K đơn khởi kiện tranh chấp
với Thị H thì tôi xác định diện tích đất này do mẹ chúng tôi cụ Hoàng
Thị N khai phá và sử dụng trong suốt mấy chục năm qua chứ không phải tài
sản do vợ chồng ông Hoàng A M3, Mã Thị H tạo lập nên.
Trước đây khi còn sống tmchúng tôi đã làm đơn khởi kiện bà Thị
H nhưng do tuổi già, sức yếu mẹ chúng tôi đã qua đời trong khi vụ kiện chưa kết
thúc. Nay ông Hoàng Đình K tiếp tục khởi kiện bà Thị H để đòi lại diện tích
đất nói trên. Trong khi Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đang thụ hồ vụ
kiện này để giải quyết theo thủ tục thẩm thì ông Hoàng Đình K đã chết bị
bệnh ngày 20/01/2017. Vợ của ông Hoàng Đình K Chí Nhật M các con
gồm Hoàng Gia L, Hoàng Gia Đ Hoàng Gia K1 xin được kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng trong vụ kiện tranh chấp này theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của chúng tôi đối với vụ kiện này như sau:
Nếu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận tphần
đất 4.184m
2
mỗi chúng tôi xin được nhận tỷ lệ 1/5 theo đúng quy định pháp luật
về thừa kế.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Hiện L1 (Sáng)
trình bày:
Về quan hệ huyết thống: Tôi thống nhất như lời trình bày của Hoàng
Thị Đ2, ông Hoàng Minh S.
Thông qua gia đình thì tôi được biết H cho rằng khi ông M còn sống
thì ông M H xây căn nhà cấp 4 trên diện tích đất 4.184m
2
thuộc thửa
đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ thì tôi gửi một số tiền về
quy ra tiền Việt Nam 20.000.000 đồng. Sự thật vào năm 1995 khi mẹ tôi
cụ Hoàng Thị N xây căn nhà cấp 4 trên thì tôi có gửi về số USD quy ra tiền Việt
Nam 20.000.000 đồng để phụ vào cho mẹ tôi m nchứ không phải tôi gửi
về cho vợ chồng ông M, bà H.
Diện tích đất tranh chấp 4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13
tại K, huyện Đ thì tôi xác định diện tích đất này do mẹ tôi là cụ Hoàng Thị N
khai phá sử dụng trong suốt mấy chục năm qua chứ không phải tài sản do
vợ chồng ông Hoàng A M3, bà Mã Thị H tạo lập nên.
Trước đây khi còn sống thì mẹ tôi đã làm đơn khởi kiện Thị H
nhưng do tuổi già, sức yếu mtôi đã qua đời trong khi vụ kiện chưa kết thúc.
Nay em trai tôi Hoàng Đình K tiếp tục khởi kiện Thị H để đòi lại diện
tích đất nói trên.
Nếu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận thì diện
tích đất tranh chấp 4.184m
2
tôi xin được nhận tỷ lệ 1/5 theo đúng quy định pháp
luật về thừa kế của Việt Nam.
9
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Hoàng A S1 trình bày:
Cha tôi cụ Hoàng Văn N2, chết năm 1994. Mẹ tôi cụ Thị S2 (S7)
chết năm 2011.
Cha mẹ tôi chung sống với nhau sinh được 03 người con gồm: Hoàng Văn
C, Hoàng Văn P và tôi là Hoàng A S1.
Cha tôi có người vợ thứ hai là cụ Hoàng Thị N (đã chết năm 2014).
Con chung của cha tôi với cN gồm có:
- Hoàng Minh S, Hoàng Hiện L1, Hoàng A M3, Hoàng Đình K, Hoàng
Thị Đ2.
Diện tích đất tranh chấp 4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13
tại K, huyện Đ là tài sản do mẹ kế của tôi cụ Hoàng Thị N tạo lập nên chứ
không phải tài sản chung giữa cha tôi (cụ Hoàng Văn N2) với cụ Hoàng Thị N.
Do đó, tôi không bất cứ quyền lợi đối với diện tích đất nói trên nên
tôi không tranh chấp. Ý kiến của tôi đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Thị H phải
trả lại diện tích đất này cho các con của cụ Hoàng Thị N theo đúng quy định của
pháp luật Việt Nam.
- Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Hoàng Văn C anh
Hoàng Văn L2, chị Hoàng Thị V, chị Hoàng Thị C3, chị Hoàng Thị X, anh
Hoàng Văn L3, chị Hoàng Thị N1, chị Hoàng Thị X1 trình bày:
Tất cả anh em chúng tôi không liên quan gì đến diện tích đất tranh chấp.
Chúng tôi không đòi hỏi bất cứ quyền lợi đối với tài sản tranh chấp. Đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn P trình bày:
Tôi con của cụ Hoàng Văn N2, cụ Hoàng Thị S4. Cha Mẹ tôi chung
sống với nhau sinh được 03 người con gồm: Hoàng Văn C, Hoàng A S1, tôi
Hoàng Văn P. Cụ Hoàng Thị N mẹ kế của tôi, từ trước đến nay tôi không
chung sống với cụ N, nay nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ N thì
tôi không có ý kiến gì và cũng không yêu cầu chia cho tôi.
- Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Tô Thị B là ông Đỗ Vi V1 trình bày:
Bà B là chủ sở hữu một phần diện tích đất tại thửa đất số 110, tờ bản đồ s
13 tại K, huyện Đ. Nguồn gốc mảnh đất trên do hộ B khai phá tnăm
1960. người quản lý, sử dụng mảnh đất trên từ năm 1960 đến năm 1988,
trong thời gian quản nhà đất bà đã khai, nộp thuế đầy đủ theo quy định.
Tháng 4/1988 sang Mỹ định cư, trước khi đi Mỹ nhường lại quyền quản
lý, sử dụng, trông coi toàn bộ diện tích đất trên cho Thị H ông Hoàng
10
A M3, nguyện vọng của sau này trở vViệt Nam sẽ được giao lại một
phần đất trên để canh tác, dưỡng già.
- Những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Nguyễn Thị
H1, ông Hoàng Xương V2, ông Phùng Văn M2 Thị L4, ông Phan Văn
M1, ông Dương Thanh T1 trình bày:
Khi ông M3 bị bệnh thì ông M3, H vay của ông Hoàng Xương V2
số tiền 9.000.000 đồng, vay của ông Phan Văn M1 số tiền 14.000.000 đồng, vay
của ông Dương Thanh T1 05 lượng vàng 24K, vay của Nguyễn Thị H1 số
tiền 21.000.000 đồng, vay của ông Phùng Văn M2, Mã ThL4 09 cây vàng
24K. Do chỗ quen biết với ông M3 nên khi cho ông M3, H vay đều không
lập giấy tờ. Nay các ông bà yêu cầu những người thừa kế của ông M3 phải trả
cho các ông, bà số tiền, vàng ông M3, H đã vay để chữa bệnh. Ngoài ra, các
ông bà không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề nào khác.
Ngày 10/3/2016, bà Nguyễn Thị H1 có đơn rút yêu cầu độc lập.
Ngày 10/3/2016, ông Hoàng Xương V2 đơn rút yêu cầu độc lập.
Ngày 17/3/2016, ông Phùng Văn M2, Thị L4 đơn rút yêu cầu
độc lập.
Ngày 15/3/2016, ông Phan Văn M1 có đơn rút yêu cầu độc lập.
Ngày 14/12/2012, ông Dương Thanh T1 chết, những người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của ông T1 gồm: Ngô Thị H2, anh Dương Quốc D, anh
Dương Quốc T2, anh Dương Quốc K3, chị Dương Thị Lệ T3 đã được Tòa án
triệu tập nhưng vắng mặt không do Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã
tiến hành ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân thị Long Khánh,
tỉnh Đồng Nai nhưng vẫn không xác định được địa chỉ cụ thể của chị Dương Thị
Lệ T3, chỉ biết chị T3 hiện đang trú tại Hoa Kỳ.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị Lệ T4 trình bày:
Trước đây ông M3, H nợ số tiền 5.000.000 đồng nhưng nay
không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này các đồng thừa kế
của ông M3 không trả lại cho số tiền này tbà sẽ khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết bằng một vụ án khác. cũng không tranh chấp với ai trong vụ án
này và yêu cầu không đưa bà vào tham gia tố tụng trong vụ án này.
Ngoài ra, bà không trình bày gì thêm.
- Ngân hàng N4 Chi nhánh huyện Đ trình bày:
Ông M3 thế chấp cho Ngân hàng tài sản giấy chứng nhận quyền s
dụng đất để vay số tiền 50.000.000 đồng với thời hạn 36 tháng sau đó ông
M3, H đã trả hết số nợ trên cho Ngân ng, Ngân hàng đã làm thủ tục giải
chấp. Vì vậy, Ngân hàng N4 Chi nhánh huyện Đ không còn quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan gì trong vụ án trên.
11
- Đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện Đ ông Lưu Đình
C2 trình bày:
Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B. 550625 Ủy ban nhân
dân huyện Đ đã cấp cho ông Hoàng A M3 với diện tích 7.400m
2
gồm thửa
đất số 110 thửa đất số 89 tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ. Nay đnghị chỉ
thu hồi thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ diện tích
4.184m
2
. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất 110 tờ bản đồ số 13
tại K, huyện Đ không đúng đối tượng sử dụng đất không tài liệu nào
thể hiện cụ N tặng cho ông M3 (cụ N đã xác nhận tại phiên tòa thẩm ngày
04/9/2013).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 45/2023/DS-ST ngày 07 tháng 9 m
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã quyết định:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người kế thừa quyền và nghĩa
vụ t tụng của nguyên đơn cụ Hoàng Thị N là ông Hoàng Đình K (kế thừa
quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Hoàng Đình K gồm: Chí Nhật M, anh
Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K5) về việc “Tranh chấp di sản
thừa kếđối với bđơn Thị H; người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2, Hoàng Thị Đ2, ông Hoàng Minh S, ông
Hoàng Hiện L1 (Sáng), ông Hoàng A S1, ông Hoàng Văn C (kế thừa quyền
nghĩa v tố tụng của ông Hoàng Văn C gồm: Anh Hoàng Văn L2, chị Hoàng
Thị V, chị Hoàng Thị C1, chị Hoàng Thị X, anh Hoàng Văn L3, chị Hoàng Thị
N1, chị Hoàng Thị X1), ông Hoàng Văn P, bà Thị B, bà Nguyễn Thị H1, ông
Hoàng Xương V2, ông Phan Văn M1, vợ chồng ông Phùng Văn M2, Thị
L4, ông Dương Thanh T1 (kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Dương Thanh
T1 gồm: Ngô Thị H2, anh Dương Quốc D, anh Dương Quốc T2, anh Dương
Quốc K3, chị Dương Thị Lệ T3), Bùi Thị Lệ T4, Ngân hàng N4 Chi nhánh
huyện Đ, Ủy ban nhân dân huyện Đ.
- Đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung, chia di sản thửa kế diện tích đất
3000m
2
thuộc thửa đất số 59, tbản đồ số 13 diện tích đất 15.734m
2
thuộc
thửa đất số 34, 35 tờ bản đồ số 31 đều tại K, huyện Đ của cụ Hoàng Thị N
Mã Thị H.
- Đình chỉ yêu cầu Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sảncủa ông
Hoàng Xương V2, ông Phan Văn M1, Nguyễn Thị H1, vợ chồng ông Phùng
Văn M2 và bà Mã Thị L4 đối với những người thừa kế của ông Hoàng A M3.
- Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 550625 do Ủy
ban nhân n huyện Đ cấp cho ông Hoàng A M3 ngày 09/9/1994 đối với diện
tích đất 4.184m
2
(theo giấy chứng nhận QSDĐ) thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ
số 13 tại xã K, huyện Đ.
Xác định di sản thừa kế của cụ Hoàng Thị N diện tích 3.946,7m
2
(đo
đạc thực tế), trong đó đất ONT đất HNK (theo giấy chứng nhận QSDĐ)
12
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ theo kết quả đo vẽ ngày
03/3/2022 của Công Ty TNHH A.
Xác định hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ Hoàng Thị N 05
người gồm: Ông Hoàng Minh S, ông Hoàng Hiện L1, ông Hoàng A M3, ông
Hoàng Đình K, bà Hoàng Thị Đ2.
Xác định hàng thừa kế thế vị của cụ Hoàng Thị N 02 người gồm: Chị
Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2.
Xác định hàng thừa kế thnhất của ông Hoàng Đình K 04 người gồm:
Chí Nhật M, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1.
- Phân chia di sản thừa kế theo theo pháp luật của cụ Hoàng Thị N, cụ thể
như sau:
+ Giao quyền sử dụng đất và cây trồng trên đất tại vị trí số 1 và số 5 thuộc
một phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ tổng diện tích là
(363,5m
2
+ 715,7m
2)
= 1.079.2m2 (trong đó 100m2 đất ONT) tổng trị giá
là 2.780.955.000 đồng cho Chí N3 Mùi, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ,
anh Hoàng Gia K1 quản lý sử dụng.
+ Giao thửa đất vị trí s2 diện tích 736.5m2 (trong đó 300m2
đất ONT) trên đất căn nhà xây cấp 4, nhà tạm cây trồng trên đất giá trị
là 3.885.950.000đ cho Thị H, chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2 tiếp tục
quản lý sử dụng.
+ Giao quyền sử dụng đất cây trồng trên đất tại vị trí số 3 thuộc một
phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ diện tích 709.3m
2
giá trị 1.986.040.000 đồng cho ông H3 Hiện Lộc sử dụng, tuy nhiên ông
L1 hiện đang ở nước ngoài và không yêu cầu chia thừa kế nên tạm giao phần
của ông L1 cho M quản phù hợp. Sau này ông L1 tranh chấp thì giải
quyết bằng một vụ án khác.
+ Giao quyền sử dụng đất cây trồng trên đất tại vị trí số 4 thuộc một
phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13, xã K, huyện Đ diện tích là 711,7m
2
giá trị là 1.850.420.000 đồng cho bà Hoàng Thị Đ2 quản lý sử dụng.
+ Giao quyền sử dụng đất thuộc vị trí số 6 diện tích 710 m
2
thuộc
một phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13, K, huyện Đ giá là
1.349.000.000 đồng cho ông Hoàng Minh S quản lý sử dụng.
(Tất cả họa đồ đo vẽ hiện trạng đất này 03/3/2023 của Công ty A
kèm theo).
Quy định cho các đương sđược nhận di sản thừa kế bằng hiện vật được
quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký, kê khai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ thanh toán:
13
Buộc Thị H, chị Hoàng Q, chị Hoàng Hạ K2 nghĩa vụ thanh
toán lại cho các ông bà: Hoàng Thị Đ2 520.053.000đ, ông Hoàng Minh S
611.031.000đ, ông Hoàng Hiện L1 384.433.000 đồng.
Buộc bà Chí Nhật M, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia
K1 có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Hoàng Minh S số tiền 410.482.000 đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/9/2023, Hoàng Thị Q1 (người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan) kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 09/9/2023, bà Mã Thị H (bị đơn) và Hoàng Thị K4 (người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan) kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Cao T trình bày: bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án thẩm và
đình chỉ giải quyết vụ án với các căn cứ sau: Tòa án cấp thẩm buộc bà H trả
phần đất thuộc thửa 110, tờ bản đồ số 13 xã K cho Hoàng Thị N trong khi
N không chứng minh được phần đất trên của bà. Tòa án cấp thẩm chỉ căn
cứ vào biên lai nộp thuế của N trong khi biên lai thuế này không thể hiện
nộp thuế cho thửa đất nào, ở đâu. Phần đất tranh chấp có nguồn gốc là của bà Tô
Thị B cho lại vợ chồng H, hiện nay thông tin B đã chết nhưng cấp
thẩm không đưa những người thừa kế của bà B vào tham gia tố tụng.
Chí Nhật M Luật Nguyễn Thị Đ1 thống nhất trình bày: đề
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa:
- Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét x những
người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Tòa án cấp thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn có n cứ. Bị đơn người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
kháng o nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên bản án
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được kiểm tra
tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội
đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[1] Về tố tụng:
14
[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
làm trong hạn luật định phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét
xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, một số đương sự vắng mặt hoặc đơn đ
nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự này.
[2]. Xét kháng cáo của bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
Hội đồng xét xử nhận định:
Nguyên đơn cho rằng thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ
có nguồn gốc là do cụ Hoàng Thị N khai phá từ năm 1962, trong quá trình quản
lý sử dụng thì đã trực tiếp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Năm 1989,
ông Hoàng A M3 (con cụ N) kết hôn với Thị H đã tự ý tiến hành
đăng khai phần đất trên, đến ngày 09/9/1994 thì ông M3 được Ủy ban
nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất tn
nhưng không được sự đồng ý của cụ N, hiện nay Thị H các con của
H chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2 đang quản lý, sử dụng thửa đất này
nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả lại toàn bộ diện tích đất trên người kế
thừa quyền nghĩa vụ tố tụng đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu
chia di sản thừa kế do nguyên đơn cụ Hoàng Thị N chết để lại thửa đất số
110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho rằng
thửa đất trên có nguồn gốc của bà Tô Thị B, hiện nay bà Thị B đang định
tại Hoa Kỳ, trước khi sang Hoa Kđịnh thì B đã tặng cho vợ chồng
ông M3, bà H.
Xét thấy, bị đơn cho rằng thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K,
huyện Đ nguồn gốc do Thị B tặng cho nhưng không chứng chứ
chứng minh khai nhận này cũng không được nguyên đơn thừa nhận. Theo
đơn xin đăng quyền sử dụng ruộng đất của ông Hoàng A M3 (BL 81) kèm
theo biên bản xác minh ngày 23/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đơn
Dương thể hiện, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ nguồn
gốc trước 1975 cha mẹ cho năm 1991nhưng bị đơn lại không
chứng cứ chứng minh rằng nguyên đơn cụ Hoàng Thị N mẹ của ông Hoàng
A M3 tặng cho ông M3, H diện tích đất này, bên cạnh đó nguyên đơn cũng
không thừa nhận nội dung này.
Hơn nữa, người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện Đ
thừa nhận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 110, tờ bản
đồ số 13 tại xã K, huyện Đ cho ông Hoàng A M3 căn cứ vào Quyết định số
201-QĐ/ĐKTK ngày 14/7/1989 Thông số 302-TT-ĐKTK ngày
28/10/1989 của T6. Hồ đăng quyền sdụng đất của ông M3 thì nguồn
gốc đất là của cha mẹ cho. Tuy nhiên, trong hồ không tài liệu nào thể
15
hiện việc tặng cho đất nên việc cấp đất cho ông M3 không đúng đnghị
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 110 tờ bản đồ số 13
tại xã K, huyện Đ của ông M3.
Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn thẩm lần thứ
nhất tại Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, bị đơn cho rằng thửa đất tranh
chấp nguồn gốc là do bị đơn tạo lập được, trong quá trình giải quyết vụ án
tại giai đoạn phúc thẩm thì bị đơn lại cho rằng nguồn gốc thửa đất tranh chấp là
của bà Tô Thị B đang định cư tại Hoa Kỳ, trước khi xuất cảnh sang Hoa Kỳ thì
B đã tặng cho bị đơn thửa đất này nhưng bị đơn lại không chứng cứ
chứng minh người đại diện theo ủy quyền của bà Tô Thị B ông Đỗ Vi V1
cũng không có chứng cứ chứng minh rằng thửa đất tranh chấp số 110 tờ bản đồ
số 13 tại xã K, huyện Đ là của bà B và bà B tặng cho bị đơn.
Bị đơn cho rằng cụ Hoàng Thị N không phải mẹ của ông Hoàng A
M3, mẹ của ông M3 là cụ Thị S2 nên cụ N không quyền khởi kiện tranh
chấp thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ mà ông M3 đã được
Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
09/9/1994.
Hội đồng xét xử xét thấy: Cụ Hoàng Văn N2 có vợ thứ nhất là cụ Thị
S2 (còn có tên khác là S3), vợ thứ hai của cụ N2 là cụ Hoàng Thị N. Trong quá
trình chung sống thì cụ N2 với cụ N những người con chung gồm: Hoàng
Minh S, Hoàng Hiện L1, Hoàng A M3, Hoàng Đình K, Hoàng Thị Đ2.
thời điểm này do cụ S2 vhợp pháp của cụ N2 nên chính quyền chế
độ cũ không cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho cụ N2 cụ N. Vì vậy, giấy khai
sinh của các con chung của cụ N2 với cụ N đều được cụ N2 làm thủ tục khai
sinh là con của cụ Hoàng Văn N2 với cụ Hà Thị S2 (S).
Trong quá trình giải quyết vụ án thì người kế thừa quyền nghĩa vụ tố
tụng của cN ông Hoàng Đình K đơn yêu cầu Phòng K6 Công an tỉnh L
lấy các mẫu máu, mẫu tóc của cụ N với ông Hoàng Đình K đgiám định ADN
nhằm chứng minh ông K (anh ruột của ông Hoàng A M3) con đẻ của cụ N,
theo giấy khai sinh thể hiện ông K có mẹ đẻ là cụ Hà Thị S2.
Theo kết quả xét nghiệm ADN của Trung tâm Phân tích ADN Công
nghệ di truyền của Liên Hiệp các Hội khoa học Kỹ Thuật Việt Nam tại
Nội ngày 07/7/2014 đã kết luận ông Hoàng Đình K con ruột của cụ Hoàng
Thị N. vậy, căn cứ để khẳng định ông Hoàng A M3 con đẻ của cụ
Hoàng Thị N. Đồng thời, khẳng định thửa đất số 110, tờ bản đồ s13 tại K,
huyện Đ diện tích 3.946,7m
2
theo kết quả đo vẽ ngày 03/3/2022 của Công ty
Đ3 là của cụ Hoàng Thị N. Do cụ N chết không để lại di chúc nên cần hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số B 550625 do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp
cho ông Hoàng A M3 ngày 09/9/1994 đối với diện tích 4.184m
2
(thực tế
16
3.946,7m2) thuộc thửa 110, tờ bản đồ số 13, K, huyện Đ để chia di sản thừa
kế trên của cụ N để lại theo pháp luật là có căn cứ.
Cụ Hoàng Thị N (1930 2014), cha mẹ của cụ N đã chết từ lâu, cụ N
chồng là cụ Hoàng Văn N2 (chết năm 1994), con chung của cụ N và cụ N2 gồm:
Hoàng Minh S, Hoàng Hiện L1, Hoàng A M3, Hoàng Đình K, Hoàng ThĐ2.
Ngoài ra, cụ N2 cụ S2 con chung gồm: Hoàng Văn C, Hoàng Văn P
Hoàng A S1. Trong quá trình giải quyết vụ án thì ông Hoàng Văn P, ông Hoàng
A S1, người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Hoàng Văn C anh
Hoàng Văn L2, chị Hoàng Thị V, chị Hoàng Thị C1, chị Hoàng Thị X, anh
Hoàng Văn L3, chị Hoàng Thị N1, chị Hoàng Thị X1 đơn trình bày yêu cầu
xác định diện tích đất tranh chấp 4.184m
2
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13
tại xã K, huyện Đ là tài sản do mẹ kế là cụ Hoàng Thị N tạo lập nên, không phải
tài sản chung giữa cụ N2 với cụ N cho rằng không bất cứ quyền lợi gì đối
với diện tích đất trên nên không tranh chấp. Ngoài ra, cụ N không chồng
con nào khác. Năm 2014, cụ N chết không để lại di chúc nên hàng thừa kế thứ
nhất của cụ N gồm: Ông Hoàng Minh S, ông Hoàng Hiện L1, ông Hoàng A M3,
ông Hoàng Đình K, bà Hoàng Thị Đ2.
Tại bản án phúc thẩm số: 419ª/2020/DSPT ngày 16/9/2020 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh hủy một phần nội dung bản án
thẩm với do bà Chí Nhật M trình bày cụ N2 còn có hai con là Hoàng A S5
Hoàng A S6, Tòa án chưa đưa vào tham gia tố tụng. Tuy nhiên, sau khi thụ
giải quyết lại Tòa án đã tiến hành xác minh, tại biên bản xác minh ngày
07/01/2022 thể hiện anh Hoàng A S5 còn tên gọi khác Hoàng Minh S,
Hoàng A S6 có tên gọi khác là Hoàng Hiện L1.
Ông Hoàng A M3 vợ Thị H, trong quá trình chung sống thì ông
M3 với H hai con chung gồm: Chị Hoàng Hạ Q và chị Hoàng Hạ K2.
Ngoài ra, ông M3 không có con chung, con riêng, con nuôi nào khác. Ông
Hoàng A M3 chết năm 2011 chết trước cụ N nên cần xác định chị Hoàng Hạ
Q, chị Hoàng Hạ K2 người thừa kế thế vị của cụ Hoàng Thị N theo quy định
tại Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005 là có căn cứ.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì ông Hoàng Đình K chết năm 2017.
Ông Hoàng Đình K có vợ là bà Chí Nhật M. Trong quá trình chung sống thì ông
K với M các con chung gồm: Anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh
Hoàng Gia K1. Ngoài ra, ông K không vợ, con riêng, con chung, con nuôi
nào khác.
Hàng thừa kế thế vị của cụ Hoàng Thị N 02 người gồm: Chị Hoàng Hạ
Q, chị Hoàng Hạ K2.
Hàng thừa kế thứ nhất của ông Hoàng Đình K 04 người gồm: Chí
Nhật M, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1.
17
Theo kết quả đo vẽ ngày 03/3/2022 của Công ty Đ3 Chứng thư Thẩm
định giá ngày 30/6/2022 của Công ty Cổ phần Đ4 thì xác định di sản thừa kế của
cụ Hoàng N diện tích đất 3.946,7m
2
, trong đó 400m
2
ONT 3.700m
2
HNK thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ có trị giá theo giá
thị trường là 12.274.999.000 đồng. Như vậy, kphần thừa kế của mỗi người
thừa kế được hưởng là (12.274.999.000đ- 414.520.000đ (nhà) - 8.114.000đ (cây
ăn trái) trên vị trí giao cho bà H = 11.852365.000đ: 5 phần) = 2.370.473.000
đồng.
Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án tnguyên đơn yêu cầu chia di
sản thừa kế của cụ N diện tích đất 4.100m
2
(nay 3.946,7m
2
), trong đó
400m
2
ONT 3.700m
2
HNK thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K,
huyện Đ theo kết quả đo vẽ ngày 03/3/2022 của Công ty Đ3, đối với nhà xây
cấp 4 và nhà tạm do ông M, bà H xây dựng thì nguyên đơn không tranh chấp
yêu cầu giao các căn nhà này cho H các con của H chị Q, chị K2
quản sdụng. Đối với cây trồng trên đất do các đương sự cũng không
tranh chấp nên khi giao quyền sử dụng đất cho người thừa kế nào thì người thừa
kế đó được hưởng cây trồng trên đất là có căn cứ.
Do ông Hoàng Hiện L1 hiện nay đang định tại Hoa Kỳ nên cần giao
hiện vật quyền sử dụng đất cho những người thừa kế Việt Nam quản lý, sử
dụng là phù hợp.
Để đảm bảo gtrị sử dụng đất nguyên thửa nhu cầu sử dụng thực tế
của những người thừa kế đối với di sản thừa kế của cụ Hoàng Thị N để lại thì
thấy rằng:
- Theo theo kết quả đo vngày 03/3/2022 của Công ty Đ3 tvị trí số 1
thuộc một phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ diện tích
là 363.5 m2 có giá trị là 1.600.050.000 đồng, vị trí số 2 diện tích 736,5m
2
giá
trị là 3.885.950.000 đồng trên đất có căn nhà xây cấp 4 và nhà tạm do ông M, bà
H xây dựng. Hiện nay bà H chị Q, chị K2 vẫn đang quản s dụng
nguyên đơn cũng đồng ý giao thửa đất vtrí số 2 trên đất căn nhà xây cấp
4, nhà tạm và cây trồng trên đất cho bà H, chị Q, chị K2 tiếp tục quản lý sử dụng
nhưng do giá trị cao n nên cần buộc bà H, chị Q, chị K2 phải thanh toán lại
giá trị chênh lệch cho các đồng thừa kế khác căn cứ; đối với vị trí số 3
diện tích 709,3m2 giá trị 1.986.040.000đ; vị trí số 4 diện tích 711,7m2
giá trị 1.850.420.000đ; vị trí số 5 diện tích 715.7m2 giá
1.180.905.000đ vị trí số 6 có diện tích là 710.0m2 có giá trị là 1.349.000.000đ.
- Giao quyền sử dụng đất cây trồng trên đất tại vị trí số 1 số 5 thuộc
một phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ tổng diện tích là
363,5m
2
+ 715,7m
2
tổng trị giá theo giá thị trường là 2.780.955.000 đồng cho
bà Chí N3 Mùi, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1 quản lý
sử dụng phù hợp thanh toán lại giá trị chênh lệch cho các đồng thừa kế
18
khác căn cứ. Do anh K1 người chưa thành niên nên giao cho Chí N3
M là người giám hộ quản lý cho anh K1.
- Giao quyền sdụng đất cây trồng trên đất tại vị trí số 3 thuộc một
phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ diện tích 709.3m
2
trị giá theo giá thị trường là 1.986.040.000 đồng cho ông Hoàng Hiện L1, tuy
nhiên ông L1 hiện đang ở nước ngoài và không yêu cầu chia thừa kế nên tạm
giao phần của ông L1 cho M quản phù hợp. Sau này ông L1 tranh
chấp thì giải quyết bằng một vụ án khác.
- Giao quyền sdụng đất cây trồng trên đất tại vị trí số 4 thuộc một
phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13, xã K, huyện Đ diện tích là 711,7m
2
trị giá theo giá thị trường 1.850.420.000 đồng cho Hoàng Thị Đ2 quản
sử dụng là phù hợp.
- Giao quyền sử dụng đất thuộc vị trí số 6 diện tích 710 m
2
thửa đất số
110, tờ bản đồ s 13, xã K, huyện Đ trị giá theo giá thị trường
1.349.000.000 đồng cho ông Hoàng Minh S quản lý sử dụng là phù hợp.
Về nghĩa vụ thanh toán:
Buộc H, chị Q, chị K2 nghĩa v thanh toán lại cho ông L1
384.433.000 đồng, thanh toán cho bà Đ2 số tiền 520.053.000 đồng, thanh toán
cho ông S 611.031.000 đồng, nguyên đơn M nghĩa vụ thanh toán cho ông
S 410.482.800 đồng.
- Đối với việc nguyên đơn cụ Hoàng Thị N khởi kiện yêu cầu chia di sản
thừa kế của ông Hoàng A M3 cho 04 đồng thừa kế cụ Hoàng Thị N,
Thị H, chHoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2 gồm những tài sản: 01 căn nhà xây
cấp 4 diện tích 200,48m
2
ntạm B diện tích 28,8m
2
trên thửa số 110, t
bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ và diện tích 3.000m
2
thuộc thửa đất số 59, tờ bản
đồ số 13 tại xã K, huyện Đ; diện tích 15.734m
2
thuộc thửa đất số 34, 35 tờ bản
đồ số 31 tại xã K, huyện Đ thì thấy rằng: Sau khi cụ Hoàng Thị N chết thì những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn không yêu cầu tiếp tục
chia di sản thừa kế của ông M3 nên Tòa án cấp thẩm đình chỉ yêu cầu này
của nguyên đơn là có căn cứ.
- Đối với việc bđơn yêu cầu chia tài sản chung giữa bị đơn với ông M3
và chia di sản thừa kế của ông M3 chết để lại là diện tích 3.000m
2
thuộc thửa 59,
tờ bản đồ số 13; diện ch 15.734m
2
thuộc thửa đất số 34, 35 tờ bản đồ s31 tại
xã K, huyện Đ thì thấy rằng. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
tòa thẩm người đại diện theo ủy quyền của bị đơn không yêu cầu chia tài sản
chung cũng như yêu cầu chia di sản thừa kế của ông M3 nên Tòa án cấp sơ thẩm
đình đối với yêu cầu này là có căn cứ.
- Đối với việc người quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc
lập buộc những người thừa kế của ông Hoàng A M3 có nghĩa vụ thanh toán cho
ông Hoàng Xương V2 số tiền 9.000.000 đồng, thanh toán cho ông Phan Văn M1
19
số tiền 14.000.000 đồng, thanh toán cho Nguyễn Thị H1 stiền 21.000.000
đồng, thanh toán cho vợ chồng ông Phùng Văn M2, Thị L4 09 cây vàng
24K trong quá trình chữa bệnh ông M3, H đã vay mượn số tiền, vàng của
những người trên. Trong quá trình giải quyết ván thì Nguyễn Thị H1, ông
Hoàng Xương V2, vợ chồng ông Phùng Văn M2, Thị L4, ông Phan Văn
M1 có đơn rút yêu cầu độc lập nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ yêu cầu độc lập
của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trên là đúng quy định.
Đối với việc người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Dương Thanh
T1 đơn yêu cầu độc lập buộc những người thừa kế của ông Hoàng A M3
nghĩa vụ thanh toán cho ông 05 lượng vàng 24K. Trong quá trình giải quyết vụ
án thì ngày 14/12/2012 ông ơng Thanh T1 chết, những người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của ông T1 gồm: Ngô Thị H2, anh Dương Quốc D, anh
Dương Quốc T2, anh Dương Quốc K3, chị Dương Thị Lệ T3 đã được Tòa án
triệu tập nhưng vắng mặt không do đơn xin xét xử vắng mặt đồng
thời Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tiến hành ủy thác thu thập chứng cứ cho
Tòa án nhân dân thị Long Khánh, tỉnh Đồng Nai nhưng vẫn không xác định
được địa chỉ cụ thể của chị Dương Thị Lệ T3, chỉ biết chị T3 hiện nay đang định
tại Hoa Kỳ. vậy, Tòa án cấp thẩm tách yêu cầu của ông Dương Thành
T5 để giải quyết bằng vụ án khác khi những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của ông T5 có yêu cầu là có căn cứ.
- Đối với việc người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị Lệ T4
cho rằng trước đây ông M3, H nợ bà số tiền 5.000.000 đồng nhưng nay bà
không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Tòa án cấp sơ thẩm không
đề cập xem xét là có căn cứ.
- Đối với việc ông M3 thế chấp cho Ngân hàng N4 Chi nhánh huyện
Đ tài sản giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay 50.000.000 đồng, thời
hạn vay 36 tháng thì thấy rằng: Ngày 12/3/2014 H đã trả hết khoản nợ trên
cho Ngân hàng N4 Chi nhánh huyện Đ theo Công văn số: 850/NHNNĐD-
KHKD ngày 17/11/2022 của Chi Nhánh vậy Tòa án cấp thẩm không xem
xét là phù hợp.
[2.4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy kháng cáo
của bđơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không căn cứ chấp
nhận. Do đó, Hội đồng xét xử bác kháng cáo giữ nguyên bản án thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận.
[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
[4] Về án phí:
20
[4.1] Án phí dân sự thẩm: Tại phiên Tòa phúc thẩm Chí Nhật M
người cao tuổi đơn xin miễn án phí thẩm nên được hội đồng xét xử
chấp nhận miễn án phí dân sự sơ thẩm cho Chí Nhật M.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Thị H người cao tuổi nên được
miễn; chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2 phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 463, 466, 649, 650, 651, 660 của Bộ luật Dân sự năm 2005;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Thị H, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2. Giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm số 45/2023/DS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người kế thừa quyền và nghĩa
vụ t tụng của nguyên đơn cụ Hoàng Thị N là ông Hoàng Đình K (kế thừa
quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Hoàng Đình K gồm: Chí Nhật M, anh
Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K5) về việc “Tranh chấp di sản
thừa kếđối với bị đơn Thị H; người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2, Hoàng Thị Đ2, ông Hoàng Minh S, ông
Hoàng Hiện L1 (Sáng), ông Hoàng A S1, ông Hoàng Văn C (kế thừa quyền
nghĩa vtố tụng của ông Hoàng Văn C gồm: Anh Hoàng Văn L2, chị Hoàng
Thị V, chị Hoàng Thị C1, chị Hoàng Thị X, anh Hoàng Văn L3, chị Hoàng Thị
N1, chị Hoàng Thị X1), ông Hoàng Văn P, bà Thị B, bà Nguyễn Thị H1, ông
Hoàng Xương V2, ông Phan Văn M1, vợ chồng ông Phùng Văn M2, Thị
L4, ông Dương Thanh T1 (kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Dương Thanh
T1 gồm: Ngô Thị H2, anh Dương Quốc D, anh Dương Quốc T2, anh Dương
Quốc K3, chị Dương Thị Lệ T3), Bùi Thị Lệ T4, Ngân hàng N4 Chi nhánh
huyện Đ, Ủy ban nhân dân huyện Đ.
- Đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung, chia di sản thửa kế diện tích đất
3000m
2
thuộc thửa đất số 59, tbản đồ số 13 và diện tích đất 15.734m
2
thuộc
thửa đất số 34, 35 tờ bản đồ số 31 đều tại K, huyện Đ của cụ Hoàng Thị N
Mã Thị H.
- Đình chỉ yêu cầu Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sảncủa ông
Hoàng Xương V2, ông Phan Văn M1, Nguyễn Thị H1, vợ chồng ông Phùng
Văn M2 và bà Mã Thị L4 đối với những người thừa kế của ông Hoàng A M3.
21
- Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sB 550625 do Ủy
ban nhân n huyện Đ cấp cho ông Hoàng A M3 ngày 09/9/1994 đối với diện
tích đất 4.184m
2
(theo giấy chứng nhận QSDĐ) thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ
số 13 tại xã K, huyện Đ.
Xác định di sản thừa kế của cụ Hoàng Thị N diện tích 3.946,7m
2
(đo
đạc thực tế), trong đó đất ONT đất HNK (theo giấy chứng nhận QSDĐ)
thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ theo kết quả đo vẽ ngày
03/3/2022 của Công Ty TNHH A.
Xác định hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ Hoàng Thị N 05
người gồm: Ông Hoàng Minh S, ông Hoàng Hiện L1, ông Hoàng A M3, ông
Hoàng Đình K, bà Hoàng Thị Đ2.
Xác định hàng thừa kế thế vị của cụ Hoàng Thị N 02 người gồm: Chị
Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2.
Xác định hàng thừa kế thnhất của ông Hoàng Đình K 04 người gồm:
Chí Nhật M, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1.
- Phân chia di sản thừa kế theo theo pháp luật của cụ Hoàng Thị N, cụ thể
như sau:
+ Giao quyền sử dụng đất và cây trồng trên đất tại vị trí số 1 và số 5 thuộc
một phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại xã K, huyện Đ tổng diện tích là
(363,5m
2
+ 715,7m
2)
= 1.079.2m2 (trong đó 100m2 đất ONT) tổng trị giá
là 2.780.955.000 đồng cho Chí N3 Mùi, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ,
anh Hoàng Gia K1 quản lý sử dụng.
+ Giao thửa đất vị trí số 2 diện tích 736.5m2 (trong đó 300m2
đất ONT) trên đất căn nhà xây cấp 4, nhà tạm cây trồng trên đất giá trị
là 3.885.950.000đ cho Thị H, chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2 tiếp tục
quản lý sử dụng.
+ Giao quyền sử dụng đất cây trồng trên đất tại vị trí số 3 thuộc một
phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13 tại K, huyện Đ diện tích 709.3m
2
giá trị 1.986.040.000 đồng cho ông H3 Hiện Lộc sử dụng, tuy nhiên ông
L1 hiện đang ở nước ngoài và không yêu cầu chia thừa kế nên tạm giao phần
của ông L1 cho M quản phù hợp. Sau này ông L1 tranh chấp thì giải
quyết bằng một vụ án khác.
+ Giao quyền sử dụng đất cây trồng trên đất tại vị trí số 4 thuộc một
phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13, xã K, huyện Đ diện tích là 711,7m
2
giá trị là 1.850.420.000 đồng cho bà Hoàng Thị Đ2 quản lý sử dụng.
+ Giao quyền sử dụng đất thuộc vị trí số 6 diện tích 710 m
2
thuộc
một phần thửa đất số 110, tờ bản đồ số 13, K, huyện Đ giá là
1.349.000.000 đồng cho ông Hoàng Minh S quản lý sử dụng.
22
(Tất cả họa đồ đo vẽ hiện trạng đất ngày 03/3/2022 của Công ty
TNHH A kèm theo).
Quy định cho các đương sđược nhận di sản thừa kế bằng hiện vật được
quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký, kê khai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ thanh toán:
Buộc Thị H, chị Hoàng Q, chị Hoàng Hạ K2 nghĩa vụ thanh
toán lại cho các ông bà: Hoàng Thị Đ2 520.053.000đ, ông Hoàng Minh S
611.031.000đ, ông Hoàng Hiện L1 384.433.000 đồng.
BuộcChí Nhật M, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia
K1 có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Hoàng Minh S số tiền 410.482.000 đồng.
2. Về chi phí tố tụng:
Buộc Thị H, chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2 thanh toán cho
Chí Nhật M, anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1 số tiền
8.756.000 đồng.
Buộc Hoàng Thị Đ2 thanh toán cho Chí Nhật M, anh Hoàng Gia L,
anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1 số tiền 8.756.000 đồng.
Buộc ông Hoàng Hiện L1 (Sáng) thanh toán cho Chí Nhật M, anh
Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1 số tiền 8.756.000 đồng.
Buộc ông Hoàng Minh S thanh toán cho Chí Nhật M, anh Hoàng Gia
L, anh Hoàng Gia Đ, anh Hoàng Gia K1 số tiền 8.756.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án đơn u cầu thi hành án, nếu bên
phải thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng còn phải trả số
tiền lãi tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán theo quy định
tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.
3. Về án phí dân sự thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự thẩm cho ông
Hoàng Minh S, ông Hoàng Hiện L1, bà Chí Nhật M.
Buộc anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ phải chịu 39.216.420 đồng án
phí dân sự thẩm nhưng được trừ vào số tiền 200.000 đồng và 5.608.000 đồng
theo biên lai thu số 00946 ngày 13/10/2011 biên lai thu số 09214 ngày
08/8/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đơn Dương do cụ Hoàng Thị N
nộp. Buộc anh Hoàng Gia L, anh Hoàng Gia Đ còn phải nộp thêm số tiền
33.408.520 đồng.
Buộc Mã Thị H, chị Hoàng Hạ Q, chị Hoàng Hạ K2 phải chịu
39.216.420 đồng án phí dân sự thẩm nhưng được trừ vào số tiền 200.000
đồng tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp theo biên lai thu số 05566 ngày
24/10/2011 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đơn Dương. Bà Mã Thị H, chị
23
Hoàng Hạ Q, chị Hoàng HK2 còn phải nộp thêm số tiền 39.016.420 đồng án
phí dân sự sơ thẩm
Buộc Hoàng Thị Đ2 phải chịu 39.216.420 đồng án phí dân sự thẩm
nhưng được trừ vào số tiền 12.040.000 đồng án phí dân sự thẩm đã nộp theo
biên lai thu số 0001308 ngày 18/4/2017 của Cục thi hành án dân stỉnh Lâm
Đồng. Bà Hoàng Thị Đ2 còn phải nộp thêm số tiền 27.176.420 đồng.
Hoàn trả cho ông Hoàng Minh S số tiền 12.040.000 đồng tạm ứng án phí
dân sự thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0001306 ngày 18/4/2017 của Cục thi
hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng
Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị H1 số tiền 525.000 đồng tạm ứng án phí dân
sự thẩm đã nộp theo biên lai thu số: 05782 ngày 20/6/2012 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Đơn Dương.
Hoàn trả cho ông Hoàng Xương V2 số tiền 225.000 đồng tạm ứng án phí
dân sthẩm đã nộp theo biên lai thu số: 05784 ngày 20/6/2012 của Chi cục
thi hành án dân sự huyện Đơn Dương.
Hoàn trả cho ông Phùng n M2, Thị L4 số tiền 9.000.000 đồng
tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số: 05789 ngày
25/6/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đơn Dương.
Hoàn trả cho ông Phan Văn M1 số tiền 350.000 đồng tạm ứng án phí dân
sự thẩm đã nộp theo biên lai thu số: 09211 ngày 08/8/2012 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Đơn Dương.
Hoàn trả cho những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông
Dương Thanh T1 gồm: Ngô Thị H2, anh Dương Quốc D, anh Dương Quốc
T2, anh Dương Quốc K3, chDương Thị Lệ T3 số tiền 5.000.000 đồng tạm ứng
án phí dân s thẩm ông Dương Thanh T1 đã nộp theo biên lai thu số
09210 ngày 08/8/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đơn Dương
4. Các phần quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Mã Thị H được miễn.
Chị Hoàng Hạ Q chị Hoàng Hạ K2 mỗi người phải chịu 300.000 đồng
nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mỗi người đã nộp
theo các biên lai số 0008893 ngày 23/4/2024 s0008784 ngày 04/01/2024
của Cục Thi hành án tỉnh Lâm Đồng.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2
Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
24
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 Luật
thi hành án Dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều
30 Luật thi hành án.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao
- VKSND cấp cao tại TP.HCM;
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND tỉnh Lâm Đồng;
- Cục THADS tỉnh Lâm Đồng;
- NĐ (4);
- BĐ (1);
- NLQ (17);
- Lưu VP(6). HS(2) (Án PPC)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Hồ Thị Thanh Thúy
Tải về
Bản án số 807/2024/DS-PT Bản án số 807/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 807/2024/DS-PT Bản án số 807/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất