Bản án số 74/2025/DS-PT ngày 16/09/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 74/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 74/2025/DS-PT ngày 16/09/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 74/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Nguyễn Thị L kiện bà Nguyễn Thị Nh và ông Phan Văn T thanh toán tiền vay gốc và lãi
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 74/2025/DS-PT
Ngày: 16 - 9 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hi đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Nguyễn Thị Phượng.
Các Thẩm phán:
+ Bà Trần Thị Sâm.
+ Ông Nguyễn Đức Hiệp.
- Thư phiên tòa: Bùi Thị Thực Thư của Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình: Phạm Minh Ngọc
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 16/9/2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xphúc thẩm
công khai vụ án thụ số 25/2025/TLPT-DS ngày 10/7/2025 về “Tranh chấp hợp
đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 07/2025/DS-ST ngày 20/5/2025 của Toà án
nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay Toà án khu vực 3 – Ninh Bình)
bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 51/2025/QĐ-ST ngày
04/8/2025; Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 54/2025/QĐ-PT ngày
27/8/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Nguyễn Thị L, sinh năm 1972. Địa chỉ: thôn M, xã S (sau
ngày 01/01/2025 là xã P), huyện N; nay là phường T, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
*. Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Nguyễn
Ngọc K - Luật của Văn phòng L1, thuộc Đoàn luật tỉnh N. Địa chỉ: số B,
đường L, phố C, phường H, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)
2. Bị đơn: Nguyễn Thị N, sinh năm 1969 ông Phan Văn T, sinh năm
1964. Cùng địa chỉ: xóm D, G, huyện G (nay phường T), tỉnh Ninh Bình.
(Có mặt)
2
3. Người làm chứng: ông Nguyễn Tuấn K1. Đa chỉ: xóm A, xã G, huyện G,
tỉnh Ninh Bình (nay là phường T), tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)
4. Người kháng cáo: bà Nguyễn Thị L (nguyên đơn), Nguyễn Thị N (bị
đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đngày 06/9/2024, đơn bổ sung đơn khởi kiện, trong q
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị L người đại diện hợp pháp
của nguyên đơn trình bày:
Do quan hquen biết ttrước nên từ m 2022 đến năm 2024 L cho
vợ chồng bà N ông T vay tiền 08 lần để mua sắm đồ đạc gia đình, cụ thể:
Lần 1: ngày 14/3/2022 (tức ngày 12/02/2022 âm lịch) cho vay số tiền
200.000.000 đồng.
Lần 2: ngày 11/5/2022 (tức 11/4/2022 âm lịch) cho vay stiền 80.000.000
đồng.
Lần 3: ngày 03/6/2022 (tức 05/5/2022 âm lịch) cho vay stiền 80.000.000
đồng.
Lần 4: ngày 29/6/2022 (tức 01/6/2022 âm lịch) cho vay số tiền 20.000.000
đồng.
Lần 5: ngày 12/8/2022 (tức 05/7/2022 âm lịch) cho vay số tiền
100.000.000 đồng ngày 18/8/2022 (tức ngày 11/7/2022 âm lịch) cho vay tiếp
số tiền 100.000.000 đồng.
Lần 6: ngày 24/11/2022 (tức 07/11/2022 âm lịch) cho vay s tiền
30.000.000 đồng.
Lần 7: ngày 12/01/2023 (tức 21/12/2022 âm lịch) cho vay số tiền
20.000.000 đồng.
Lần 8: ngày 24/02/2023 (tức 05/02/2023 âm lịch) cho vay số tiền
200.000.000 đồng.
Mức lãi suất bà L áp dụng là 1,667%/tháng theo lãi suất của Ngân hàng N1.
Từ khi cho vay tiền, bà L đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng bà N ông T phải trả tiền
cho nhưng vợ chồng N ông T không trả. Do đó bà yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc vợ chồng N ông T phải trả số tiền tính đến ngày 31/8/2024
1.157.132.600 đồng; trong đó nợ gốc 830.000.000 đồng, lãi 327.132.600
đồng.
Tại buổi làm việc ngày 10/3/2025 người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
đề nghị Tòa án buộc vợ chồng N ông T phải trả cho L số tiền nợ gốc
830.000.000 đồng, về tiền lãi yêu cầu N, ông T phải trả lãi phát sinh theo quy
định của pháp luật cho đến khi bà N ông T thanh toán xong toàn bộ nợ gốc.
3
Tại đơn xin rút một phần đơn khởi kiện ngày 28/4/2025, nguyên đơn xin rút
một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu bị đơn phải trả tổng số tiền
150.000.000 đồng, cụ thể: đối với khoản vay ngày 14/3/2022 (tức ngày
12/02/2022 âm lịch) với số tiền 50.000.000 đồng (nguyên đơn chỉ yêu cầu N
ông T phải trả 150.000.000 đồng của lần vay này); đối với khoản vay ngày
03/6/2022 (tức là 05/5/2022 âm lịch) với số tiền 80.000.000 đồng; đối với khoản
vay ngày 12/01/2023 (tức là 21/12/2022 âm lịch) với số tiền 20.000.000 đồng.
Tại phiên tòa thẩm, phía nguyên đơn xác định việc giao dịch vay mượn
tiền chỉ L, bà N thực hiện, không có ai chứng kiến. N tự ký, viết tên của
N, ông T trên các Giấy vay tiền. Tại thời điểm giao dịch vay mượn, ông T
không biết. Đối với Giấy vay tiền ghi ngày 12/02/2022 (âm lịch) dấu bút sửa
số “2” và số “3”, bà L xác định là năm 2022 (âm lịch). Nguyên đơn yêu cầu N,
ông T phải trách nhiệm trả nợ số tiền vay gốc 680.000.000 đồng và tiền lãi
theo quy định của pháp luật tngày vay theo từng Giấy vay tiền đến ngày xét xử,
đồng thời N ông T còn phải tiếp tục trả lãi từ ngày tiếp theo ngày xét xử cho
đến khi trả hết toàn b số nợ.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, bị đơn bà Nguyễn
Thị N trình bày:
Khoảng năm 2022 2023, bà không nhớ rõ thời gian, bà có vay tiền của bà
L nhiều lần với tổng số tiền là 100.000.000 đồng tiền gốc, khoản tiền vay có tính
lãi suất 15%/tháng, việc vay mượn chỉ một mình thực hiện, ông T không
biết. N đã thanh toán lãi đầy đủ cho L, đến tháng 6 năm 2024 thì không
thanh toán được tiền lãi nữa. Khi vay chỉ hai bên với nhau, tiền gốc vay bằng
tiền mặt, trả lãi cũng trả bằng tiền mặt. Việc giao nhận tiền chỉ hai bên với
nhau, không có ai chứng kiến.
Đối với các giấy vay nợ đang lưu trữ trong hồ sơ vụ án do bà L giao nộp, bà
N xác nhận các chữ ký xác nhận người vay trong giấy nợ đều do N ghi
tên. Tuy nhiên việc tên là do bị ép buộc. Ngày 17/4/2024 ông Nguyễn
Văn K2 cùng người tên M 04 người khác bà không biết tên đến tìm bà ở nhà
hàng M1 để đe dọa ép bà ký tên vào các giấy vay nợ. Việc L yêu cầu vợ chồng
ông bà trả số tiền nợ gốc là 680.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định
của pháp luật cho đến khi thanh toán xong toàn bộ nợ gốc thì bà N không đồng ý
không đúng số tiền vay. Về Giấy vay tiền ghi ngày 12/02/2022 (âm lịch) có ghi
bút sửa năm, bà xác định ngày của Giấy vay tiền là ngày 12/02/2022 (âm lịch) là
đúng. Bà N đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bị đơn ông Phan Văn T trình bày: việc L và N vay tiền của nhau khi
nào thì ông không biết. Đến khoảng năm 2023 khi L đến nđòi tiền thì ông
được biết bà N vay bà L với số tiền là 100.000.000 đồng. Việc bà N vay tiền của
L không liên quan đến ông. Gia đình ông cũng không nhu cầu sử dụng số
tiền lớn như vậy, không xây sửa nhà, không mua sắm đồ đạc gì. Trong các Giấy
4
vay tiền L giao nộp cho Tòa án, phần ghi T Phan Văn T” không phải do ông
ký, viết do vợ ông giấu ông viết tên ông. Việc bà L yêu cầu vợ chồng
ông bà trả số tiền nợ gốc là 680.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định
của pháp luật cho đến khi thanh toán xong toàn bộ nợ gốc, ông T không đồng ý.
Ông T đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự thẩm số 07/2025/DS-ST ngày 20/5/2025, Toà án nhân
dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay Toà án khu vực 3 Ninh Bình) đã
quyết định: căn cứ các điều 357, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, điểm
b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nghị quyết số 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Quyết
định 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng N1 quy định mức lãi suất
bản bằng đồng Việt Nam. Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xử: buộc bà N phải trả cho L
tổng số tiền tính đến ngày 20/5/2025 865.718.500 đồng, bao gồm 680.000.000
đồng nợ gốc nợ lãi phát sinh tính đến ngày 20/5/2025 185.718.500 đồng.
N còn phải tiếp tục chịu lãi theo mức lãi suất 10%/năm trên nợ gốc chưa trả
từ ngày 21/5/2025 cho đến khi trả hết ngốc. Đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện
của L đối với số tiền 150.000.000 đồng. Ngoài ra, bản án còn tuyên lãi suất
chậm trả, án phí, quyền kháng cáo cho các bên đương sự, quyền, nghĩa vthi
hành án.
Ngày 30/5/2025, nguyên đơn Nguyễn Thị L nộp trực tiếp đơn kháng
cáo, kháng cáo một phần quyết định của bản án thẩm với nội dung như sau:
trong các giấy vay tiền đều thể hiện việc bà N vay tiền để mua sắm đồ đạc trong
gia đình. Ông T cũng biết N vay tiền của nguyên đơn. Tuy nhiên, trong phần
quyết định của bản án, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 27, Điều 37 Luật
Hôn nhân Gia đình để buộc ông T cùng với N phải trả tiền gốc lãi cho
nguyên đơn chưa đúng pháp luật. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông T
cùng bà N phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc lãi như bản án thẩm đã tuyên.
Ngày 26/5/2025, bị đơn Nguyễn Thị N gửi đơn kháng cáo đề ngày
24/5/2025 qua dịch vụ bưu chính nộp trực tiếp đơn kháng cáo đề ngày
29/5/2025. Bà N kháng cáo phần quyết định của bản án thẩm với nội dung như
sau: hai bên có thỏa thuận lãi suất miệng, bà không vay số tiền 680.000.000 đồng
và tiền lãi như bản án sơ thẩm đã tuyên. Đề nghị Tòa án xác định bà chỉ vay bà L
số tiền 100.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà L có quan điểm: bà vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình, không
chấp nhận nội dung kháng cáo của bà N.
N quan điểm: bà vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình, không
chấp nhận nội dung kháng cáo của bà L.
5
Ông T có quan điểm: đồng ý yêu cầu kháng cáo của N, không chấp nhận
nội dung kháng cáo của bà L.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát như sau: trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa nguyên đơn, bị đơn đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng: khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đề
nghị Hội đồng xét xử: không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị L, chấp
nhận một phần kháng cáo của Nguyễn Thị N. Sửa bản án số 07/2025/DS-ST
ngày 20/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn (nay Tòa án nhân dân khu
vực 3), tỉnh Ninh Bình tại mục 1 phần quyết định của bản án như sau: buộc
Nguyễn Thị N phải trả cho bà Nguyễn Thị L tổng số tiền tính đến ngày 20/5/2025
là 865.718.500 đồng, bao gồm 680.000.000 đồng nợ gốc nợ lãi phát sinh tính
đến ngày 20/5/2025 là 185.718.500 đồng. Bà Nguyễn Thị N còn phải chu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự kể từ ngày 21/5/2025 đến khi thi hành án xong. Án phí
dân sphúc thẩm: Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị N đều không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm, trả lại tiền tạm ứng án pđã nộp cho L, tiền tạm ứng
án phí đã nộp cho bà N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng.
[1.1] Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị L và đơn kháng cáo của Nguyễn
Thị N làm trong thời hạn pháp luật quy định và đúng hình thức, nội dung nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Tuấn K1 đã được Toà án triệu
tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 296 ca Bộ luật Tố tụng dân
sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử vụ án theo quy định ca pháp luật.
[1.3] Về phạm vi xét xử phúc thẩm.
Đơn kháng cáo của L, N nội dung kháng cáo một phần bản án
thẩm. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự về phạm vi xét xử phúc thẩm, Hội
đồng xét xử phúc thẩm xem xét phần bản án thẩm theo nội dung đơn kháng
cáo của bà L, bà N.
[2] Về nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị N.
[2.1] Đối với số tiền gốc.
Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp thẩm, nguyên đơn đã giao nộp
cho Toà án các Giấy vay tiền (bản gốc) thể hiện: bà N, ông T vay bà L 07 lần với
tổng số tiền gốc là 680.000.000 đồng, cụ thể.
6
Lần 1: ngày 14/3/2022 (tức ngày 12/02/2022 âm lịch): vay 150.000.000
đồng;
Lần 2: ngày 11/5/2022 (tức ngày 11/4/2022 âm lịch): vay 80.000.000 đng;
Lần 3: ngày 29/6/2022 (tức ngày 01/6/2022 âm lịch): vay 20.000.000 đồng;
Lần 4: ngày 02/8/2022 (tức ngày 05/7/2022 âm lịch): vay 100.000.000 đồng;
Lần 5: ngày 08/8/2022 (tức ngày 11/7/2022 âm lịch): vay 100.000.000 đồng;
Lần 6: ngày 30/11/2022 (tức ngày 07/11/2022 âm lịch): vay 30.000.000
đồng;
Lần 7: ngày 24/02/2023 (tức ngày 05/02/2023 âm lịch): vay 200.000.000
đồng.
N xác định về Giấy vay tiền ghi ngày 12/02/2022 (âm lịch) ghi bút sửa
năm, xác định ngày của Giấy vay tiền ngày 12/02/2022 (âm lịch) đúng.
Đồng thời, bà N xác định tkhoảng năm 2022, năm 2023, bà không nhớ thời
gian, bà có vay tiền của bà L nhiều lần với tổng số tiền là 100.000.000 đồng tiền
gốc. Còn khoản tiền 580.000.000 đồng thì bà N không thừa nhận.
Tại phiên toà, N thừa nhận: chữ trong 07 Giấy vay tiền nêu trên là đúng
chữ của N nhưng N tên do vào ngày 17/4/2024 tại nhà hàng M1
(nhà hàng này không camera), N bị 6 người (trong đó người tên K1)
ép bà ký tên vào các Giấy vay tiền.
Toà án cấp sơ thẩm đã tiến hành làm việc với ông Nguyễn Tuấn K1 nhưng
không làm việc được do ông K1 vắng mặt không nhà. Đến ngày 07/3/2025 Tòa
án cấp sơ thẩm nhận được bản tự khai ghi tên ông K1 (không ghi ngày tháng, chỉ
ghi năm 2025) gửi qua đường bưu điện nội dung giữa ông K1 L, N,
ông T mối quan hệ quen biết và giữa các bên không có mâu thuẫn . Bà L, bà
N không nhờ vả điều gì nên ông không có liên quan gì đến bà L bà N.
Quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp thẩm, phúc thẩm, L, N
đều thừa nhận: việc vay mượn chỉ có bà L và bà N thực hiện, ông T không biết;
bà N là người trực tiếp ký, ghi tên ông T trong các Giấy vay tiền. Khi vay chỉ có
L, N với nhau, không ai chứng kiến. Căn cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, các tình tiết nêu trên là những tình tiết, sự kiện không phải
chứng minh.
Toà án cấp sơ thẩm đã xác định không căn cứ để buộc ông T phải chịu
trách nhiệm đối với số tiền N vay của L nên không áp dụng Điều 27, Điều
37 Luật Hôn nhân và Gia đình là đúng pháp luật. Như vậy, đối với yêu cầu kháng
cáo của L về việc buộc ông T (chồng bà N) phải cùng với bà N trả cho L số
tiền gốc và lãi là không có căn cứ.
7
Việc N không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh N bị 06
người ép bà N ký tên vào các Giấy vay tiền. Tên tuổi địa chỉ ca những người ép
N ký, N cũng không nắm rõ. N cũng không đề nghị Tòa án giám định
chữ ký, chữ viết trong các Giấy vay tiền do bà L cung cấp.
Xét thấy, việc N vay tiền 680.000.000 đồng của L hoàn toàn tự
nguyện, không bép buộc, mục đích nội dung của giao dịch dân skhông vi
phạm điều cấm của luật. Giao dịch dân sự là hợp đồng vay tài sản giữa L và bà
N hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 116, Điều 117, Điều 463 của Bộ
luật Dân sự năm 2015. Bà L và bà N phi thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung
đã cam kết.
Kể từ ngày vay đến nay, bà N chưa trả được số tiền gốc nêu trên cho nguyên
đơn. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, buộc N phải trả cho bà L số tiền gốc 680.000.000 đồng đúng
pháp luật.
[2.2] Đối với số tiền lãi.
Về xác định mức lãi suất: tại các Giấy vay tiền, bà L và bà N không thể hiện
có thoả thuận về lãi suất. Quá trình giải quyết vụ án, L và bà N đều thừa nhận
hai bên thoả thuận bằng miệng về việc bà N vay tiền lãi suất. Tuy nhiên, về
mức lãi suất hai bên đương sự trình bày sự mâu thuẫn nhau. Nguyên đơn trình
bày mức lãi suất cho vay là 1,667%/tháng. Bị đơn trình bày mức lãi suất vay
15%/tháng đối với số tiền gốc 100.000.000 đồng. Các bên đương sự không xuất
trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh về số tiền lãi cụ thể mà bà N đã trả cho
nguyên đơn. Hội đồng xét xử xác định N vay bà L tổng s tiền gốc
680.000.000 đồng thuộc dạng hợp đồng vay không kỳ hạn và có lãi.
Hội đồng xét xxác định mức lãi suất hai bên trình bày sự mâu thuẫn,
thuộc trường hợp các bên thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định
lãi suất có tranh chấp về lãi suất, căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 5 của Nghị
quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; lãi suất được
xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 468 của
Bộ luật Dân snăm 2015 tại thời điểm trả nợ. Do đó, mức lãi suất áp dụng đối
với số tiền bà N vay là 0,83%/tháng (10% : 12 tháng).
Về thời gian trả lãi: phía nguyên đơn yêu cầu trả lãi từ ngày vay theo từng
lần vay tiền đến khi xét xử sơ thẩm (ngày 20/5/2025). Do đó, số tiền lãi N phải
trả cho nguyên đơn là:
Lần 1: ngày 14/3/2022 (tức ngày 12/02/2022 âm lịch): vay 150.000.000
đồng. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 03 năm 02 tháng 06 ngày.
8
Số tiền lãi là: (150.000.000 đồng x 3 năm x 10%/năm) + (150.000.000 đồng
x 02 tháng x 10%/12 tháng) + (150.000.000 đồng x 06 ngày x 10%/365 ngày) =
47.746.575 đồng, làm tròn 47.746.500 đng.
Lần 2: ngày 11/5/2022 (tức ngày 11/4/2022 âm lịch): vay 80.000.000 đồng.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 03 năm 09 ngày.
Số tiền lãi là: (80.000.000 đồng x 3 năm x 10%/năm) + (80.000.000 đồng x
09 ngày x 10%/365 ngày) = 24.197.260 đồng, làm tròn 24.197.000 đồng.
Lần 3: ngày 29/6/2022 (tức ngày 01/6/2022 âm lịch): vay 20.000.000 đồng.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 02 năm 10 tháng 21 ngày.
Số tiền lãi là: (20.000.000 đồng x 2 năm x 10%/năm) + (20.000.000 đồng x
10 tháng x 10%/12 tháng) + (20.000.000 đồng x 21 ngày x 10%/365 ngày) =
5.781.734 đồng, làm tròn 5.781.500 đồng.
Lần 4: ngày 02/8/2022 (tức ngày 05/7/2022 âm lịch): vay 100.000.000 đồng.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 02 năm 9 tháng 18 ngày.
Số tiền lãi là: (100.000.000 đồng x 2 năm x 10%/năm) + (100.000.000 đồng
x 9 tháng x 10%/12 tháng) + (100.000.000 đồng x 18 ngày x 10%/365 ngày) =
27.993.150 đồng, làm tròn 27.993.000 đng.
Lần 5: ngày 08/8/2022 (tức ngày 11/7/2022 âm lịch): vay 100.000.000 đồng.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 02 năm 9 tháng 12 ngày.
Số tiền lãi là: (100.000.000 đồng x 2 năm x 10%/năm) + (100.000.000 đồng
x 9 tháng x 10%/12 tháng) + (100.000.000 đồng x 12 ngày x 10%/365 ngày) =
27.828.767 đồng, làm tròn 27.828.500 đng.
Lần 6: ngày 30/11/2022 (tức ngày 07/11/2022 âm lịch): vay 30.000.000
đồng. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 02 năm 5 tháng 20 ngày.
Số tiền lãi là: (30.000.000 đồng x 2 năm x 10%/năm) + (30.000.000 đồng x
5 tháng x 10%/12 tháng) + (30.000.000 đồng x 20 ngày x 10%/365 ngày) =
7.414.383 đồng, làm tròn 7.414.000 đồng.
Lần 7: ngày 24/02/2023 (tức ngày 05/02/2023 âm lịch): vay 200.000.000
đồng. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 02 năm 2 tháng 26 ngày.
Số tiền lãi là: (200.000.000 đồng x 2 năm x 10%/năm) + (200.000.000 đồng
x 2 tháng x 10%/12 tháng) + (200.000.000 đồng x 26 ngày x 10%/365 ngày) =
44.757.990 đồng, làm tròn 44.758.000 đng.
Tổng cộng số tiền lãi: 47.746.500 đồng + 24.197.000 đồng + 5.781.500 đồng
+ 27.993.000 đồng + 27.828.500 đồng + 7.414.000 đồng + 44.758.000 đồng =
185.718.500 đồng.
Tổng cộng số tiền gốc và lãiN phải trả cho nguyên đơn là:
9
680.000.000 đồng + 185.718.500 đồng = 865.718.500 đồng.
[2.3] Đối với số tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Bà N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là:
36.000.000 đồng + (3% x 65.718.500 đồng) = 37.971.555 đồng, làm tròn
37.971.500 đồng.
[3] Mục 2 phần quyết định của bản án thẩm không bkháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, ngoài phạm vi xét xử phúc thẩm nên hiệu lực
pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Từ những nhận định trên, xét thấy: tại phiên toà phúc thẩm, bà L, bà N
không xuất trình tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo
nên Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà L, không chấp
nhận toàn bộ kháng cáo của N; giữ nguyên quyết định ca bản án sơ thẩm đối
với số tiền gốc, số tiền lãi mà bà N phải thanh toán cho bà L và phần án phí dân
sự sơ thẩm.
Tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về lãi suất do các
bên thoả thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Toà án cấp sơ
thẩm đã nhận định phần quyết định của bản án đã áp dụng Quyết định số
2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng N1 quy định mức lãi suất
bản bằng đồng Việt Nam là không đúng pháp luật. Mặt khác, Toà án cấp sơ thẩm
tuyên phần quyết định lãi, lãi suất trong bản án nội dung: “Bà Nguyễn Thị N
còn phải tiếp tục chịu lãi theo mức lãi suất 10%/năm trên nợ gốc chưa trả tngày
21/5/2025 cho đến khi trả hết nợ gốc. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật
đơn yêu cầu thi hành án, bên nghīa vụ trả tiền chậm trả tiền tcòn phải
trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự” chưa
chính xác theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11/01/2019, gây khó khăn trong quá trình thi hành án. Tuy nhiên,
những nội dung nêu trên không làm thay đổi bản chất của vụ án nên Toà án cấp
phúc thẩm chỉ cần chỉnh lại phần quyết định cho ràng, chính xác, thuận tiện
trong qtrình thi hành án. Toà án cấp thẩm cần rút kinh nghiệm vvấn đề
nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xkhông chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc sửa bản án dân sthẩm tại mục 1
phần quyết định bản án.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm.
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà L, bà N phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
10
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; các điều 357, 463, 466, 468, 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều
29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị L.
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị N.
3. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 07/2025/DS-ST ngày 20/5/2025
của Toà án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay Toà án khu vực 3
Ninh Bình), c thể:
Buộc bà Nguyễn Thị N phải trả cho Nguyễn Thị L tổng số tiền là
865.718.500 đồng (T1 trăm sáu mươi m triệu, bảy trăm mười tám nghìn, năm
trăm đồng), bao gồm: 680.000.000 đng (Sáu trăm tám mươi triệu đồng) tiền gốc
185.718.500 đồng (Một trăm tám mươi lăm triệu, bảy trăm mười tám nghìn,
năm trăm đồng) tiền lãi.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp
luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất tquyết định theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyễn Thị L không phải chịu án phí dân sự thẩm; được hoàn trả lại
số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 20.000.000 đồng theo Biên lai số 0001026 ngày
09/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự thẩm 37.971.500 đồng (Ba
mươi bảy triệu, chín trăm bảy mươi mốt nghìn, năm trăm đồng) án phí dân sự sơ
thẩm.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm.
Nguyễn Thị L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai s 0000865 ngày 30/5/2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay Phòng Thi hành án dân sự
khu vực 3 – Ninh Bình). Bà Nguyễn Thị L đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai s 0000866 ngày 02/6/2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay Phòng Thi hành án dân sự
khu vực 3 – Ninh Bình). Bà Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
11
6. Mục 2 phần quyết định của Bản án dân sự thẩm s07/2025/DS-ST
ngày 20/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nayTòa
án nhân dân khu vực 3 – Ninh Bình) không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 LuậtThi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
16/9/2025).
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- Phòng Giám đốc, kiểm tra,
thanh tra và thi hành án;
- TAND khu vực 3 – Ninh Bình;
- THADS tỉnh Ninh Bình;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án. VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Phượng
Tải về
Bản án số 74/2025/DS-PT Bản án số 74/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 74/2025/DS-PT Bản án số 74/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất